Bản án số 19/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Sơn La về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 19/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 19/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 19/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 19/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Sơn La về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sơn La |
Số hiệu: | 19/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyên đơn ông Vũ Văn T khởi kiện yêu cầu bà Chu Thị T, ông Vũ Quang H phải trả số tiền vay gốc tổng cộng là 2.700.000.000 đồng và mức lãi suất 18%/01 năm tính từ ngày vay đến ngày 07/8/2024 là 1.782.800.000 đồng. Bị đơn có địa chỉ nơi cư trú tại tổ 3, phường Q T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” là có căn cứ, đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SƠN LA
Bản án số: 19/2025/DS-PT
Ngày 14 - 02 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Tuấn Long.
Các Thẩm phán: Bà Điêu Thị Kim Liên; bà Tòng Thị Hiền.
- Thư ký phiên tòa: Ông Sòi Ngọc An Sơn - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Sơn La.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La tham gia phiên toà: Bà
Hoàng Thị Hoa - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét
xử công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 08/2024/TLPT-DS ngày 08
tháng 10 năm 2024 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Do Bản án dân sự
sơ thẩm số 26/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Toà án nhân dân
thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 20/2024/QĐ-PT ngày
20 tháng 11 năm 2024, các Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số
23/2024/QĐ-PT ngày 19 tháng 12 năm 2024 và số 32/2025/QĐ-PT ngày 15
tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Vũ Văn T. Địa chỉ: Tổ 3, phường QT, thành phố Sơn
La, tỉnh Sơn La. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Chu Thị T, ông Vũ Quang H. Địa chỉ: Tổ 3, phường QT,
thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Bà T có mặt, ông H vắng mặt ủy quyền cho bà T.
- Người kháng cáo: Bà Chu Thị T - Bị đơn, người đại diện theo ủy quyền
của ông Vũ Quang H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo nội dung đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Vũ Văn Tuấn trình bày như sau:
Ngày 31/7/2020, ông Vũ Văn T có cho vợ chồng ông Vũ Quang H và bà
Chu Thị T vay số tiền 1.500.000.000 đồng (một tỷ năm trăm triệu đồng). Thời hạn
vay đến 31/12/2020, mức lãi suất 18% một năm. Ông Vũ Quang H và bà Chu Thị
2
T đã trả số tiền lãi 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) vào ngày 28/8/2020.
Ngày 29/12/2020, ông Vũ Văn T tiếp tục cho vợ chồng ông Vũ Quang H và
bà Chu Thị T vay số tiền 1.200.000.000 đồng (một tỷ năm trăm triệu đồng). Thời
hạn vay đến 01/6/2021, mức lãi suất 18% một năm. Ông Vũ Quang H và bà Chu
Thị T đã trả số tiền lãi 24.000.000 đồng (hai mươi tư triệu đồng) vào ngày
27/01/2021.
Ông H, bà T thế chấp cho ông T 2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mang tên chủ cũ và các Hợp đồng chuyển nhượng giữa các chủ cũ và ông H, bà
T. Nội dung thế chấp do bà T tự viết dưới phần ký tên của Giấy vay tiền.
Đến nay, ông H và bà T chưa thanh toán được số tiền vay gốc nên ông T
khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Vũ Quang H và bà Chu Thị T phải trả số tiền vay
gốc tổng cộng là 2.700.000.000 đồng (hai tỷ bảy trăm triệu đồng). Tại bản khai,
ông T đề nghị hoặc làm thủ tục trả cho ông bằng 02 thửa đất bà T đã giao giấy
chứng nhận cho ông T khi vay.
Tại đơn khởi kiện, ông T không yêu cầu bị đơn trả lãi.
Tại các đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện, ông T bổ sung yêu cầu tính lãi với
mức lãi xuất 18%/1 năm đã ghi tại các giấy vay tiền. Tổng số tiền lãi của 2 khoản
vay tính từ ngày vay đến ngày 07/8/2024, trừ số tiền lãi đã trả một lần 45.000.000
đồng, một lần 36.000.000 đồng, nợ lãi còn phải trả 1.782.800.000 đồng.
* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn bà
Chu Thị T, ông Vũ Quang H trình bày như sau:
Vợ chồng ông bà có vay ông T số tiền 2.700.000.000 đồng (Hai tỷ bảy
trăm triệu đồng) theo các giấy vay tiền ngày 31/7/2020 và ngày 29/12/2020. Hai
bên thỏa thuận tài sản thế chấp của giấy vay ngày 31/7/2020 đúng như ông T
trình bày.
Đối với tài sản thế chấp ngày 29/12/2020, không phải là các giấy chứng
nhận và hợp đồng chuyển nhượng như thế chấp ngày 31/7/2020. Bà T có nhắn tin
thỏa thuận trước với ông T về việc thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của vợ chồng bà tại tổ 5, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, bà T đã giao giấy
chứng nhận cho ông T mà quên không ghi rõ vào giấy vay.
Về mức lãi suất, mặc dù giấy vay do bà T tự viết, ghi 18% một năm, nhưng
thực tế hai bên thỏa thuận mức lãi xuất 1.000 đồng trên 1.000.000 đồng một ngày.
Bà T đã nhận tiền vay do ông T chuyển vào tài khoản của ông H. Ông T đã trích lại
số tiền lãi vay trong hạn theo thỏa thuận ngay khi chuyển khoản. Ngoài ra, bà T đã
chuyển khoản tiền lãi vay hàng tháng cho ông T đến tháng 7 năm 2021. Từ đó đến
nay, ông bà không trả tiền lãi hàng tháng và chưa trả được tiền vay gốc.
Nay ông T khởi kiện, ông bà nhất trí có trách nhiệm trả số tiền
1.500.000.000 đồng vay ngày 31/7/2020.
Đối với khoản vay ngày 29/12/2020, đến năm 2021, ông bà và ông T đã có
3
thỏa thuận mới về việc ông bà vay thêm ông T 1.800.000.000 đồng, ghi giấy nhận
tiền bán đất tại tổ 5, phường Chiềng Sinh cho ông T với số tiền 3.000.000.000 đồng.
Thực tế ông T chỉ chuyển khoản cho ông bà T H 1.450.000.000 đồng với lý do cắt
lãi 550.000.000 đồng. Về khoản tiền giao dịch này, ông T đã khởi kiện ông bà T H
vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đã có bản án xét xử
phúc thẩm có hiệu lực pháp luật. Do vậy, ông bà T H không đồng ý với yêu cầu của
ông T về trả số tiền 1.200.000.000 đồng theo giấy vay ngày 29/12/2020.
Do không thỏa thuận được với ông T về giá trị 02 thửa đất mang tên chủ cũ
để trả nợ nên ông T khởi kiện. Tại Tòa án, ông bà đề nghị được tự thỏa thuận giải
quyết việc thế chấp, cùng ông T thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho người khác để lấy tiền trả nợ cho ông T; đồng thời đề nghị Tòa án xem xét
việc nhập vụ án vào vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông T và ông bà để giải quyết.
Tại phiên tòa, bà T yêu cầu ông T trả lại 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và các hợp đồng chuyển nhượng kèm theo, đã ghi tại giấy vay ngày 31/7/2020.
* Tại Bản án Dân sự sơ thẩm số 26/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm
2024 của Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã Quyết định:
Căn cứ vào Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình; các Điều 167, 168
của Luật Đất đai; các Điều 117, 123, 131, 317, 319, 323, 357, 463, 466, 468 của
Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 147, Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản
2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
Buộc bị đơn ông Vũ Quang H và bà Chu Thị T phải trả cho ông Vũ Văn T
tổng số tiền vay gốc và lãi tính đến hết ngày 07/8/2024 là 3.796.843.500 đồng
(Ba tỷ, bảy trăm chín mươi sáu triệu, không trăm bốn mươi ba nghìn, năm trăm
đồng).
Gồm các khoản sau đây:
Tại Giấy vay tiền ngày 31/7/2020:
Số tiền vay gốc còn lại 1.241.469.000 đồng; số tiền nợ lãi tính đến hết
ngày 30/7/2021 là 5.866.000 đồng, số tiền nợ lãi tính từ ngày 31/7/2021 đến
ngày 31/7/2024 là 18.622.000 đồng x 36 tháng = 670.392.000 đồng; số tiền nợ
lãi tính từ ngày 01/8/2024 đến ngày 07/8/2024 = 620.700 đồng x 7 ngày =
4.345.000 đồng.
Tại Giấy vay tiền ngày 29/12/2020:
Số tiền vay gốc 1.147.000.000 đồng; số tiền nợ lãi tính đến ngày 29/7/2024
là 17.205.000 đồng x 42 tháng = 722.610.000 đồng; số tiền nợ lãi tính từ ngày
30/7/2024 đến ngày 07/8/2024 = 573.500 đồng x 9 ngày = 5.161.500 đồng.
4
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án
xong, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi chậm trả của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất đã thỏa thuận, theo quy định tại Điều 357,
Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ông Vũ Văn T phải trả cho ông Vũ Quang H, bà Chu Thị T: Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
CD499292, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 302931 (ghi tại Giấy vay
tiền ngày 31/7/2020) và 02 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất kèm theo,
gồm: Hợp đồng ngày 8/7/2020 giữa bà Lý Thị H (Lý Thị L) và bà Chu Thị T, ông
Vũ Quang H; Hợp đồng ngày 08/10/2019 giữa bà Trần Thị Thu H, ông Nguyễn
Hồng P và bà Chu Thị T, ông Vũ Quang H.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các
đương sự theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn nhất trí với quyết định của bản án sơ
thẩm, không kháng cáo; Viện kiểm sát không kháng nghị. Ngày 22/8/2024, bị
đơn bà Chu Thị T có đơn kháng cáo với nội dung: Kháng cáo toàn bộ Bản án
dân sự sơ thẩm số 26/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Toà án nhân
dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
* Quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp phúc thẩm:
Các đương sự không giao nộp thêm tài liệu, chứng cứ và cũng không đề
nghị Toà án cấp phúc thẩm thực hiện thu thập thêm tài liệu, chứng cứ. Do đó,
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số
35/2022/TLST-DS ngày 05/5/2022 của Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh
Sơn La là căn cứ để Toà án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết vụ án theo quy
định của pháp luật.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Các đương sự; người đại diện của đương sự có mặt tại phiên toà không
thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Nguyên đơn ông Vũ Văn T nêu ý kiến: Không nhất trí với kháng cáo
của bị đơn, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Bị đơn và người đại diện theo uỷ quyền bị đơn có mặt tại phiên toà nêu
ý kiến: Không nhất trí với toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm.
- Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La: Về việc
tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và những người
tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội
dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phần
trình bày của các đương sự tại phiên tòa, nhận thấy các nội dung được giải
quyết, quyết định tại Bản án Dân sự sơ thẩm số 26/2024/DS-ST ngày
5
07/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La là có căn cứ, đúng quy định
của pháp luật, do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Chu Thị T;
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình bày của
các đương sự; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; quan điểm giải quyết
vụ án của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn ông Vũ
Văn T khởi kiện yêu cầu bà Chu Thị T, ông Vũ Quang H phải trả số tiền vay
gốc tổng cộng là 2.700.000.000 đồng và mức lãi suất 18%/01 năm tính từ ngày
vay đến ngày 07/8/2024 là 1.782.800.000 đồng. Bị đơn có địa chỉ nơi cư trú tại
tổ 3, phường Q T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm
xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” là có căn cứ,
đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[1.2] Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn nhất trí với quyết định của bản
án sơ thẩm, không kháng cáo; bị đơn bà Chu Thị T không nhất trí với toàn bộ
nội dung của bản án sơ thẩm có đơn kháng cáo và nộp tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm theo thông báo của Tòa án trong hạn luật định. Xét đơn kháng cáo của bị
đơn bà Chu Thị T được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 272 và Điều 273
Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó, đơn kháng cáo được chấp nhận xem xét theo
trình tự, thủ tục phúc thẩm.
[1.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn ông Vũ Quang H có ủy quyền cho
bà Chu Thị T tham gia phiên tòa, ông H vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Xét
thấy việc ủy quyền đảm bảo theo quy định, căn cứ vào khoản 2 Điều 296 Bộ luật
Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Vũ Quang H tại phiên tòa.
[2] Xét nội dung kháng cáo:
[2.1] Giữa ông Vũ Văn T và bà Chu Thị T, ông Vũ Quang H có thỏa
thuận ký kết với nhau 02 Giấy vay tiền gồm: Giấy vay tiền ngày 31/7/2020, nội
dung ông T cho bà T, ông H vay số tiền 1.500.000.000 đồng, thời hạn vay đến
ngày 31/12/2020, lãi suất 18%/năm. Giấy vay tiền ngày 29/12/2020, nội dung
ông T cho bà T, ông H vay số tiền 1.200.000.000 đồng, thời hạn vay đến ngày
01/6/2021, lãi suất 18%/năm.
[2.2] Bị đơn thừa nhận đã nhận đủ số tiền tại giấy vay tiền ngày 31/7/2020,
chưa thanh toán tiền gốc và nhất trí trả cho nguyên đơn.
Đối với Giấy vay tiền ngày 29/12/2020 bị đơn cho rằng đã có thỏa thuận
khác với nguyên đơn về việc vay thêm số tiền 1.800.000.000 đồng và ghi gộp
6
vào giấy biên nhận bán đất ngày 01/6/2021, tổng số tiền là 3.000.000.000 đồng,
đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại tổ 5, phường Chiềng Sinh,
thành phố Sơn La. Tuy nhiên, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu
trên là vô hiệu, đã được giải quyết bằng Bản án dân sự phúc thẩm số
30/2024/DS-PT ngày 19/3/2024 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án phúc
thẩm số 71/QĐ-SCBSBA ngày 05/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La. Tại
bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật trên, xác định giá trị chuyển nhượng
quyền sử dụng đất 2.000.000.000 đồng tại hợp đồng là do các đương sự khai
thấp hơn giá trị thực tế để tránh bị tính thuế cao, thực tế lập giấy biên nhận bán
đất ngày 01/6/2021, tổng số tiền là 3.000.000.000 đồng. Do đó, ngoài nội dung
kháng cáo bà T không cung cấp thêm được tài liệu, chứng cứ nào khác, không
có căn cứ cho rằng số tiền 1.200.000.000 đồng tại Giấy vay tiền ngày
29/12/2020 đã được các bên thỏa thuận lại vào khoản tiền khác theo giấy biên
nhận ngày 01/6/2021 hay khoản tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
[2.2] Ngoài ra, tại Giấy vay tiền ngày 31/7/2020, các bên có thực hiện biện
pháp bảo đảm cho giấy vay tiền trên là thế chấp 02 Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CD499292 và AA302931, bà T thừa nhận chữ viết trong giấy vay tiền
là do bà T tự viết, có chữ ký của bà T, ông H. Tuy nhiên việc thế chấp không được
thực hiện thành văn bản có công chứng, chứng thực. Hơn nữa, bà T ông H chưa
đăng ký đất đai, chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ông T không
xem xét, kiểm tra, thực hiện việc đăng ký thế chấp theo quy định. Do đó, việc thực
hiện biện pháp bảo đảm cho giấy vay tiền trên là thế chấp 02 Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CD499292 và AA302931 giữa ông T và bà T, ông H là chưa
đúng theo quy định của pháp luật.
[3] Về số tiền gốc và khoản tiền lãi
[3.1] Qua đối chiếu các bản sao kê đương sự nộp, tổng số tiền bà T, ông H
chuyển vào tài khoản ông T đến ngày 15/7/2021 là 502.500.000 đồng. Tòa án
cấp sơ thẩm đối trừ số tiền lãi đã trả cao hơn số tiền lãi phải trả vào số tiền gốc
để tính số tiền lãi của tháng sau trên số tiền vay gốc còn lại, xác định số tiền gốc
và lãi còn phải trả tại thời điểm ngày 31/7/2021 là căn cứ, đúng theo quy định
của pháp luật.
Đối với khoản vay ngày 29/12/2020, ông T không chuyển đủ số tiền vay
gốc đã thỏa thuận, phù hợp với lời khai của các bên đương sự, do đó Tòa án cấp
sơ thẩm chỉ chấp nhận giải quyết tiền gốc và tiền lãi trên số tiền thực tế đã
chuyển khoản là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật.
[3.2] Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bà Tn,
ông H trả số tiền lãi ghi tại 02 giấy vay tiền (18%/năm) là hoàn toàn phù hợp với
quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự và Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
[4] Về phần tuyên lãi suất chậm thi hành án của Tòa án cấp sơ thẩm: Đây
là quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hai bên có thỏa thuận việc trả lãi, do
7
đó Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên lãi suất chậm thi hành án theo đúng quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[6] Từ những phân tích, nhận định nêu trên, xét thấy không có căn cứ
chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Chu Thị T, cần giữ nguyên quyết định tại
Bản án dân sự sơ thẩm số: 26/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La và phù hợp với quan điểm giải quyết
vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La tại phiên toà.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị đơn không được
chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Chu Thị T; giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số: 26/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Bà Chu Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự
phúc thẩm; được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp
tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số: 0002111 ngày 30 tháng 8 năm
2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án
(14/02/2025).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sơn La;
- TAND thành phố Sơn La;
- Chi cục THADS thành phố Sơn La;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Tuấn Long
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 04/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm