Bản án số 34/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 34/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 34/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Nông
Số hiệu: 34/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng đặt cọc vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK NÔNG
Bản án số: 34/2025/DS-PT
Ngày 06 - 3 - 2025
V/v yêu cầu tuyên bố hợp đồng đặt
cọc vô hiệu và giải quyết hậu quả của
hợp đồng vô hiệu.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Văn Vinh
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Hải Âu và ông Nguyễn Thế Hạnh
- Thư phiên a: Ông Nguyễn T - Thư ký a án nhân dân tỉnh
Đắkng
- Đi diện Viện kim sát nhân n tỉnh Đắk Nông tham gia phiên toà: Bà
Vương Thị Bc - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 27 06 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 123/2024/TLPT-DS, ngày
08 tháng 11 năm 2024 về việc “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng đặt cọc hiệu
giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Do Bản án dân sự thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 11-9-2024 của Tán
nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm s 119/2024/QĐ-PT ngày
20-12-2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Văn Công T, sinh năm 1986; địa chỉ: Tổ dân phố 1,
phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Thị Th, sinh năm
1999; địa chỉ: S21, đường 3/2, phường N1, thành phố G, tỉnh Đắk Nông;
đơn xin giải quyết vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Bùi Quang T,
Luật sư Văn phòng luật sư H.A thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Nông; địa chỉ: Số 21,
đường 3/2, phường N1, thành phG, tỉnh Đắk Nông; có mặt.
2
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1950; địa chỉ: Bon U, thị trấn E,
huyện C, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
Ni đại din theo uỷ quyn của b đơn: Ông Nguyễn Trung X, sinh năm
1976; địa ch: Tổ dân ph3, thtrấn E, huyện C, tỉnh Đắk Nông; có mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị P, sinh năm
1955; bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1981 và ông Nguyễn Văn Đ1, sinh năm 1987;
địa chỉ: Bon U, thị trấn E, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông; đều vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Trung X, sinh năm 1976; địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn E, huyện
C, tỉnh Đắk Nông; có mặt.
4. Người kháng cáo: Ông Văn Công T là nguyên đơn.
NI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 05-6-2022, ông Văn Công T ông Nguyễn Văn Đ giao kết hợp
đồng đặt cọc, nội dung hợp đồng thể hiện ông Đ chuyển nhượng cho ông T thửa
đất tái định số C7, tờ bản đồ 03-2018, diện tích 245m
2
tọa lạc tại tổ dân phố
4, phường N2, thành phố G, tỉnh Đắk Nông. Hai bên thỏa thuận giá chuyển
nhượng 2.280.000.000 đồng, thanh toán chia làm 02 đợt: Đợt 1: ông T đặt cọc
600.000.000 đồng cho ông Đ bằng hình thức chuyển vào tài khoản của Nguyễn
Huy H (con ông Đ vào ngày 06-6-2022). Đợt 2: ông T trả số tiền còn lại
1.680.000.000 đồng cho ông Đ ngay khi ông Đ thực hiện xong thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và công chứng hợp đồng chuyển nhượng đất cho
ông T (nội dung này thỏa thuận bằng miệng). Thời hạn đặt cọc bắt đầu từ ngày
06-6-2022, thời hạn kết thúc không ghi trong hợp đồng nhưng ông Đ cam kết
bằng miệng trong thời hạn tối đa 03 tháng slàm thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất để chuyển nhượng cho ông T. Ngoài ra, trong hợp đồng còn
thỏa thuận nếu ông T từ chối không nhận chuyển nhượng thì mất tiền cọc, nếu
ông Đ không chuyển nhượng sẽ phải bồi thường gấp 02 lần số tiền đặt cọc
1.200.000.000 đồng. Tuy nhiên, từ ngày kết hợp đồng đến nay ông Đ không
thực hiện việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để chuyển nhượng
cho ông T, ông T nhiều lần đề nghị ông Đ thực hiện đúng theo thỏa thuận nhưng
ông Đ đưa ra nhiều do để trì hoãn, không thực hiện. Tại thời điểm giao kết
hợp đồng đặt cọc thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
đồng thời ông Đ không thực hiện đúng cam kết khi đặt cọc dẫn đến mục đích
của các bên không đạt được như đã thỏa thuận. Do đó, ông T khởi kiện đ nghị
3
Tòa án nhân huyện Jút tuyên hợp đồng đặt cọc ngày 05-6-2022 giữa ông T
với ông Đ hiệu; do hợp đồng đặt cọc hiệu nên buộc ông Đ trả lại cho ông
T số tiền cọc đã nhận 600.000.000 đồng.
Q trình giải quyết ván ông Nguyễn Trung X người đại diện theo ủy
quyền của bị đơn trìnhy: Ngày 05-6-2022, ông Văn Công T ông Nguyễn Văn
Đ có thỏa thuận v việc chuyn nợng thửa đất số C7, tbản đ03-2018, thuộc t
n phố 4, phường N2, thành phố G, tỉnh Đắk Nông, diện ch 245m
2
. Nguồn gốc
của thửa đất này do gia đình ông Đ được UBND thành phG cấp đất tái định
(theo Quyết định số 311/QĐ-UBND ngày 09-4-2021 về việc phê duyệt kết quả bốc
thăm nhận đất i định cư) với gichuyển nhượng 2.280.000.000 đồng. Để đảm
bảo cho việc thực hiện chuyn nợng thửa đất nói trên, hai n đã lập hợp đồng
đặt cọc, nội dung thể hiện ông T nhận chuyển nhượng của ông Đ thửa đất C7, giá
chuyển nhượng 2.280.000.000 đồngông T đặt cọc tớc 600.000.000 đồng, thời
hạn hain thỏa thuận khi nào ông Đ làm xong giấy chứng nhn quyền sử dụng đất
sẽ chuyển nhượng cho ông T ông T trhết s tiền còn lại 1.680.000.000 đồng
cho ông Đ. Ngi ra hai n n thỏa thuận nếu bên n từ chối việc chuyn
nhượng thi phi trả lại tiền cọc chịu pht gấp 02 lần tiền cọc, nếu n mua từ
chối nhận chuyển nhượng tbị mất tiền cọc.
Để thực hiện hợp đồng đặt cọc nêu trên gia đình ông Đ liên hệ UBND thành
phố G để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tuy nhiên đến nay vẫn
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do gia đình ông Đ thuộc
diện gia đình chính sách n thuộc diện được miễn, giảm tiền thuế sử dụng đất
hiện UBND thành phố G đang trong giai đoạn xác minh về việc miễn, giảm tiền
sử dụng đất nên đến nay chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông
T khởi kiện yêu cầu a án tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 05-6-2022 giữa ông
T ông Đ hiệu trả lại số tiền 600.000.000 đồng tiền đặt cọc đã nhận
không cơ sở. Bởi vì theo thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng đặt cọc khi
nào bên n m xong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì sẽ chuyển nhượng
cho bên mua. Hiện nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa làm xong n
gia đình ông Đ chưa vi phạm thỏa thuận theo hợp đồng đặt cọc không thể
chuyển nhượng cho anh Văn Công T. Do đó, ông Đ không đồng ý với toàn bộ nội
dung yêu cầu khởi kiện của ông T và không đồng ý với ý kiến trình bày của người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn. Đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông T. Phía ông Đ đề nghị được tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 05-6-2022.
Trong quá trình giải quyết vụ án, những người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan trình bày: Năm 2021, gia đình P, chị H, anh Đ1 ông Đ được UBND
4
thành phố G cấp tái định thửa đất số C7, diện tích 245m
2
tọa lạc tại phường
N2, thành phố G, tỉnh Đắk Nông. Sau đó, ông Đ ký kết Hợp đồng đặt cọc với
ông Văn Công T, trước khi kết hợp đồng đặt cọc gia đình ông Đ gồm ông
Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị P, chị Nguyễn Thị H anh Nguyễn Văn Đ1
bàn bạc về việc để ông Đ đứng ra nhận đặt cọc của ông T. Nội dung tại Hợp
đồng đặt cọc thể hiện việc ông Đ nhận đặt cọc của ông T số tiền 600.000.000
đồng để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T. Hiện nay gia đình ông Đ
vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa C7. Đối với yêu
cầu khởi kiện của ông T thì P, chị H anh Đ1 giao cho ông Đ toàn quyền
quyết định.
Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 11-9-2024 của Tán nhân
dân huyện t, quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều
35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 228; Điều 271 Điều 273 của Bộ
luật Ttụng dân sự. Áp dụng các điều 116, 117, 118, 122, 123, 131 328 của
Bộ luật Dân sự; Điều 188 của Luật Đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 26 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông Văn Công T.
1. Hợp đồng đặt cọc ngày 05-6-2022 giữa ông Văn Công T và ông Nguyễn
Văn Đ có hiệu lực pháp luật, không vô hiệu;
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Văn Công T về việc giải quyết hậu
quả hợp đồng đặt cọc vô hiệu và buộc ông Nguyễn Văn Đ phải trả lại cho ông T
số tiền 600.000.000đ (sáu trăm triệu đồng) tiền cọc đã nhận.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí dân sự
thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ny 24-9-2024, ông Văn Công T kháng cáo u cầu a án cấp phúc thẩm:
Sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhn yêu cầu khởi kin của nguyên đơn.
Tại phiên toà phúc thẩm, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiệnkháng cáo. Người đại diện theo ủy
quyền của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giữ nguyên nội dung
trình bày như tại phiên tòa sơ thẩm và đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông:
- Vttụng: Thẩm phán Chủ tọa phiên a, các Thẩm phán tham gia
Thư a án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm.
5
- Về nội dung: Sau khi phân ch các tình tiết của vụ án đề nghị Hội đồng
xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, kng chấp nhận
kháng cáo của ông Vănng T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
27/2024/DS-ST ngày 11-9-2024 của Toà án nhân dân huyện Cư Jút.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, kết quả xét hỏi,
tranh tụ ng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông Văn Công T trong thời hạn luật
định, ông T đã nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật.
[2]. Xét nội dung vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Hợp đồng đặt
cọc ngày 05-6-2022 kết giữa nguyên đơn bị đơn thời gian bắt đầu ngày
06-6-2022 và thời hạn kết thúc của hợp đồng đặt cọc bằng một sự kiện pháp
bị đơn trách nhiệm làm xong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất t
nguyên đơn bị đơn thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, Tòa án cấp thẩm không làm bên nào vi phạm thời hạn hợp
đồng đặt cọc, từ đó xác định hợp đồng đặt cọc phát sinh hiệu lực, vi phạm
pháp luật hay không để xác định lỗi của các bên.
Mặt khác, trong thời hạn thực hiện hợp đồng đặt cọc, Tòa án cấp thẩm
chưa làm bị đơn liên hệ quan nhà nước thẩm quyền để xin cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất như thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc hay
không, từ đó mới sở xem xét giá trị pháp lý của hợp đồng đặt cọc thì giải
quyết vụ án mới đúng quy định của pháp luật.
Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp thêm nh tiết mới, hiện nay bị
đơn được Ủy ban nhân dân thành phố G cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số DQ 076905 ngày 30-12-2024.
Từ những nhận định, phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy
việc xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án cấp thẩm chưa đầy đủ, vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
Do đó, hủy bản án thẩm chuyển hồ vụ án cho Tòa án cấp thẩm để
giải quyết lại theo quy định của pháp luật.
[3]. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Nông tại phiên tòa chưa phù hợp nên Hội đồng xét xphúc thẩm không chấp
nhận. Do bản án sơ thẩm bị hủy nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét
nội dung kháng cáo của nguyên đơn.
6
[4]. Về án phí dân sự thẩm: Sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ án
theo thủ tục sơ thẩm.
[5]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị hủy để giải quyết lại
theo thủ tục thẩm nên người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm, trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, khoản 1 Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
áp dụng khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Hủy Bản án dân sự thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 11-9-2024 của T
án nhân dân huyện Jút. Chuyển hồ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện
Jút để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Về án phí:
2.1. Án phí dân sự thẩm: Sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ án theo
thủ tục sơ thẩm.
2.2. Về án phí dân sphúc thẩm: Ông Văn Công T không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm, trả lại cho ông Văn Công T số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn
đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai số 0005287 ngày 16-10-
2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Tp. H;
- VKSND tỉnh Đắ k Nông;
- TAND huyện Cư Jút;
- Chi cục THADS huyện C;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, TDS, THCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký và đóng dấu)
Võ Văn Vinh
Tải về
Bản án số 34/2025/DS-PT Bản án số 34/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 34/2025/DS-PT Bản án số 34/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất