Bản án số 77/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 77/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 77/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 77/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp vay tài sản NĐ ông Nguyễn Văn H, BĐ ông Mai Văn C
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 77/2025/DS-PT
Ngày: 14 - 02 -2025
V/v tranh chấp hợp đồng
vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Thanh.
Bà Trần Thị Thanh Trúc;
Ông Nguyễn Văn Tài.
- Thư phiên a: Nguyễn Thị Thùy Trang - Thư Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh nh Dương tham gia phiên
tòa: Bà Trần Thị Phước - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 712/2024/TLPT-DS ngày
11/12/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 194/2024/DS-ST ngày 26/9/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 582/2024/QĐPT-DS,
ngày 26/12/2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 33/2025/QĐ-PT
ngày 14/01/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1954; địa chỉ: số F, tổ A,
khu phố Đ, phường B, thành phố T, tỉnh nh Dương; địa chỉ liên lạc: số G,
đường N, khu dân P, tổ C, khu phố G, phường P, thành phố T, tỉnh Bình
Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Thế A, sinh năm 1976;
địa chỉ: sG, đường N, khu dân P, tổ C, khu phố G, phường P, thành phố T,
tỉnh Bình Dương, người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày
05/7/2024), có mặt.
2
- Bị đơn: Ông Mai Văn C, sinh năm 1952; địa chỉ: số B, khu phố H,
phường P, thành phố T, tỉnh nh Dương. Ngày 13/02/2025, ông C đơn yêu
cầu xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Thị Mỹ H1,
sinh năm 1978; địa chỉ: số I đường L, khu phố E, phường P, thành phT, tỉnh
Bình Dương, Luật của Văn phòng Luật Tấn Đ thuộc Đoàn Luật
Thành phố H. Ngày 13/02/2025, ThMỹ H1 đơn yêu cầu t xử vắng
mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Mai Văn C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm, nguyên đơn là ông Nguyễn Văn H người đại diện hợp
pháp của nguyên đơn là ông Lê Thế A trình bày:
Giữa ông H và bị đơn ông Mai Văn C đồng nghiệp làm chung quan
trong quân đội nên quen biết thân tình với nhau. Trong lúc khó khăn, từ năm
2017 đến năm 2020, nhiền lần ông C hỏi vay tiền của ông H để sử dụng trong
chi tiêu, sinh hoạt, khi cho vay tiền hai bên chỉ thống nhất m giấy viết tay để
xác nhận số tiền đã vay thời gian hoàn trả. Hai bên chỉ thỏa thuận miệng ông
C phải trả lãi vay cho ông H đđảm bảo đồng tiền không bị giảm giá trị theo
thời gian còn mức lãi suất bao nhiêu thì hai bên không thỏa thuận.
Từ lúc vay tiền đến khoảng cuối năm 2022, đầu m 2023, ông C 03
đến 04 lần gửi trả lãi cho ông H với tổng số tiền 208.000.000 đồng. Để tránh s
nhằm lẫn do nhiều lần vay nên đến ngày 22/7/2023, giữa ông H bị đơn (ông
C) chốt nợ lập thành 01 văn bản viết tay thành số nchung 900.000.000
đồng (chín trăm triệu đồng). Sau khi chốt nợ, nhiều lần ông H đòi nợ nhưng ông
C chỉ trả được 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) tiền gốc, còn lại
850.000.000 đồng (tám trăm năm mươi triệu đồng) bị đơn né tránh không trả nợ.
Ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn ông Mai Văn C
trách nhiệm thanh toán cho ông H tiền nợ gốc 850.000.000 đồng và tiền lãi trong
12 tháng tính từ tháng 7/2023 đến tháng 7/2024 với mức lãi suất 10%/năm
(tương đương 0,83%/tháng), cụ thể: 850.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 12
tháng = 84.660.000 đồng, tổng cộng gốc lãi yêu cầu bị đơn (ông C) thanh
toán 934.660.000 đồng. Tại phiên tòa thẩm, người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn ông Thế A thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện về lãi suất:
yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền nợ gốc 900.000.000 đồng tiền lãi suất
chậm trả tính từ ngày xác lập nợ 22/7/2023 đến ngày xét xử thẩm 26/9/2024
tính tròn thành 14 tháng x lãi suất 2%/tháng x 900.000.000 đồng =
252.000.000 đồng. Số tiền lãi được khấu trừ vào số tiền 50.000.000 đồng, ông C
3
đã thanh toán vào tháng 6/2024 (252.000.000 đồng 50.000.000 đồng) nên số
tiền lãi buộc ông C còn phải thanh toán là 202.000.000 đồng. Tổng cộng yêu cầu
bị đơn ông Mai Văn C phải thanh toán gốc và lãi đến ngày xét xử thẩm
1.102.000.000 đồng (một tỷ một trăm lẻ hai triệu đồng).
Chứng cứ do nguyên đơn đã nộp tại Tòa án cấp thẩm đchứng minh
cho yêu cầu khởi kiện Giấy vay tiềnđề ngày 22/7/2023; Thông báo đòi nợ
ngày 27/6/2024, hình ảnh chụp hồ sơ gửi thông báo đòi nợ (bản photocopy).
- Bị đơn là ông Mai Văn C trình bày:
Ông Chính xác N từ năm 2017 đến năm 2020, ông C đã 04 lần vay tiền
của ông H để chi tiêu, thời hạn vay từ 06 tháng đến 01 năm, do đồng nghiệp
cùng quan giúp đỡ nhau nên giữa ông H ông C không thỏa thuận lãi suất,
tổng số tiền vay là 900.000.000 đồng, cụ thể như sau:
- Lần 1: Ngày 20/12/2017 vay 300.000.000 đồng, thời hạn vay 01 năm
(20/12/2017 đến 20/12/2018);
- Lần 2: Ngày 22/12/2017 vay 100.000.000 đồng, thời hạn vay 01 năm
(22/12/2017 đến 22/12/2018);
- Lần 3: Ngày 27/3/2018 vay 300.000.000 đồng, thời hạn vay 06 tháng
(27/3/2018 đến 27/9/2018);
- Lần 4: Ngày 29/02/2020 vay 200.000.000 đồng, thời hạn vay 06 tháng
(29/02/2020 đến 29/8/2020).
Từ tháng 01/2022 đến tháng 6/2023, ông C đã thanh toán tiền gốc cho ông
H nhiều lần với tổng số tiền 208.000.000 đồng. Tuy nhiên, đến ngày
22/7/2023, khi ông H ông Chính thống N1 hủy bỏ 04 giấy nợ để lập thành
01 giấy nợ mới với tổng hợp số tiền gốc 900.000.000 đồng vào ngày
22/7/2023. Khi chốt nợ ngày 22/7/2023 thì ông H quên không khấu trừ ra số tiền
208.000.000 đồng, ông C đã trả trước đó nên vẫn ghi nợ gốc 900.000.000
đồng. Đến tháng 06/2024, ông C cho thanh toán cho nguyên đơn (ông H) tiền nợ
gốc 50.000.000 đồng.
Bị đơn ông Mai n C không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Nguyễn Văn H, bị đơn chỉ chấp nhận thanh toán khoản nợ gốc đã vay của
ông H sau khi trừ đi khoản tiền đã trả như sau: 900.000.000 đồng - 208.000.000
đồng - 50.000.000 đồng = 642.000.000 đồng (sáu trăm bốn mươi hai triệu
đồng).
Chứng cứ do bị đơn giao nộp tại Tòa án cấp thẩm gồm: Bản tự khai
của ông Mai Văn C ngày 04/9/2024; Giấy vay tiền ngày 20/12/2017, giấy vay
tiền ngày 22/12/2017; giấy vay tiền ngày 27/3/2018; Hợp đồng vay tiền ngày
4
29/02/2020 giữa người cho vay ông H, người vay ông C; ủy nhiệm chi,
chuyển khoản tiền của ông C cho ông H.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 194/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H đối với bị đơn ông Mai Văn C về
việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Về tiền nợ: Buộc ông C trả cho ông H tổng số tiền 954.415.000 đồng
(chín trăm năm mươi bốn triệu bốn trăm mười lăm nghìn đồng), trong đó tiền nợ
gốc 850.000.000 đồng (tám trăm m mươi triệu đồng) tiền lãi tính từ ngày
23/7/2023 đến ngày xét xử thẩm (26/9/2024) 104.415.000 đồng (một trăm
lẽ bốn triệu bốn trăm mười lăm nghìn đồng) theo Giấy vay tiền ngày 22/7/2023.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, án phí, quyền
yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi bản án thẩm, ngày 07/10/2024, bị đơn ông Mai Văn C
đơn kháng o toàn bbản án thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản
án thẩm theo hướng chỉ buộc bị đơn phải trả số tiền nợ gốc còn lại cho
nguyên đơn ông Nguyễn Văn H 642.000.000 đồng (sáu trăm bốn mươi hai
triệu đồng).
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn ông Mai Văn C vẫn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo; nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương skhông
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ngày 13/02/2025, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông
Mai Văn C Luật Thị Mỹ H1 đã bản luận cứ đbảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho bị đơn được gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương nội dung
sau:
Số tiền 900.000.000 đồng theo giấy n ngày 22/7/2023 do nguyên đơn
dùng làm chứng cứ để khởi kiện đối với bị đơn, theo nguyên đơn xác định
tiền gốc đã được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là không đúng thực tế vì theo lời
trình bày của nguyên đơn thì “Do có nhiều giấy vay tiền theo từng đợt nên nhằm
tránh sự nhầm lẫn về sau nên ông H ông Chính thống N1 chốt lại ghi lại
“Giấy vay tiền” số tiền chốt lại 900.000.000 đồng. Về lãi suất, theo các tài
liệu, chứng cứ trong hvụ án tnguyên đơn cho rằng Không xác định
lãi suất chỉ nói ông C gửi lãi được nhiêu thì được để tránh giảm mất giá trị
đồng tiền cho vay. Quá trình s dụng tiền vay, khoảng năm 2023 thì thỉnh
thoảng ông C có hỗ trợ gửi tiền lãi cho ông H khoảng 3-4 lần”. Do đó, hợp đồng
5
vay tài sản giữa nguyên đơn bị đơn thuộc loại hợp đồng vay tài sản thời
hạn và không có lãi suất. Do đó, số tiền 258.000.000 đồng, ông C đã trả cho ông
H trong 10 lần từ ngày 19/01/2022 đến ngày 12/12/2023 là trả tiền gốc đã vay,
không căn cứ xác định số tiền 208.000.000 đồng trong số tiền đã trả nêu trên
là tiền ông C trả lãi cho khoản vay. Vì vậy số tiền gốc ông C chỉ còn nợ ông H là
900.000.000 đồng - 258.000.000 đồng = 642.000.000 đồng. Đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm xem xét sửa bản án thẩm theo hướng buộc bị đơn thanh
toán khoản nợ gốc cho nguyên đơn 642.000.000 đồng không phải thanh
toán số tiền lãi 10%/năm tương đương số tiền 104.415.000 đồng như án sơ thẩm
đã tuyên.
Đại din Vin Kim sát nhân dân tnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Tòa án cấp
thẩm xét xử căn cứ, bị đơn ông Mai Văn C kháng cáo nhưng tại phiên tòa
phúc thẩm người kháng cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu kháng cáo của mình căn cứ nên không sở chấp nhận
kháng cáo của bị đơn, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày
của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: tại phiên tòa phúc thẩm lần thứ hai ngày 14/02/2025, bị
đơn ông Mai Văn C người kháng cáo bản án sơ thẩm Thị Mỹ H1 là
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn đơn yêu cầu Tòa án xét
xử vắng mặt, căn cứ khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét
xử tiếp tục giải quyết vụ án.
[2] Về nội dung:
[2.1] Trong quá trình tố tụng, cả hai bên đương sự đều thừa nhận: số tiền
gốc 900.000.000 đồng, do hai bên (bên vay tiền ông Mai Văn C, người cho
vay ông Nguyễn Văn H) đã chốt nợ lập thành văn bản xác nhận nợ với tiêu
đề “Giấy vay tiền” ngày 22/7/2023 thống nhất tổng hợp từ 04 lần vay tiền của
ông C đối với ông H từ năm 2017 đến năm 2020 gồm: ngày 20/12/2017 vay
300.000.000 đồng thời hạn 01 năm; ngày 22/12/2017 vay 100.000.000 đồng,
thời hạn 01 năm; ngày 27/3/2018 vay 300.000.000 đồng, thời hạn 06 tháng
ngày 29/02/2020 vay 200.000.000 đồng, thời hạn vay 06 tháng, kể từ ngày xác
6
lập nợ 22/7/2023, giữa ông C ông H thống nhất hủy bỏ 04 giấy nợ đã lập từ
2017 đến 2020 nêu trên. Từ tháng 01/2018 đến trước ngày 22/7/2023, giữa ông
C ông H đã thống nhất ông C thanh toán cho ông H số tiền 208.000.000
đồng nhưng ông H cho rằng số tiền ông C đã thanh toán là tiền lãi, còn ông C
cho rằng số tiền đã thanh toán 208.000.000 đồng tiền gốc. Ngoài ra giữa
nguyên đơn (ông H) bị đơn (ông C) còn thống nhất vào tháng 6/2024, ông C
đã thanh toán cho ông H được 50.000.000 đồng tiền nợ gốc nên tiền ngốc còn
lại 850.000.000 đồng. Sự thừa nhận về số tiền vay (gốc), số tiền đã trả, thời
gian cũng như thời hạn trả nợ vay được hai bên thống nhất là tình tiết không cần
phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2.2] Xét nội dung 04 giấy vay tiền giữa nguyên đơn bị đơn xác lập từ
năm 2017 đến năm 2020, thấy rằng: đối với 02 khoản vay 400.000.000 đồng
theo các giấy vay tiền đề ngày 20/12 22/12/2017, các bên xác định thời
hạn vay 01 năm kể từ ngày vay đối với 02 khoản vay 300.000.000 đồng
theo giấy vay tiền ngày 27/3/2018 và khoản vay 200.000.000 đồng theo giấy vay
ngày 29/02/2020, các bên xác định thời hạn vay là 06 tháng. Cả 04 giấy vay tiền
nêu trên, đều không thể hiện giữa bên vay bên cho vay thỏa thuận vlãi
suất vay. Quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Nguyễn Văn H xác định khi nhận
tiền vay, ông H nói cho bị đơn biết lãi suất tiền vay 02%/tháng nhưng do
thân tình, ông C trả lãi bao nhiêu cũng được để bảo đảm giá trị tiền vay không bị
giảm g trị, do đó số tiền 208.000.000 đồng, bị đơn (ông C) đã trả lãi cho
nguyên đơn (ông H) từ tháng 01/2018 đến trước ngày 22/7/2023 tiền lãi suất.
Bị đơn ông Mai Văn Chính xác Đ1 nguyên đơn chỉ cho bị đơn vay tiền không có
lãi nên bị đơn không trách nhiệm trả lãi chỉ trách nhiệm trả gốc, do đó số
tiền bị đơn đã thanh toán trước ngày 22/7/2023 thanh toán tiền nợ gốc nên
phải được khấu trừ trước khi chốt nợ vào ngày 22/7/2023. Xét thấy, tại bản tự
khai ngày 04/9/2024 do chính bị đơn (ông C) viết ra gửi đến Tòa án (bút lục 16)
ông C đã xác định “…còn lại tám trăm năm mươi triệu đ gốc, lãi hàng tháng hai
bên thỏa thuận lãi suất 4%/tháng. Khi vay tiền tôi không có thế chấp tài sản cho
ông H” và tại “Đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt” do bị đơn (ông C) gửi đến Tòa
án (bút lục 69), ông C đã xác định: “…, đồng thời số tiền 850.000.000 đồng nêu
trên chưa xem xét đến tiền lãi trả trước đó tôi đã trả cho ông H nên đề
nghị Tòa án xem xét chấp nhận.”. Như vậy, chính bị đơn đã thừa nhận mối quan
hệ vay tiền giữa nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận lãi suất như nguyên đơn
(ông H) đã trình bày không thuộc trường hợp hợp đồng vay kỳ hạn và
không có lãi suất.
[2.3] Từ các do nêu tại mục [2.2], căn cứ xác định cả 04 giấy vay
tiền được lập vào các ngày 20/12/2017, 22/12/2017, 27/3/2018 ngày
7
29/02/2020 giữa ông Nguyễn Văn Hông Mai Văn C thuộc loại hợp đồng vay
tài sản có thời hạn và có lãi suất nhưng không xác định rõ lãi suất. Các đương sự
tranh chấp về lãi suất bên vay yêu cầu tính lãi suất sẽ được giải quyết
theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự được hướng dẫn tại khoản 2 Điều
5 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật
về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Như vậy, số tiền lãi áp dụng trong trường hợp nêu
trên đối với 04 khoản vay các năm 2017, 2018, 2020 được áp dụng mức lãi suất
10%/năm tính tngày vay đến ngày 22/7/2023 đã vượt hơn nhiều so với số tiền
208.000.000 đồng bị đơn đã thanh toán tiền lãi cho nguyên đơn theo sự thừa
nhận của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H. Tòa án cấp thẩm không xem xét
khấu trừ số tiền 208.000.000 đồng do bị đơn đã trả vào nợ gốc căn cứ,
đúng quy định pháp luật.
[2.4] Đối với yêu cầu tính lãi suất chậm trả của nguyên đơn đối với số tiền
vay từ ngày xác lập tổng nợ gốc (ngày 22/7/2023) đến thời điểm xét xử thẩm
theo mức lãi suất 2%/tháng và khấu trừ số tiền 50.000.000 đồng bị đơn đã thanh
toán vào ngày 23/6/2024 là lãi suất. Căn cứ khoản 4 Điều 466, khoản 2 Điều 468
và khoản 2 Điều 469 của Bộ luật Dân sự, tiền lãi được xác định như sau:
- 900.000.000 đồng x 10%/năm (tương đương 0,833%/tháng) x 11 tháng
(từ ngày 23/7/2023 đến 23/6/2024) = 82.467.000 đồng (1);
- 850.000.000 đồng x 10%/năm (tương đương 0,833%/tháng) x 03 tháng
03 ngày (từ ngày 23/6/2023 đến 26/9/2024) = 21.948.000 đồng (2);
Tổng số tiền lãi suất tính đến ngày xét xử sơ thẩm (1) + (2) = 104.415.000
đồng (một trăm lẽ bốn triệu bốn trăm mười lăm nghìn đồng).
Tòa án cấp thẩm xét xử buộc b đơn ông Mai Văn C phải trả cho
nguyên đơn ông Nguyễn Văn H số tiền nợ gốc 850.000.000 đồng tiền nợ lãi
chậm trả tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm (26/9/2024) 104.415.000 đồng,
tổng tiền gốc lãi: 954.415.000 đồng (chín trăm năm mươi bốn triệu bốn trăm
mười lăm nghìn đồng) căn cứ, đúng quy định tại khoản 4 Điều 466, khoản
2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
[3] Bị đơn ông Mai Văn C kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu,
chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo căn cứ nên Hội đồng
xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
[4] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa phúc thẩm là phù hợp.
8
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: bị đơn ông Mai Văn C người già trên
70 tuổi nên được miễn toàn bộ án phí phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lphí Tòa
án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết s326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Mai Văn C.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 194/2024/DS-ST ngày 26/9/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Mai Văn C được miễn án pdân sự
phúc thẩm.
4. Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 Điều 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS TP. Thủ Dầu Một;
- TAND TP. Thủ Dầu Một;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Thanh
9
Tải về
Bản án số 77/2025/DS-PT Bản án số 77/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 77/2025/DS-PT Bản án số 77/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất