Bản án số 131/2025/DS-PT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 131/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 131/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 131/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 131/2025/DS-PT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Long An |
Số hiệu: | 131/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số: 131/2025/DS-PT
Ngày: 18-02-2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng vay tài
sản và hợp đồng dịch vụ”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Thu
Bà Huỳnh Thị Phượng
Bà Hoàng Thị Thúy Lành
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Tiến Đức – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Kim Chung - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 624/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 12 năm
2024 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng dịch vụ”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 164/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 705/2024/QĐ-PT ngày
26 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Th, sinh năm 1953;
Địa chỉ: Số nhà 350, đường Đ, Khu phố 2, thị trấn T, huyện C, tỉnh Long
An.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Văn L, sinh năm
1985;
Địa chỉ: Ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang (Giấy ủy quyền ngày 16
tháng 11 năm 2021).
- Bị đơn: Ông Lê Công T, sinh năm 1969;
Địa chỉ: Số nhà 66/3, ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Long An.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Bùi Duy T2 -
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn P thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ: Số 62, đường N, Phường X, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1980;
Địa chỉ: Số nhà 350, đường Đ, Khu phố 2, thị trấn T, huyện Châu Thành,
tỉnh Long An.
2. Ông Trịnh Ngọc Tr, sinh năm 1985;
Địa chỉ: Số nhà 13, đường T, Phường Y, thành phố T, tỉnh Long An.
3. Bà Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm 1987;
Địa chỉ: Số nhà 350, đường Đ, Khu phố 2, thị trấn T, huyện C, tỉnh Long
An.
4. Ông Võ Phước L1, sinh năm 1976;
Địa chỉ: Số 169, đường P, phường T, thành phố T, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: Ông Lê Công T - Bị đơn; ông Nguyễn Văn T1 - Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
(Ông L, ông T, ông T1, ông Tr và ông T2 có mặt; đương sự còn lại vắng mặt
tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 12 tháng 11 năm 2021, đơn khởi kiện bổ sung và
trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Trần Thị Th do ông Lê Văn L đại diện
theo ủy quyền trình bày:
Vào ngày 30 tháng 6 năm 2020, ông Lê Công T có vay của bà Th với số tiền
là 500.000.000 đồng, với lãi suất là 2%/tháng. Việc vay tiền được lập thành văn
bản có chữ ký xác nhận của ông T, nhưng trong giấy nợ người cho vay là ông
Nguyễn Văn T1. Thời hạn vay 4 ngày kể từ ngày ký kết giấy mượn tiền, thời hạn
trả là ngày 04 tháng 7 năm 2020. Đến ngày 04 tháng 8 năm 2020, ông Lê Công T
tiếp tục vay của bà Th với số tiền là 1.000.000.000 đồng, với lãi suất là 2%/tháng.
Việc vay tiền được lập thành văn bản có chữ ký xác nhận của ông T nhưng trong
giấy nợ ghi tên người cho vay là ông Nguyễn Văn T1. Thời hạn vay 7 ngày kể từ
ngày ký kết giấy mượn tiền, thời hạn trả là ngày 11 tháng 8 năm 2020. Tuy nhiên,
từ thời điểm vay tiền đến nay, bà Th nhiều lần yêu cầu ông T trả nợ nhưng ông T
không trả tiền. Do đó, bà Th yêu cầu ông Lê Công T trả cho bà Th số tiền vay, cụ
thể như sau: Tiền gốc là 1.500.000.000đ (một tỷ năm trăm triệu đồng).
Tiền lãi, cụ thể như sau: Đối với số tiền vay 500.000.000 đồng, thời gian
tính lãi từ ngày 30 tháng 6 năm 2020 đến tháng 12 năm 2023 là 42 tháng, mức lãi
là 20%/năm; 1,66%/tháng: 500.000.000đ x1,66%/tháng x 42 tháng =
350.000.000đ (Ba trăm năm mươi triệu đồng); đối với số tiền vay 1.000.000.000đ
3
(một tỷ đồng) thời gian tính lãi từ ngày 04 tháng 8 năm 2020 đến tháng 12 năm
2023 là 40 tháng, mức lãi là 20%/năm, 1,66%/tháng: 1.000.000.000đ x
1,66%/tháng x 40 tháng = 666.666.000đ (Sáu trăm sáu mươi sáu triệu sáu trăm
sáu mươi sáu nghìn đồng). Tổng số tiền lãi là 1.016.666.000đ (Một tỷ không trăm
mười sáu triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng). Tổng số tiền bà Th yêu cầu
ông T trả cho bà Th là 2.516.666.000đ (hai tỷ năm trăm mười sáu triệu sáu trăm
sáu mươi sáu nghìn đồng), trong đó tiền gốc là 1.500.000.000 đồng và tiền lãi
1.016.666.000 đồng, yêu cầu trả 01 lần toàn bộ số tiền này khi án có hiệu lực
pháp luật.
Bà Th thống nhất với Kết luận giám định số 4096/KL-KTHS ngày 13 tháng
9 năm 2023 của Phân viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chữ viết có nội
dung “LS 2%” tại 02 giấy mượn tiền đề ngày 30 tháng 6 năm 2020 và giấy mượn
tiền đề ngày 04 tháng 8 năm 2020 là do ông T đem về nhà viết và đưa lại cho bà
Th nên bà Th cũng không xác định được chữ viết “LS 2%” có phải là chữ viết
của ông T hay không nhưng giữa bà Th và ông T có thỏa thuận lãi suất 2%/tháng.
Bị đơn ông Lê Công T trình bày:
Ngày 30 tháng 6 năm 2020 bà Trần Thị Th đưa cho ông với số tiền là
500.000.000 đồng nhưng biên nhận là ông T1 vì bà Th cho rằng bà lớn tuổi rồi
nên bà không đứng tên trong giấy nợ tiền, để ông chuộc lại thửa đất do con của
bà Th là bà Nguyễn Thị Tuyết M đã cầm cho ông Võ Phước L1. Thực hiện theo
thỏa thuận thì đến ngày 16 tháng 7 năm 2020 để chuộc lại thửa đất với giá chuộc
là 4.300.000.000 đồng , do bà Th không đủ tiền nên ông trả cho ông L1 với số
tiền là 1.100.000.000 đồng tại văn phòng công chứng Võ Minh Th1. Đến ngày 04
tháng 8 năm 2020, thì có thông báo nộp thuế để ra giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông T1 đứng tên. Đến ngày 04 tháng 8 năm 2020 ông gặp bà Th lấy
số tiền 1.000.000.000 đồng thì bà Th kêu ông ký biên nhận, sau đó ông T1 đứng
tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà Th kêu ông tìm người chuyển
nhượng thửa đất đã thỏa thuận cho chuộc nhưng bà Th không chịu chuyển
nhượng, bà Th sẽ cho ông tiền hoa hồng, tiền chênh lệch thì bà Th cho bà M.
Ngày 06 tháng 8 năm 2020 thì ông có đóng thuế cho ông T1 thuế trước bạ số tiền
8.699.300 đồng và các loại thuế khác 326.417 đồng, thuế thu nhập cá nhân cho
ông Võ Phước L1 là 34.797.200 đồng, thuế thu tiền đất ở nông thôn cho bà
Nguyễn Thị Tuyết M là 2.301.048 đồng, tổng số tiền thuế ông đã nộp là
46.123.965 đồng. Sau đó thì bà Th yêu cầu ông trả 400.000.000 đồng, ông không
đồng ý rồi đến dịch covid 19, sau đó bà Th khởi kiện tại Tòa án, bà Th yêu cầu
ông trả số tiền gốc là 1.500.000.000 đồng ông không đồng ý, ông xác định chỉ
còn nợ bà Th với số tiền là 400.000.000 đồng. Giữa ông và bà Th có thỏa thuận
bà Th trả tiền hoa hồng cho ông là 2% trên giá trị đất 4.300.000.000 đồng là
86.000.000 đồng nhưng bà Th chưa trả cho ông số tiền này. Do hiện nay ông T1
đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất đã chuộc nên ông yêu cầu
cấn trừ ông T1 phải trả cho bà Th số tiền: 1.232.123.965 đồng. Sau khi cấn trừ số
tiền này thì ông chỉ còn nợ lại bà Th là 267.876.035 đồng. Ông đồng ý trả cho bà
4
Th số tiền 267.876.035 đồng trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày án có hiệu lực
pháp luật.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Văn T1 trình bày:
Ông không đồng ý với ý kiến và yêu cầu của ông T, ông không nợ ông T số
tiền 1.232.123.965 đồng. Tiền chuộc thửa đất hơn 4.000.000.000 đồng là tiền của
ông, tiền đóng các loại thuế là tiền của ông đưa cho ông T đóng giùm, còn việc
thỏa thuận tiền hoa hồng giữa bà Th với ông T thì ông không biết.
- Ông Trịnh Ngọc Tr trình bày:
Ông nhận chuyển nhượng thửa đất số 38, tờ bản đồ 1A, diện tích 274,6m
2
,
giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng là 400.000.000đ (bốn trăm triệu đồng),
giá chuyển nhượng thực tế là 1.200.000.000đ (một tỷ hai trăm triệu đồng) của
ông Lê Công T. Ông không yêu cầu, có ý kiến gì đối với nguyên đơn, bị đơn.
Ông chỉ yêu cầu Tòa án sớm giải quyết vụ án.
- Ông Võ Phước L1 trình bày:
Vào tháng 05 năm 2020, ông L1 có đăng chuyển nhượng 03 thửa đất là:
Thửa số 127, tờ bản đồ số 30, diện tích 134,9m
2
, mục đích sử dụng trổng lúa,
thửa số 146, tờ bản đồ số 30, diện tích 31m
2
, mục đích sử dụng đất ở nông thôn,
thửa số 48, tờ bản đồ số 30, diện tích 444,8m
2
, mục đích sử dụng đất ở nông thôn,
cùng tọa lạc tại Ấp 1, xã Hiệp Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Long An, thì ông
T liên hệ yêu cầu cung cấp giấy chứng nhận và thống nhất nhận chuyển nhượng
là 4.300.000.000 đồng và hẹn ngày 16 tháng 7 năm 2020 ký hợp đồng công
chứng giao dịch. Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại Văn phòng công chứng Võ Minh
Th1 ông L1 ký hợp đồng chuyển nhượng 03 thửa đất cho ông Nguyễn Văn T1.
Ông L1 nhận tiền đặt cọc từ ông Lê Công T là 1.100.000.000 đồng. Số tiền còn
lại ông L1 nhận từ ông T1 là 3.200.000.000 đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 164/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147; khoản 2, Điều 161; khoản 1, Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ
luật Tố tụng Dân sự;
Áp dụng các điều 357, 463, 466, 468, 513, 514 và Điều 515 của Bộ luật Dân
sự;
Áp dụng Điều 12; khoản 4, khoản 5 và khoản 6, Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Th về việc buộc ông
Lê Công T trả tiền vay.
Buộc Lê Công T có nghĩa trả cho Trần Thị Th tổng số tiền là
2.008.100.000đ (hai tỷ không trăm lẻ tám triệu một trăm nghìn đồng), trong đó
5
tiền gốc là 1.500.000.000đ (một tỷ năm trăm triệu đồng) và tiền lãi là
508.100.000đ (năm trăm lẽ tám triệu một trăm nghìn đồng).
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Th về việc
buộc Lê Công T trả tiền lãi với số tiền là 508.566.000đ (năm trăm lẻ tám triệu
năm trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).
Chấp nhận yêu cầu của ông Lê Công T về việc buộc ông Nguyễn Văn T1
hoàn trả tiền cọc và tiền thuế ông T đã thực hiện.
Buộc ông Nguyễn Văn T1 có nghĩa vụ trả cho ông Lê Công T tổng số tiền là
1.146.123.965đ (một tỷ một trăm bốn mươi sáu triệu một trăm hai mươi ba nghìn
chín trăm sáu mươi lăm đồng), trong đó số tiền cọc là 1.100.000.000đ (một tỷ
một trăm triệu đồng) và tổng các tiền thuế là 46.123.965đ (bốn mươi sáu triệu
một trăm hai mươi ba nghìn chín trăm sáu mươi lăm đồng).
Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Công T về việc buộc bà Trần Thị Th
trả tiền phí dịch vụ với số tiền 86.000.000đ (tám mươi sáu triệu đồng).
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 08-10-2024, bị đơn ông Lê Công T kháng cáo yêu cầu xét xử phúc
thẩm theo hướng buộc bà Trần Thị Th trả tiền phí dịch vụ với số tiền 86.000.000
đồng, ông không đồng ý trả số tiền lãi 508.100.000 đồng; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm theo
hướng không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê công T về việc buộc ông trả
cho ông T 1.146.123.965 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và ông
T, ông T1 không rút đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày:
Xuất phát từ việc bà M cầm đất cho ông L1, sau đó ông L1 chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho ông T1 nên ông T thực hiện giao dịch theo chỉ đạo của bà
Th là giao tiền cho ông L1 1.100.000.000 đồng nộp các loại thuế. Giấy mượn tiền
ghi “LS2%” không phải do ông T ghi, ông T không có vay tiền của bà Th. Đề
nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự, sửa bản
án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của ông T, không chấp nhận yêu cầu của
bà Th.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng và các đương
sự tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đơn kháng cáo của
ông T và ông T1 trong thời hạn luật quy định và hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét
theo trình tự phúc thẩm.
6
Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Bà Trần Thị Th yêu cầu Tòa án giải
quyết buộc ông Lê Công T trả cho bà Trần Thị Th với số tiền gốc 1.500.000.000
đồng đã được ông T thừa nhận, phù hợp với giấy mượn tiền vào ngày 30 tháng 6
năm 2020 với số tiền 500.000.000 đồng và ngày 04 tháng 8 năm 2020 với số tiền
là 1.000.000.000 đồng nên yêu cầu của bà Trần Thị Th là có căn cứ.
Về mức lãi đã ghi trên chứng cứ là 2%/tháng Ông Lê Công T cho rằng: “LS
2%” không phải do ông viết ra là phù hợp với Kết luận giám định số 4096/Kl-
KTHS ngày 13 tháng 9 năm 2023 của Phân viện Kỹ thuật hình sự tại TP Hồ Chí
Minh thuộc Bộ Công an, kết luận chữ viết có nội dung “LS 2%” trên các giấy
mượn tiền không cùng một người viết ra. Nên xác định chứng cứ vay tiền không
có thoả thuận lãi. Do vậy, giao dịch vay tiền các bên ký kết là hợp đồng vay
không xác định mức lãi nên áp dụng theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự
với mức lãi là 10%/năm, 0,83%/tháng.
Ông T cho rằng ông ký nhận số tiền 1.500.000.000 đồng là để làm thủ tục
chuyển nhượng 3 thửa đất cho bà Th nhưng ông T không cung cấp tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho lời trình bày của mình vì vậy căn cứ vào các giấy mượn tiền nêu
trên xác định ông T vay tiền là đáo nợ ngân hàng như lời trình bày của nguyên đơn
cũng như lý do mượn tiền đã ghi trên giấy mượn tiền. Do đó, ông T phải trả tiền lãi
theo quy định chung của pháp luật.
Xét thấy , cấp sơ thẩm tính lãi theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự
với mức lãi là 10%/năm, 0,83%/tháng là phù hợp. Tuy nhiên, thời gian bắt đầu
tính lãi cấp sơ thẩm đã tính kể từ ngày mượn tiền (30/6 và 04/8) là chưa phù hợp
quy định pháp luật. Bởi lẽ trên giấy mượn tiền ghi rõ thời hạn mượn tiền là 4
ngày đối với số tiền 500.000.000 đồng và 7 ngày đối với số tiền 1.000.000.000
đồng. Do đó, việc tính lãi chỉ được tính kể từ ngày chậm thực hiện nghĩa vụ trả
tiền mới phù hợp, án sơ thẩm tính chưa đúng cần sửa án phần này.
Ông T cho rằng giữa ông T và bà Th có thỏa thuận: Khi ông thực hiện xong
việc chuyển nhượng các thửa đất cho ông T1 thì bà Th trả tiền hoa hồng cho ông
T là 2% trên giá trị đất 4.300.000.000 đồng với số tiền là 86.000.000 đồng, nhưng
ông T không có chứng cứ gì để chứng minh thỏa thuận nêu trên. Do đó, không
chấp nhận yêu cầu của ông T về việc buộc bà Th trả 86.000.000 đồng.
Tóm lại với yêu cầu kháng cáo của ông T đối với hai khoản vay của bà Trần
Thị Th có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo về điều chỉnh thời gian bắt đầu
tính lãi.
Đối với yêu cầu của ông Lê Công T về việc yêu cầu ông T1 trả số tiền
1.100.000.000 đồng. Xét ông Lê Công T có trả cho ông L1 số tiền đặt cọc
1.100.000.000 đồng theo Giấy nhận tiền giữa ông L1 và ông T ngày 16 tháng 7
năm 2020, tại Văn phòng công chứng Võ Minh Th1. Ông L1 thừa nhận đã nhận
của ông T 1.100.000.000 đồng và nhận của ông T1 là 3.200.000.000 đồng, nên
ông T yêu cầu ông T1 hoàn trả 1.100.000.000 đồng là có căn cứ nên cấp sơ thẩm
chấp nhận là phù hợp. Ngoài ra ông T1 xác định đưa tiền cho ông T đóng các
khoản thuế nhưng ông T1 không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh nên

7
không chấp nhận lời trình bày của ông T1. Do ông T có đóng thuế thay cho ông
T1 tổng số tiền là 46.123.965 đồng nên án sơ thẩm buộc ông T1 có nghĩa vụ hoàn
trả cho ông T là phù hợp.
Nay ông T1 kháng cáo cho rằng ông là người trực tiếp trả tiền cho ông L1
và đưa tiền cho ông T nộp các loại thuế, phí theo quy định. Tuy nhiên việc này
không được ông T thừa nhận và không có chứng cứ chứng minh nên kháng cáo
không được chấp nhận.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông Lê Công T.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn T1. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng Dân sự: Sửa bản án sơ thẩm về điều chỉnh thời gian bắt đầu tính lãi để
tính lại số tiền lãi ông T phải trả và án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông Lê Công T và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 đúng theo quy định tại các điều 272, 273 và 276
Bộ luật Tố tụng Dân sự nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Nguyên đơn bà Th khởi kiện yêu cầu ông Lê Công T trả tiền vay
1.500.000.000 đồng, tiền lãi 1.016.666.000 đồng, tổng cộng 2.516.666.000 đồng.
Ông Lê Công T yêu cầu yêu cầu cấn trừ nợ với bà Th vì ông đã nộp tiền thay cho
ông T1 khi ông L1 chuyển quyền sử dụng đất cho ông T1, cụ thể là ông T1 phải
trả cho bà Th số tiền: 1.232.123.965 đồng (gồm 46.123.965 đồng tiền thuế,
1.100.000.000 đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và 86.000.000
đồng tiền hoa hồng chuyển nhượng quyền sử dụng). Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý
giải quyết “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng dịch vụ” theo trình tự
sơ thẩm là đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1
Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[3] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Tuyết M đã được
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; ông Võ Phước L1 có đơn đề
nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt
theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[4] Thấy rằng, ông Lê Công T có ký nhận giấy mượn tiền vào ngày 30 tháng
6 năm 2020 với số tiền 500.000.000 đồng và ngày 04 tháng 8 năm 2020 với số
tiền là 1.000.000.000 đồng, lãi suất 2%/tháng. Tuy trên giấy mượn tiền người cho
vay ghi là ông Nguyễn Văn T1 (con của bà Th) nhưng bà Th, ông T và ông T1
đều thống nhất số tiền trên là của bà Th, bà Th trực tiếp giao dịch với ông T, nếu
ai có trách nhiệm trả tiền thì trả cho bà Th nên bà Trần Thị Th là nguyên đơn
trong vụ án.
[5] Ông T cho rằng ông ký nhận số tiền 1.500.000.000 đồng theo giấy mựợn
tiền vào ngày 30 tháng 6 năm 2020, với số tiền 500.000.000 đồng và ngày 04
tháng 8 năm 2020 với số tiền là 1.000.000.000 đồng là để làm thủ tục chuyển
nhượng 03 thửa đất cho bà Th nhưng ông T không cung cấp tài liệu, chứng cứ
8
chứng minh. Căn cứ vào các giấy mượn tiền nêu trên thì có cơ sở xác định ông T
có vay tiền của bà Th.
[6] Xét thấy, trên các giấy mượn tiền có ghi “LS2%” nhưng tại kết luận
giám định số 4096/Kl-KTHS ngày 13 tháng 9 năm 2023 của Phân viện Kỹ thuật
hình sự tại TP Hồ Chí Minh thuộc Bộ Công an, kết luận: chữ viết có nội dung
“LS 2%” trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2 so với chữ viết mẫu so
sánh trên các tài liệu ký hiệu M1 đến M4 không cùng một người viết ra. Từ kết
luận thể hiện chữ viết “LS2%” không phải do ông T viết, ông T không thừa nhận
vay có lãi. Bà Th cũng không biết chữ viết “LS2%” do ai viết và không có chứng
cứ chứng minh việc cho ông T vay tiền là có lãi.
[7] Với các chứng cứ trên, có cơ sở xác định bà Th cho ông T vay tiền có kỳ
hạn và không có lãi. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hơp đồng vay tiền có lãi nhưng
không rõ lãi suất và tính lãi từ ngày vay là không đúng. Bởi lẽ, theo khoản 4 Điều
466 quy định: “ 4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không
trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với
mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền
chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác”, cụ thể như sau:
[8] Đối với số tiền vay 500.000.000 đồng ngày 30 tháng 6 năm 2020, thời
hạn vay 4 ngày kể từ ngày ký kết giấy mượn tiền, thời hạn trả là ngày 04 tháng 7
năm 2020 nên thời gian chậm trả tính từ ngày 05-7-2020 bà Th yêu cầu đến tháng
12 năm 2023 là 03 năm 05 tháng tiền lãi là 170.150.000 đồng (500.000.000 đồng
x 0,83%/tháng x 3 năm 05 tháng).
[9] Đối với số tiền vay 1.000.000.000 đồng ngày 04 tháng 8 năm 2020, thời
hạn vay 7 ngày kể từ ngày ký kết giấy mượn tiền, thời hạn trả là ngày 11 tháng 8
năm 2020 nên thời gian chậm trả tính từ ngày 12-8-2020 bà Th yêu cầu đến tháng
12 năm 2023 là 03 năm 04 tháng tiền lãi là 332.000.000 đồng (1.000.000.000
đồng x 0,83%/tháng x 03 năm 04 tháng), tổng số tiền lãi là 502.150.000 đồng.
[10] Như vậy, kháng cáo của ông T không đồng ý trả tiền lãi là có căn cứ
chấp nhận một phần, sửa một phần bản án sơ thẩm, số tiền lãi bà Th yêu cầu
được chấp nhận là 502.150.000 đồng; số tiền lãi bà Th yêu cầu không được chấp
nhận là 514.516.000 đồng (1.016.666.000 đồng - 502.150.000 đồng. Do ông T vi
phạm nghĩa vụ trả tiền gốc vay nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông T có nghĩa trả
cho bà Th số tiền gốc vay 1.500.000.000 đồng là có căn cứ
[11] Đối với yêu cầu của ông Lê Công T về việc yêu cầu ông T1 trả số tiền
1.100.000.000 đồng. Xét thấy, ông Lê Công T có trả cho ông L1 số tiền đặt cọc
1.100.000.000 đồng theo Giấy nhận tiền giữa ông L1 và ông T ngày 16 tháng 7
năm 2020, tại Văn phòng công chứng Võ Minh Th1 để chuyển nhượng 03 thửa
đất là số 48, 127, 146 cho ông Nguyễn Văn T1. Đồng thời tại Văn phòng công
chứng ông L1 thực hiện giao dịch chuyển nhượng cho ông T1 03 thửa đất số 127,
tờ bản đồ số 30, diện tích 134,9m
2
, mục đích sử dụng trổng lúa, thửa số 146, tờ
bản đồ số 30, diện tích 31m
2
, mục đích sử dụng đất ở nông thôn, thửa số 48, tờ

9
bản đồ số 30, diện tích 444,8m
2
, mục đích sử dụng đất ở nông thôn, cùng tọa lạc
tại Ấp 1, xã Hiệp Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Long An, giá chuyển nhượng
4.300.000.000 đồng. Ông L1 thừa nhận đã nhận của ông T 1.100.000.000 đồng
và nhận của ông T1 là 3.200.000.000 đồng, nên ông T yêu cầu ông T1 hoàn trả
1.100.000.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.
[12] Ông T1 cho rằng ông đưa tiền cho ông T đóng các khoản thuế nhưng
ông T1 không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh nên không chấp nhận lời
trình bày của ông T1. Ông T có đóng thuế cho ông T1 gồm: Thuế trước bạ là
8.699.300 đồng và các loại thuế khác là 326.417 đồng, ông T yêu cầu ông T1
hoàn trả là có căn cứ nên chấp nhận. Ông T đóng thuế thu nhập cá nhân cho ông
Võ Phước L1 là 34.797.200 đồng, thuế thu tiền đất ở nông thôn cho bà Nguyễn
Thị Tuyết M là 2.301.048 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông T1 nhận trách nhiệm
hoàn trả khoản tiền này cho ông T. Xét thấy đây là sự tự nguyện của ông T1, phù
hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Như vậy, tổng số
tiền ông T yêu cầu được chấp nhận là 46.123.965 đồng.
[13] Do đó, ông Nguyễn Văn T1 kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm theo
hướng không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê công T về việc buộc ông trả
cho ông T 1.146.123.965 đồng là không có căn cứ chấp nhận.
[14] Ông T cho rằng giữa ông T và bà Th có thỏa thuận: Khi ông thực hiện
xong việc chuyển nhượng các thửa đất cho ông T1 thì bà Th trả tiền hoa hồng
cho ông T là 2% trên giá trị đất 4.300.000.000 đồng với số tiền là 86.000.000
đồng, nhưng ông T không có chứng cứ gì để chứng minh thỏa thuận nêu trên. Do
đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông T là có căn cứ. Ông T
kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm theo hướng buộc bà Trần Thị Th trả tiền phí
dịch vụ với số tiền 86.000.000 đồng là không có căn cứ chấp nhận.
[15] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu phản tố của ông T, không chấp nhận yêu cầu của bà Th
là có căn cứ chấp nhận một phần.
[16] Phát biểu của Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận một phần kháng cáo của
ông Lê Công T; không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn T1 là có căn cứ,
sửa một phần bản án sơ thẩm.
[17] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Trần Thị Th là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được miễn
án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Lê Công T phải chịu 72.043.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với
yêu cầu bà Trần Thị Th được chấp nhận. Ông Lê Công T phải chịu 4.300.000
đồng (86.000.000 đồng) x 5%) án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền ông yêu cầu
bà Th không được chấp nhận. Như vậy, ông Lê Công T phải chịu tổng cộng
76.343.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Văn T1 phải chịu 46.383.718 đồng án phí dân sự sơ thẩm do
yêu cầu của ông T được chấp nhận.

10
[18] Về án phí dân sự phúc thẩm:
Do sửa một phần bản án sơ thẩm nên ông T không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm. Ông T1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Lê Công T;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn T1;
Sửa một phần Bản án sơ thẩm số 164/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành;
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147; khoản 2, Điều 161; khoản 1, Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ
luật Tố tụng Dân sự;
Áp dụng các điều 357, 463, 466, 468, 513, 514 và Điều 515 của Bộ luật Dân
sự;
Áp dụng Điều 12; khoản 4, khoản 5 và khoản 6, Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Th về việc buộc ông
Lê Công T trả tiền vay.
Buộc ông Lê Công T có nghĩa trả cho Trần Thị Th tổng số tiền là
2.002.150.000 đồng, trong đó tiền gốc là 1.500.000.000 đồng và tiền lãi là
502.150.000 đồng.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Th về việc
buộc Lê Công T trả tiền lãi với số tiền là 514.516.000 đồng.
Chấp nhận yêu cầu của ông Lê Công T về việc buộc ông Nguyễn Văn T1
hoàn trả tiền cọc và tiền thuế ông T đã thực hiện.
Buộc ông Nguyễn Văn T1 có nghĩa vụ trả cho ông Lê Công T tổng số tiền là
1.146.123.965đ ( một tỷ một trăm bốn mươi sáu triệu một trăm hai mươi ba
nghìn chín trăm sáu mươi lăm đồng), trong đó số tiền cọc là 1.100.000.000đ (một
tỷ một trăm triệu đồng) và tổng các tiền thuế là 46.123.965đ (bốn mươi sáu triệu
một trăm hai mươi ba nghìn chín trăm sáu mươi lăm đồng).
Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Công T về việc buộc bà Trần Thị Th
trả tiền phí dịch vụ với số tiền 86.000.000đ (tám mươi sáu triệu đồng).
11
Về chi phí giám định: Bà Trần Thị Th phải chịu chi phí giám định với số
tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng), ông Lê Công T đã nộp xong.
Buộc bà Trần Thị Th có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Lê Công T chi phí giám
định với số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng).
Ông Lê Công T đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định với số tiền là
6.000.000đ (sáu triệu đồng), Tòa án đã hoàn trả xong cho ông Lê Công T số tiền
1.000.000đ (một triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Trần Thị Th được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Lê Công T phải chịu 76.343.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Khấu trừ
số tiền 24.481.800 đồng ông T đã nộp tiền tạm ứng án phí theo biên lai số
0008170 ngày 03 tháng 11 năm 2022 của cơ quan Chi cục thi hành án Dân sự
huyện Châu Thành để thi hành án phí nên ông T còn phải chịu 51.861.200 đồng
án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Văn T1 phải chịu 46.383.718 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Lê Công T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả ông Lê
Công T số tiền 300.000 đồng tạm ứng áp phí dân sự phúc thẩm theo biên lai số
0009137 ngày 09 tháng 10 năm 2024 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Châu
Thành.
Ông Nguyễn Văn T1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Khấu trừ số tiền 300.000 đồng ông T1 đã nộp tạm ứng áp phí dân sự phúc thẩm
theo biên lai số 0009126 ngày 08 tháng 10 năm 2024 của Chi cục thi hành án
Dân sự huyện Châu Thành để thi hành án phí.
Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số 03/2022/QĐ-
BPKCTT ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành về
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi
hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân
12
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án
Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Châu Thành;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Thu
13
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 04/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm