Bản án số 157/2025/DS-ST ngày 17/03/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 157/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 157/2025/DS-ST ngày 17/03/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm...
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 157/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất giữa Nguyễn Thị Tuyết Th và Lê Quốc Đ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH E
Bản án số: 157 /2025/DS-PT
Ngày 12-3-2025
V/v tranh chấp đòi T1 sản
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH E
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thu Hương
Các Thẩm phán: Ông Bùi Quang Sơn
Bà Nguyễn Thị Rẻn
- Thư ký phiên tòa: Ông Tấn Vũ - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh E.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh E tham gia phiên tòa: Nguyễn
Thị Xa Riêng - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 3 năm 2025, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh E xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ số: 620/2024/TLPT-DS ngày 23/12/2024 về Tranh
chấp đòi T1 sản là quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 135/2024/DS-ST ngày 22/10/2024 của Tòa án
nhân dân huyện C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 338/2025/QĐ-PT ngày
22/01/2025 giữa các đương sự:
1. Ngun đơn:
1.1. Chị Nguyễn Thị Tuyết Th, sinh năm 1989(Có mặt)
1.2. Anh Phạm Hữu T1, sinh năm 1995
1.3. Cháu Satake P, sinh năm 2007
Cùng địa chỉ: Số 120/21, L, Phường 7, quận V, Thành phố H.
Người giám hộ của cháu SaTake P: Chị Nguyễn Thị Tuyết Th, sinh năm 1989
Địa chỉ: Số 120/21, L, Phường 7, quận V, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Hữu T, sinh năm
1983(Có mặt)
Địa chỉ: Thôn 5, xã Cg, huyện S, tỉnh Th H.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Lê Quốc Đ, sinh năm 1967 (Có Mặt)
2
2.2. Bà Lê Thị Th T1, sinh năm 1982
2.3. Chị Lê Thị Th N2, sinh 2001
Cùng địa chỉ: Số 261 B, ấp A, xã K, huyện C, tỉnh E.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Cháu Lê Thị Tú A, sinh năm 2007
Ngưi đi din hp pháp ca cháu Lê Th Tú A: ông Lê Quc Đ , sinh năm 1967
Đa ch: S261 B, p T, K, huyện C, tỉnh E.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Quốc Đ: Chị ThTrúc Ph, sinh
năm 1992 (Có mặt)
Đa ch: 144 A 3, khu phố 2, pờng P, tnh phố E, tỉnh E.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn Nguyễn Thị Tuyết Th, bị đơn ông
Quốc Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của các nguyên đơn trong quá trình tố tụng, người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Phạm Hữu T1 cháu SaTake P đồng shữu
phần đất diện tích 876,4m
2
thuộc thửa 198, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại An
Khánh, huyện C, tỉnh E theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS11542
do Sở T1 nguyên Môi trường cấp ngày 13/05/2022. Trên đất căn nhà cấp 4
diện tích 250m
2
các cây lâu năm, cây ăn trái, công trình, kiến trúc gắn liền trên
đất. Phần đất tcận phía Bắc giáp thửa 222, phía Nam giáp đường, phía Đông
giáp thửa 197, phía Tây giáp thửa 199.
Phần đất nhà nguồn gốc T1 sản của Thị Anh Đào. Năm 2022,
Đào chết, phần đất trên được ba chị em Nguyễn Thị Tuyết Th, Phạm Hữu T1
và SaTake P cùng đồng sử dụng, đồng sở hữu.
Năm 2006, Đào mẹ của các đồng nguyên đơn công việc đi nước
ngoài sống một thời gian, ông Quốc Đ vợ là Thị Th T1, cùng các con là
Thị Th N2 sinh năm 2001, Thị A sinh năm 2007 nhờ chiếm giữ nhà trái
phép, không chịu trả nhà đất.
Do đó, các nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Quốc Đ, bà Lê
Thị Th T1, chị Lê ThTh N2, cháu Lê ThTú A trả lại nhà và đất trên.
Theo thông báo sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện của Tòa án nhân dân tỉnh E, do
Thị A người chưa đủ 18 tuổi, không đưa vào tham gia tố tụng với cách
người bị kiện. Ngày 12/04/2023 nguyên đơn đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kin
u cầu bị đơn là ông Lê Quốc Đ, bà Lê Thị Th T1, chị Lê Thị Th N2 trả toàn bộ đất
và công trình trên đất.
Đối với phần đất hiệu 198-3 diện tích 150,8m
2
do ông T1 quản nên
nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với phần này. Toàn bộ công trình
kiến trúc cây trồng trên đất đều do Đào xây cất trồng trọt, yêu cầu bị đơn
3
ông Quốc Đ, Lê Thị Th T1, chị Thị Th N2 cùng người trên đất cháu
Thị Tú A trả lại phần đất thuộc thửa 198-1, 198-2, 198-4,198-5 thuộc một phần
thửa 198, tờ bản đồ số 13 tọa lạc tại An Khánh, huyện C, tỉnh E cùng toàn bộ
công trình kiến trúc và cây trồng trên đất. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn thì nguyên đơn đồng ý cho bị đơn và người ở trên đất di dời nhà tạm
thuộc thửa 198-2 diện tích 61,1m
2
để shữu, sử dụng. Nguyên đơn đồng ý với kết
quả đo đạc, định giá có trong hồ sơ vụ án.
Trong quá trình tố tụng, bị đơn ông Quốc Đ người đạị diện theo ủy
quyền của bị đơn trình bày:
Khoảng năm 1999, bà Thị Anh Đào có nhận chuyển nhượng của
Nguyễn Thị Thu Vân 01 thửa đất diện tích 500m
2
là thửa 772, tờ bản đồ số 3, tọa lạc
tại An Khánh, huyện C, tỉnh E. Do xa không thể quản được nên Đào đã
cho ông Đ cất nhà ở trên đất này để quản lý giúp cho bà Đào và ở gần tiện chăm sóc
cha mẹ. Phần đất này do Đào nhận chuyển nhượng từ Vân được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1998. Sau khi được sự đồng ý của Đào, ông
Đ đã vào canh tác. Lúc này đất còn rất thấp không thể vào cất nhà. Ông Đ đã
san lấp cát cho mặt bằng cao xây dựng nhà. Căn nhà được ông Đ xây dựng năm
1999, có chiều ngang 9m chiều dài 15m, tổng diện tích là 135m
2
.
Năm 2000, do làm ăn kkhăn bà Vân có bán phần đất diện tích 500m
2
thuộc thửa 1222, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã An Khánh, huyện C, tỉnh E giáp ranh
phần đất bà Đào ông Đ đang quản lý, sử dụng. Ông Đ đã nhận chuyển nhượng
thửa đất này với giá 22.000.000 đồng. làm giấy tay mua bán đất, nhưng do thời
gian quá lâu đã bị thất lạc. Sau khi nhận chuyển nhượng đất ông Đ để cho ông
Văn Tạo đứng tên quyền sdụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho hộ ông Lê Văn Tạo năm 2000. Ông Đ đã san lấp mặt bằng và canh tác đất.
Năm 2000, ông Đ T1 cưới nhau về chung sống trên đất căn nhà
ông Đ xây dựng cho đến hôm nay.Vợ chồng ông Đ mở rộng diện tích n nhà
phía trước và phía sau để thuận tiện kinh doanh. Năm 2004, khi ông Đ xây dựng căn
nhà phía trước và phía sau để bán tạp hóa, bà Đào biết nhưng không có ngăn cản hay
tranh chấp. Ông Đ và vợ đã ở trên căn nhà này cho đến nay là 24 năm.
Ngày 26/06/2018, cha mẹ ông ông Văn Tạo Đặng Thị Thu đã
làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa 1222, tờ bản đồ số 3 nay
một phần thửa 198, tờ bản đồ số 13 cho Đào, ông Đ hoàn toàn không biết. Sau
đó, Đào đo đạc và hợp hai thửa thành 198, tờ bản đsố 13, diện tích 876,4 m
2
và
được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền s dụng đất ngày
18/07/2018.
Năm 2020, Đào đã khởi kiện yêu cầu ông Đ di dời trả đất. Trong quá trình
giải quyết Đào đã thỏa thuận với ông: Bà Đào đồng ý trả cho gia đình ông phần
đất diện tích 250m
2
căn nhà hiện tại ông đang sinh sống buôn bán. Ông
đồng ý giao trả Đào phần đất n lại thuộc thửa 198, tờ bản đồ số 13. Hai bên
thỏa thuận bà Đào rút đơn và tiến hành thủ tục cấp giấy chứng nhận.
4
Tháng 4 năm 2021, do mái tôn nhà cấp 4 bị hỏng nên ông tiếp tục sửa lại
hoàn toàn căn nhà tiền chế bao trùm lên căn nhà cấp 4. Khi sửa chữa Đào vẫn
thường xuyên lưu trú tại địa phương không có ý kiến phản đối. Tuy nhiên, ông và bà
Đào chưa làm hợp đồng tặng cho thì bà Đào chết năm 2022.
Tất cả công trình trên đất do ông Đ xây, không phải Đào xây rồi cho
nhờ. Ông yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 2424 quyền
số 04/2018 giữa ông Văn Tạo, Đặng Thị Thu Hà sang Lê Thị Anh Đào.
Phần đất tranh chấp cấp cho hộ khi ông Tạo ký tặng cho không có chữ ký của những
thành viên trong hộ . Yêu cầu Tòa án công nhận theo thỏa thuận giữa ông và
Đào đối với thửa 198-4, 198-5. Ông đồng ý trả cho bà Đào thửa đất 198-1, 198-2.
Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông Đ rút toàn bộ
yêu cầu phản tố, không đồng ý trả phần đất thuộc thửa 198-4, 198-5 theo ông Đ đất
này ông nhận chuyển nhượng của bà Vân, nên không đồng ý trả đất. Nếu trường hợp
Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ông Đ yêu cầu phải xem xét
tất cả công trình trên đất và cây trồng do bị đơn xây và trồng trên đất. Ông Đ đồng ý
với kết quả đo đạc và định giá.
Trong quá trình tố tụng, bđơn Nguyễn Thị Th T1 chị Thị Th N2
vắng mặt nên không có lời trình bày.
Do không thể tiến hành hòa giải, Tòa án nhân dân huyện C đã đưa vụ án ra xét
xử.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 135/2024/DS-ST ngày 22/10/2024 của Tòa án
nhân dân huyện C đã áp dụng Điều 166, 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 688 Bộ
luật Dân s2005; Điều 170 Luật Đất đai năm 2013; Điều 5, Điều 26, điểm a khoản
1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa án tuyên
xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc ông Quốc Đ, Thị Th T1, chị Thị Th N2, cùng cháu Lê Thị
A phải di dời nhà tạm trên thửa đất 198-2 diện tích 61.1 m
2
trả lại cho chị
Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Phạm Hữu T1, cháu SaTake P (do chị Th giám hộ) quyền
sử dụng đất thuộc các phần hiệu 198-1 diện ch 417,2m
2
, 198-2 diện tích
61,1m
2
, 198-4 diện tích 70,1 m
2
, 198-5 diện tích 176,6 m
2
có tổng diện tích là 725m
2
thuộc một phần thửa 198, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại An Khánh, huyện C, tỉnh E
quyền sở hữu các công trình kiến trúc gắn liền các thửa đất trên gồm: Căn nhà
chính kết cấu móng cột dầm tông, cốt thép, tường bao che, ngăn gạch dày 10 cm,
hoàn thiện sơn nước, có trần, nền lát gạch bông, mái tôn tráng kẽm gắn liền với phần
đất hiệu 198-4 diện tích 70,1m
2
; phần nhà tiền chế kết cấu móng tông cốt
thép, khung cốt thép, mái tôn tráng kẽm, vách tôn một phần xây gạch không trần,
nền xi măng bên trong một phần diện tích kết cấu tường xây gạch gắn liền
với phần hiệu 198-5 diện tích 176,6m
2
; hàng rào trụ đà tông cốt thép tường
xây lửng cao dưới 0,8m, phía trên vách tôn tráng kẽm (có họa đồ kèm theo).
5
Chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Phạm Hữu T1, cháu SaTake P (do chị Tuyết
Th giám hộ) phải trách nhiệm trả lại cho ông Quốc Đ, Thị Th T1, chị
Lê Thị Th N2 số tiền 59.206.500đ (Năm mươi chín triệu hai trăm lẻ sáu nghìn năm
trămđồng) giá trị các cây trồng trên đất bao gồm 06 (sáu) cây dừa trên 10 năm
tuổi, 02 (hai) cây mận trên 10 năm tuổi 01 (một) cây cóc 15 năm tuổi, 01 (một)
bụi tre 15 năm tuổi cùng chi phí hổ trợ di dời cây mai, chi phí đốn chặt cây bông
sua đũa và 10% giá trị phần nhà tiền chế gắn liền với phần đất có kí hiệu 198-5.
Chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Phạm Hữu T1, cháu Satake P (do chị Th
giám hộ) được quyền sở hữu các cây trồng trên đất gồm 06 (sáu) cây dừa trên 10
năm tuổi, 02 (hai) cây mận trên 10 năm tuổi, 01 (một) cây cóc 15 năm tuổi, 01
(một) bụi tre 15 năm tuổi.
Ông Quốc Đ, Lê Thị Th T1, chị Thị Th N2 và cháu Thị A
được quyền lưu cư trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh
Phạm Hữu T1, cháu SaTake P (do chị Tuyết Th giám hộ) đối với việc buộc ông
Quốc Đ, Thị Th T1, chị Thị Th N2, cháu Thị A trả lại thửa đất
198-3 diện tích 150,8 m
2
.
Đình chỉ yêu cầu phản tố của ông Quốc Đ về việc yêu cầu công nhận
quyền sử dụng phần đất hiệu 198-4, 198-5 thuộc một phần thửa 198, tờ bản
đồ số 13, tọa lạc tại An Khánh, huyện C, tỉnh E yêu cầu hủy hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất số 2424 quyền số 04/2018 giữa ông Văn Tạo, bà Đặng
Thị Thu Hà sang bà Lê Thị Anh Đào.
Đối với phần diện tích 3,3m
2
hiệu 197-1; phần diện tích 2.0m
2
hiệu 197-2; phần diện tích nhà tiền chế 17,9 m
2
do ông Đ quản lý sử dụng gắn liền
với phần hiệu 1000-2 phần đất hiệu 1000-2 diện tích 17,9m
2
đất
giao thông nông thôn; phần nhà tạm ông Đ quản sử dụng thuộc phần hiệu
202-1 diện tích 3.3m
2
, phần có kí hiệu 198-6 diện tích 0.6m
2
Tòa án không xem xét
giải quyết.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ chậm thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 31/10/2024, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Nguyễn Hữu
T1 kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm
sửa bản án thẩm, không buộc nguyên đơn trả cho bị đơn giá trị cây trồng
công trình kiến trúc trị giá 59.206.500 đồng không đồng đồng ý để bị đơn lưu
cư 03 tháng.
Ngày 04/11/2024, bị đơn ông Lê Quốc Đ kháng cáo toàn bộ bản án thẩm,
đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm, buộc nguyên đơn hoàn lại cho bị đơn
giá trị các công trình kiến trúc ông đã xây dựng trên các phần đất hiệu
198-4, 198-5, 198-2 theo kết quả định giá và thời hạn lưu cư là 06 tháng kể từ ngày
bản án có hiệu lực.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn chị Th, anh T1 vẫn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo không đồng ý trả cho bị đơn giá trị cây trồng công trình kiến trúc trị
6
giá 59.206.500 đồng không đồng đồng ý để bị đơn lưu 03 tháng; bđơn vẫn
giữ nguyên yêu cầu kháng cáo yêu cầu nguyên đơn hoàn lại cho bị đơn giá trị các
công trình kiến trúc mà ông đã xây dựng trên các phần đất có kí hiệu 198-4, 198-5,
198-2 theo kết quả định giá và thời hạn lưu cư là 06 tháng.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh E tham gia phiên tòa phát biểu ý
kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng đã
tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Tuyết Th,
anh Phạm Hữu T1,không chấp nhận kháng cáo của chị ông Lê Quốc Đ, giữ nguyên
Bản án thẩm số: 135/2024/DS-ST ngày 22/10/2024 của Tòa án nhân dân huyện
C.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các T1 liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai
tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên; xét
kháng cáo của chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Phạm Hữu T1, ông Quốc Đ; Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Nguyên đơn, bị đơn chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Phạm Hữu T1, ông
Quốc Đ kháng cáo thực hiện các thủ tục kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn luật
định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Lê Thị Th T1, chị Thị Th N2 đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt nên HĐXX nên tòa án vẫn tiến hành
xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Phần đất tranh chấp qua đo đạc thực tế diện tích 876,4m
2
thuộc thửa
198, tờ bản đồ số 13, tọa lạc xã An Khánh, huyện C, tỉnh E. Phần đất tranh chấp đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh
Hữu T1, cháu Satake P nhưng bị đơn ông Đ, Thủy, chị N2 đang quản lý, sử
dụng một phần thửa đất.
Nguyên đơn căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất yêu cầu gia đình
bị đơn di dời T1 sản, trả lại phần đất tranh chấp hiệu 198-1, 198-2, 1998-4,
18-5. Bị đơn cho rằng trong thửa đất 198 một phần đất do bị đơn nhận chuyển
nhượng từ người khác nên chỉ đồng ý trả lại các phần hiệu 198-1, 198-2,
không đồng ý trả lại các phần 198-4 và 198-5.
[2] Đối với phần quyết định của bản án sơ thẩm, buộc ông Đ, T1, chị N2,
cháu A trả lại cho nguyên đơn các phần đất hiệu 198-1, 198-2, 198-4,
198-5, bị đơn không kháng o, Viện kiểm sát không kháng nghị nên cấp
phúc thẩm không xem xét lại.
7
[3] Đối với kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn về T1 sản trên đất:
[3.1] Về công trình kiến trúc: Cả nguyên đơn bị đơn đều cho rằng mình
người người xây dựng nhà các công trình kiến trúc trên các phần đất hiệu
198-2, 198-4 198-5. Tuy nhiên, cả nguyên đơn bị đơn đều không cung cấp
được chứng cứ trực tiếp chứng minh cho trình bày của mình mà chỉ có các chứng cứ
gián tiếpnhững văn bản xác nhận của những người làm chứng.
Đối với các chứng cứ do bị đơn cung cấp văn bản trình bày ý kiến cam
kết của ông Tạo, (cha mẹ của ông Đ), trong quá trình tố tụng trước đây giữa
Thị Anh Đào với ông Quốc Đ thì ông Tạo, cũng tường trình, nội
dung tường trình nội dung của văn bản trình bày ý kiến mâu thuẫn nhau về việc
mua đất, xây nhà nên không sở để xem xét lời trình bày của ông Tạo, .
Đối với trình bày của ông Đỗ Văn Lập, tại phiên tòa thẩm ông Lập cho rằng văn
bản xác nhận do tự nguyên đơn và bị đơn mỗi bên đánh máy soạn sẵn, tôi chỉ ký tên,
khi tên thì tôi nói tôi làm Trưởng ấp từ năm 2002, còn việc nhà cất trên đất
tranh chấp thì tôi không rõ” nên văn bản do bị đơn cung cấp đơn xác nhận của ông
Lập ngày 17/09/2024 cũng không sở để xem xet. Đối với các bản phô hóa
đơn giá trị gia tăng, phiếu giao hàng, biên nhận do ông Đ cung cấp cũng không thể
hiện được các vật liệu này phục vụ cho công trình kiến trúc nào, phải các T1
sản các bên đang tranh chấp hay không nên cũng không đủ căn cứ để xác định
ông Đ là người xây dựng các công trình kiến trúc trên đất.
Trong khi đó, bản tường trình của Hồng Hạnh ngày 26/12/2019, bản
tường trình của bà Thị Thu Trang ngày 26/12/2019 họ đều chem ruột của
Đào ông Đ trình bày thống nhất tất cả nhà, công trình trên đất trên đất tranh chấp
do bà Đào xây cất, ông Đ mở rộng thêm căn nhà tiền chế mà không hỏi ý kiến bà
Đào, bà Đào định báo chính quyền nhưng ông Tạo bà Hà ngăn cản. Lời trình bày
của ông Hạnh, Trang phù hợp với lời trình bày của những người làm chứng
Nguyễn Thị Thu Vân tại bản tường trình ngày 26/12/2019, ông Lê Minh Đạo tại bản
tường trình ngày 12/12/2019, ông Nguyễn Th Quang tại bản tường trình ngày
25/12/2019, văn bản xác nhận của Nguyễn Kim Tranh đề ngày 21/10/2024. Do
đó, có cơ sở khẳng định bà Đào là người xây cất công trình trên đất bao gồm căn n
chính gắn liền thửa 198-4 và nhà tiền chế gắn liền trên thửa đất 198-5, hàng rào trên
đất.
Bđơn cung cấp thêm xác nhận của ông Nguyễn Ngọc Huy về việc thi công
nhà, văn bản ý kiến của ông Quốc Khánh, xác nhận của Trần Thị Mai vviệc
mua bán vật liệu xây dựng và các bản photo hóa đơn mua vật liệu xây dựng, xét thấy
các chứng cứ trên không chứng cứ trực tiếp chứng minh cho trình bày của mình
mà chỉ có các chứng cứ gián tiếp của những người làm chứng. Hơn nửa, các hóa đơn
bản photo không thể hiện được các vật liệu này phục vụ cho công trình kiến trúc
nào, phải các T1 sản các bên đang tranh chấp hay không nên cũng không
đủ căn cứ để xác định ông Đ là người xây dựng các công trình kiến trúc trên đất.
Trong quá trình sdụng các công trình này, ông Đ mở rộng thêm, điều
này được chính bà Đào khi còn sống thừa nhận tại bản tự khai ngày 15/11/2019 “xây
dựng phần phía trước nhà làm nhà tiền chế ngang 9 mét dài khoảng 5 mét”. Do đó,
8
căn cứ xác định gia đình ông Đ một phần công sức đóng góp mở rộng thêm
một phần căn ntiền chế phía trước. Tuy nhiên, việc mở rộng này chỉ một phần
của nhà tiền chế trên phần đất hiệu 198-5 nên cấp thẩm buộc nguyên đơn bồi
hoàn 10% giá trị phần diện tích căn nhà tiền chế gắn liền thửa 198-5 là phù hợp.
Căn nhà tạm trên thửa đất 198-2 diện tích 61,1 m
2
nguyên đơn đồng ý cho bị
đơn di dời và toàn quyền sở hữu nên ghi nhận.
[3.2] Đối với các cây trồng trên đất:
Gia đình bị đơn đã quản lý, sử dụng đất trong thời gian dài, nguyên đơn không
chứng minh được đã trồng cây trên đất trước thời điểm gia đình ông Đ quản đất,
đồng thời nguyên đơn cũng thừa nhận gia đình ông Đ người trực tiếp thu hoạch
huê lợi đối với cây trồng trên đất. Do đó, cấp thẩm xác định cây trồng trên đất do
gia đình bị đơn trồng căn cứ. Khi nguyên đơn được sở hữu cây trồng thì
nguyên đơn phải có trách nhiệm bồi hoàn giá trị cây trồng cho gia đình ông Đ. Đồng
thời việc trồng cây của bị đơn cũng không bị nguyên đơn ngăn cản, do đó nguyên
đơn phải nghĩa vụ htrợ tiền di dời, đốn chặt đối với các cây trng khác phù
hợp.
[4] Về quyền lưu cư:
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, gia đình bị đơn phải di
dời toàn bộ T1 sản ra khỏi phần đất tranh chấp trong khi cả gia đình bị đơn đang
sinh sống tại phần đất này. Do đó, để tạo điều kiện cho gia đình bị đơn đủ thời
gian để chuyển qua nơi mới, ổn định cuộc sống, cấp thẩm quyết định cho bị
đơn được lưu 03 tháng phù hợp. Bị đơn kháng cáo đề nghị kéo dài thời gian
lưu cư 06 tháng nhưng không cung cấp được T1 liệu, chứng cứ chứng minh có khó
khăn về chỗ ở, cần nhiều thời gian hơn để ổn định cuộc sống nên không được chấp
nhận. Nguyên đơn kháng cáo không đồng ý cho bị đơn lưu cư, buộc bị đơn phải di
dời T1 sản ra khỏi phần đất ngay khi bản án hiệu lực pháp luật, xét thấy việc
thay đổi chỗ ở của cả gia đình cần phải có một khoảng thời gian để thực hiện, tránh
gây ra những biến động lớn không cần thiết trong cuộc sống của bị đơn nên việc
lưu cư 03 tháng là phù hợp, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.
Từ những nhận định trên, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, buộc bị đơn di dời T1 sản trả lại phần đất tranh chấp, đồng thời buộc
nguyên đơn trả 10% giá trị nhà tiền chế, giá trị cây trồng tuyên về quyền lưu
phù hợp. Nguyên đơn, bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được T1 liệu,
chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu của mình nên không được chấp nhận.
Tuy nhiên, cấp thẩm không tuyên buộc bị đơn di dời 02 cây mai, đốn chặt 01
cây sua đũa là có thiếu sót, cấp phúc thẩm điều chỉnh phần này.
[5] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh E phù hợp với nhận định của
Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên chị
Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Hữu T1, ông Quốc Đ phải chịu án phí theo quy
định.
Vì các lẽ trên,
9
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Kng chp nhn kng cáo ca chNguyễn Th Tuyết Th, anh Lê Hu T1;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Quốc Đ;
Giữ nguyên Bản án thẩm số: 135/2024/DS-ST ngày 22/10/2024 của Tòa
án nhân dân huyện C, tỉnh E.
Áp dụng Điều 166, 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 688 Bộ luật Dân sự
2005; Điều 170 Luật Đất đai năm 2013; Điều 5, Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39, điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc ông Quốc Đ, Thị Th T1, chị Thị Th N2, cùng cháu Lê Thị
A phải di dời nhà tạm trên thửa đất 198-2 diện tích 61.1 m
2
trả lại cho chị
Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Phạm Hữu T1, cháu SaTake P (do chị Th giám hộ) quyền
sử dụng đất thuộc các phần hiệu 198-1 diện ch 417,2m
2
, 198-2 diện tích
61,1m
2
, 198-4 diện tích 70,1 m
2
, 198-5 diện tích 176,6 m
2
có tổng diện tích là 725m
2
thuộc một phần thửa 198, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại An Khánh, huyện C, tỉnh E
quyền sở hữu các công trình kiến trúc gắn liền các thửa đất trên gồm: Căn nhà
chính kết cấu móng cột dầm tông, cốt thép, tường bao che, ngăn gạch dày 10 cm,
hoàn thiện sơn nước, có trần, nền lát gạch bông, mái tôn tráng kẽm gắn liền với phần
đất hiệu 198-4 diện tích 70,1m
2
; phần nhà tiền chế kết cấu móng tông cốt
thép, khung cốt thép, mái tôn tráng kẽm, vách tôn một phần xây gạch không trần,
nền xi măng bên trong một phần diện tích kết cấu tường xây gạch gắn liền
với phần hiệu 198-5 diện tích 176,6m
2
; hàng rào trụ đà tông cốt thép tường
xây lửng cao dưới 0,8m, phía trên vách tôn tráng kẽm (có họa đồ kèm theo).
Chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Phạm Hữu T1, cháu SaTake P (do chị Tuyết
Th giám hộ) phải trách nhiệm trả lại cho ông Quốc Đ, Thị Th T1, chị
Lê Thị Th N2 số tiền 59.206.500đ (Năm mươi chín triệu hai trăm lẻ sáu nghìn năm
trămđồng) giá trị các cây trồng trên đất bao gồm 06 (sáu) cây dừa trên 10 năm
tuổi, 02 (hai) cây mận trên 10 năm tuổi 01 (một) cây cóc 15 năm tuổi, 01 (một)
bụi tre 15 năm tuổi cùng chi phí hỗ trợ di dời 02 cây mai, chi phí đốn chặt 01 cây
bông sua đũa và 10% giá trị phần nhà tiền chế gắn liền với phần đất có kí hiệu 198-
5.
Chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Phạm Hữu T1, cháu Satake P (do chị Th
giám hộ) được quyền sở hữu các cây trồng trên đất gồm 06 (sáu) cây dừa trên 10
năm tuổi, 02 (hai) cây mận trên 10 năm tuổi, 01 (một) cây cóc 15 năm tuổi, 01
(một) bụi tre 15 năm tuổi.
Buộc ông Lê Quốc Đ, bà Lê Thị Th T1, chị Lê Thị Th N2 và cháu Lê Thị
A có nghĩa vụ di dời 02 cây mai, đốn chặt 01 cây bông sua đũa.
10
Ông Quốc Đ, Lê Thị Th T1, chị Thị Th N2 và cháu Thị A
được quyền lưu cư trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh
Phạm Hữu T1, cháu SaTake P (do chị Tuyết Th giám hộ) đối với việc buộc ông
Quốc Đ, Thị Th T1, chị Thị Th N2, cháu Thị A trả lại thửa đất
198-3 diện tích 150,8 m
2
.
Đình chỉ yêu cầu phản tố của ông Quốc Đ về việc yêu cầu công nhận
quyền sử dụng phần đất hiệu 198-4, 198-5 thuộc một phần thửa 198, tbản
đồ số 13, tọa lạc tại An Khánh, huyện C, tỉnh E yêu cầu hủy hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất số 2424 quyền số 04/2018 giữa ông Văn Tạo, bà Đặng
Thị Thu Hà sang bà Lê Thị Anh Đào.
Đối với phần diện tích 2m
2
kí hiệu 197-1; phần diện tích 3.1m
2
kí hiệu
197-2; phần diện tích nhà tiền chế 17,9 m
2
do ông Đ quản sử dụng gắn liền với
phần hiệu 1000-2 phần đất hiệu 1000-1 diện tích 4,9m
2
đất giao
thông nông thôn; phần nhà tạm ông Đ quản lý sử dụng thuộc phần có kí hiệu 202-1
diện tích 3.3m
2
, phần hiệu 198-6 diện tích 0.6m
2
Tòa án không xem xét giải
quyết.
Kể tngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án quyn ch động ra quyết định thi hành án) hoc k
t ny đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án i với c
khoản tiền phải tr cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
n phải thi hành án n phải chịu khoản tiền lãi của s tin còn phải thi hành
theo mức i suất quy đnh ti khon 2 Điều 468 của Bộ luật Dân snăm 2015,
trừ trường hợp pháp luật có quy định kc.
[2] V chi phí tố tụng:
Ông Lê Quốc Đ, Thị Th T1, chị Thị Th N2 phải liên đới chịu chi
phí thu thập chứng cứ 13.902.000 đồng. Ông Quốc Đ, Thị Th T1, chị
Thị Th N2 trách nhiệm liên đới hoàn lại cho chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh
Phạm Hữu T1, cháu SaTake P (do Th giám hộ) số tiền 13.902.000 ( mười ba
triệu chín trăm lẻ hai ngàn) đồng
[3] Về án phí:
[3.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc ông Quốc Đ, Thị Th T1, chị Thị Th N2 phải liên đới chịu
án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 ( ba trăm ngàn) đồng.
Buộc Nguyễn Thị Tuyết Th, ông Phạm Hữu T1, cháu Satake P (do Th
giám hộ) phải chịu án phí dân sự thẩm giá ngạch 2.960.000 (hai triệu chín
trăm sáu mươi ngàn) đồng.
Hoàn lại cho ông Phạm Hữu T1 số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo
biên lai thu số 0000821 ngày 13/10/2023 của chi cục thi hành án dân sự huyện C,
tỉnh E.
Hoàn lại cho Nguyễn Thị Tuyết Th số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng
theo biên lai thu số 0000822 ngày 13/10/2023 của chi cục thi hành án dân sự huyện
C, tỉnh E.
11
Hoàn lại cho ông Lê Quốc Đ số tiền tạm ng án phí 300.000 đồng theo biên
lai thu số 0003089 ngày 18/09/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh
E.
[3.2] Án phí phúc thm: Buộc chị Nguyễn Thị Tuyết Th, anh Hữu T1,
ông Lê Quốc Đ mỗi người phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số
tiền tạm ứng án phí mỗi người đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án
phí, lệ phí tòa án s0006213 ngày 05/11/2024, số 0006295 và 0006296 cùng ngày
15 tháng 11 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh E.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
ỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 của Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điu 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh E;
- TAND huyện C;
- Chi cục THADS huyện C;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã Ký
Lê Thị Thu Hương
Tải về
Bản án số 157/2025/DS-ST Bản án số 157/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 157/2025/DS-ST Bản án số 157/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất