Bản án số 123/2025/DS-PT ngày 21/03/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 123/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 123/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 123/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 123/2025/DS-PT ngày 21/03/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm... |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 123/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông D khởi kiện yêu cầu buộc bà X trả cho ông D quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 313, tờ bản đồ số 23, diện tích 759,1m2 (trong đó 300m2 đất ở và 459,1m2 đất trồng cây lâu năm); tài sản trên đất là nhà chính diện tích xây dựng 108,01m2 giá trị 265.704.600 đồng; máy che 01 có diện tích xây dựng 60,45m² giá trị 50.853.600 đồng; máy che 2 diện tích 32,03m2 giá trị 4.580.290 đồng; nhà tạm thời 1 xây dựng diện tích 60,45m² giá trị 58.032.000 đồng; nhà xây dựng tạm thời 2 diện tích là 7,2m² giá trị 1.399.680 đồng; nhà tạm thời 3 xây dựng 4,18m2 giá trị 792.528 đồng; nhà xây dựng tạm thời 4 diện tích là 15,91m2 giá trị 6.682.200 đồng; hệ thống lọc đóng chai đã qua sử dụng giá trị 84.000.000 đồng; cây trồng trên đất gồm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 123/2025/DS-PT
Ngày 21 – 3– 2025
V/v tranh chấp đòi lại tài sản là quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Lập
Các Thẩm phán: Bà Đinh Cẩm Đào
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Ông
Bùi Trung Biển – Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 561/2024/TLPT-DS ngày 11 tháng 12
năm 2024 về việc tranh chấp: Đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 190/2024/DS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện U Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 36/2025/QĐ-PT ngày
04 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Võ Chí D, sinh năm (Vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Khóm 1, phường 8, thành phố C, tỉnh C.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của ông Võ Chí D: Ông Lê Trí T,
sinh năm 1979; địa chỉ cư trú: Ấp 6, xã K, huyện U, tỉnh C . (Có mặt).
- Bị đơn: Bà Võ Thị X, sinh năm 1972 (Có mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp 14, xã K, huyện U, tỉnh C ..
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Võ Thị X: Ông Trịnh Thái
Bảo, là Luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp
pháp lý Nhà nước tỉnh Cà Mau (Có mặt).
- Người kháng cáo: Bà Võ Thị X, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
- Theo ông Lê Trí T trình bày:
Ông Võ Chí D là người trúng đấu giá tài sản theo hợp đồng mua bán tài sản
đấu giá số 171/2022/HĐMB-MK-CM. Tài sản là quyền sử dụng đất, công trình
xây dựng trên đất, cây trồng, hệ thống lọc nước đóng chai đã qua sử dụng của bà
Võ Thị X, tọa lạc ấp 14, xã Khánh Hòa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, gồm:
+ Quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 313, tờ bản đồ số 23, diện tích
759,1m
2
(trong đó 300m
2
đất ở và 459,1m
2
đất trồng cây lâu năm); tài sản trên
đất là nhà chính diện tích xây dựng 108,01m
2
giá trị 265.704.600 đồng; máy
che 01 có diện tích xây dựng 60,45m² giá trị 50.853.600 đồng; máy che 2 diện
tích 32,03m
2
giá trị 4.580.290 đồng; nhà tạm thời 1 xây dựng diện tích 60,45m²
giá trị 58.032.000 đồng; nhà xây dựng tạm thời 2 diện tích là 7,2m² giá trị
1.399.680 đồng; nhà tạm thời 3 xây dựng 4,18m
2
giá trị 792.528 đồng; nhà xây
dựng tạm thời 4 diện tích là 15,91m
2
giá trị 6.682.200 đồng; hệ thống lọc đóng
chai đã qua sử dụng giá trị 84.000.000 đồng; cây trồng trên đất gồm: Dừa 06
cây, Tràm 06 cây, Chuối 28 cây và Sộp 01 cây, giá trị 10.320.000 đồng.
+ Quyền sử dụng đất thuộc thửa số 298, tờ bản đồ số 23, diện tích
15.970,1m
2
, đất chuyên trồng lúa nước.
Sau khi trúng đấu giá, giữa ông D với bà X có lập hợp đồng thoả thuận ngày
12/7/2022 với nội dung: Ông D giao lại cho bà X quản lý các trong thời gian 30
ngày (từ 12/7/2022 đến 12/8/2022); hết thời gian nêu trên mà bà X không có tìm
được người mua đất hoặc nộp trả cho ông D 1.622.000.000 đồng thì bà X tự
nguyện trả các tài sản lại cho ông D và không yêu cầu bất cứ điều gì. Theo cam
kết hợp đồng thỏa thuận ngày 12/7/2022 thì đã quá thời gian thỏa thuận nhưng
bà X cố tình không thực hiện theo thỏa thuận. Do đó, ông D khởi kiện yêu cầu
buộc bà X trả cho ông D quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 313, tờ bản đồ số
23, diện tích 759,1m
2
(trong đó 300m
2
đất ở và 459,1m
2
đất trồng cây lâu năm);
tài sản trên đất là nhà chính diện tích xây dựng 108,01m
2
giá trị 265.704.600
đồng; máy che 01 có diện tích xây dựng 60,45m² giá trị 50.853.600 đồng; máy
che 2 diện tích 32,03m
2
giá trị 4.580.290 đồng; nhà tạm thời 1 xây dựng diện
tích 60,45m² giá trị 58.032.000 đồng; nhà xây dựng tạm thời 2 diện tích là 7,2m²
giá trị 1.399.680 đồng; nhà tạm thời 3 xây dựng 4,18m
2
giá trị 792.528 đồng;
nhà xây dựng tạm thời 4 diện tích là 15,91m
2
giá trị 6.682.200 đồng; hệ thống
lọc đóng chai đã qua sử dụng giá trị 84.000.000 đồng; cây trồng trên đất gồm:
Dừa 06 cây, Tràm 06 cây, Chuối 28 cây và Sộp 01 cây giá trị 10.320.000 đồng,
phần đất toạ lạc tại ấp 14, xã Khánh Hoà, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.
- Theo bà Võ Thị X trình bày:
Trước đây bà có nợ tiền của ông D và ông Khải nên bà có kêu người sang
đất để trả nợ cho ông D, nhưng ông D có bàn với bà là đăng ký ra cho thi hành án
kê biên, ông D sẽ mua; nhưng đợt 1 ông D kêu bà đứng ra mua lại toàn bộ phần đất
chi phí đấu giá là 80.600.000 đồng. Ông D nói nếu đấu giá trúng thì ông D đưa cho
bà 800.000.000 đồng phụ vô để nộp cho thi hành án là tiền mua đất nhưng ông D
không đưa. Hết 30 ngày hết hạn bà đăng ký đợt 2 thì ông D hứa với bà để ông D

3
đăng ký kêu bà rút hồ sơ đấu giá lại. Nếu ông D đấu giá trúng thì để nhà cho bà ở,
đất bà tự sang. Khi nào bà sang đất xong bà trả cho ông D theo giấy ông D đã ghi
thừa nhận là số nợ đối với bà. Bà có dẫn người đến sang đất nhiều lần nhưng người
sang không có khả năng sang hết đất, chỉ sang 12 công thì ông D không đồng ý
sang. Ông D đã bỏ ra số tiền là 1.600.000.000 đồng nộp cho thi hành án U Minh.
Ông D hiện đang giữ quyền sử dụng đất và ông D đã đứng tên. Theo lời ông D hứa
trong đoạn ghi âm thì ông D bỏ ra số tiền là 1.600.000.000 đồng trả cho thi hành án
để trừ các khoản nợ bà đã nợ ông D, ông Khải, bà Sương trong giấy ông D ghi
nhận nợ ông D đã ký. Bà và ông D có bàn bạc thỏa thuận với nhau, nếu bà kêu
người bán phần đất số tiền hơn 1.600.000.000 đồng thì ông D cho bà nhận số tiền
dư ra. Trong số tiền 1.600.000.000 đồng, ông D đồng ý nộp dùm bà số tiền chi phí
kê biên là 100.000.000 đồng và hứa di dời mộ chồng bà ra khỏi phần đất ruộng về
phần đất có nền nhà. Nay ông D đã sang bán phần đất ruộng nhưng giá cả bao
nhiêu ông D không cho bà biết; phần đất nền nhà ông D buộc bà phải di dời nhà đi,
bà không đồng ý vì ông D đã hứa bằng lời nói là cho bà. Hiện nay ông D cũng
không di dời phần mộ của chồng bà, nếu ông D không di dời thì ông D phải chịu
tiền chi phí cho bà di dời như lời ông D đã hứa. Bà không đồng ý với yêu cầu khởi
kiện của ông D, vì phần đất thổ cư bà đã cất nhà ở ổn định.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 190/2024/DS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện U Minh quyết định:
- Chấp nhận yêu ông Võ Chí D về việc yêu cầu bà Võ Thị X trả lại phần đất
và tài sản gắn liền với đất. Buộc bà Võ Thị X trả cho ông Võ Chí D phần đất có
diện tích 759,1m
2
, chiều dài từ vị trí M7 – M8 và dài từ vị trí M10 – M11 (có sơ
đồ kèm theo) đất toạ lạc tại ấp 14, xã Khánh Hoà, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau và
các tài sản có trên đất gồm: 01 nhà chính diện tích xây dựng 108,01m
2
; máy che
01 có diện tích xây dựng 60,45m²; máy che 2 diện tích 32,03m
2
; nhà tạm 1 diện
tích 60,45m²; nhà tạm 2 diện tích là 7,2m²; nhà tạm 3 diện tích 4,18m
2
giá trị
792.528 đồng; nhà tạm 4 diện tích là 15,91m
2
; hệ thống lọc đóng chai đã qua sử
dụng cây trồng trên đất gồm: Dừa 03 cây, Tràm 06 cây, Chuối 10 bụi và Sộp 01
cây.
Buộc bà Võ Thị X di dời 14 cây mai (mai bà X trồng năm 2014).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo của đương sự.
Ngày 06/11/2024, bà Võ Thị X có đơn kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ
thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Võ Thị X giữ nguyên kháng cáo.
Phần tranh luận tại phiên toà:
Luật sư Bảo phát biểu: Theo văn bản thoả thuận ngày 12/7/2022, trong thời
hạn 30 ngày nếu bà X tìm được người bán đất hoặc trả cho ông D số tiền
1.622.000.000 đồng thì ông D đồng ý giao lại tài sản cho bà X. Bà X đã thực hiện
đúng theo thoả thuận, có tìm ông Sách để bán đất nhưng ông Sách không đủ tiền
mua hết diện tích đất, chỉ mua 12 công nhưng ông D không bán. Bà X không vi
4
phạm nội dung thả thuận ngày 12/7/2022; do đó, yêu cầu của ông D là không có
căn cứ. Kiến nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà X, sửa bản án sơ
thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D.
Bà X không có ý kiến tranh luận.
Ông T phát biểu: Theo thoả thuận ngày 12/7/2022 là ông D cho bà X mượn
đối với các tài sản nêu trên. Các tài sản nêu trên là của ông D mua trúng đấu giá và
cho bà X mượn. Bản án sơ thẩm buộc bà X trả lại tài sản cho ông D là có căn cứ.
Do đó, yêu cầu Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà X, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
không chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị X, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của bà Võ Thị X, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Phần đất tranh chấp qua xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản thể
hiện: Phần đất thuộc thửa đất số 313, tờ bản đồ số 23, diện tích 759,1m
2
(trong
đó 300m
2
đất ở và 459,1m
2
đất trồng cây lâu năm); trên phần đất tranh chấp
gồm có các tài sản: 01 nhà chính diện tích xây dựng 108,01m
2
; mái che 01 có
diện tích 60,45m²; mái che 2 diện tích 32,03m
2
; nhà tạm thời 1 diện tích
60,45m²; nhà tạm thời 2 diện tích là 7,2m²; nhà tạm 3 diện tích 4,18m
2
; nhà tạm
4 diện tích là 15,91m
2
; hệ thống lọc đóng chai đã qua sử dụng; cây trồng trên
đất gồm: Dừa 03 cây, Tràm 06 cây, Chuối 10 bụi và Sộp 01 cây; 14 cây mai (do
bà X trồng năm 2024).
[2] Nguồn gốc phần đất tranh chấp và các tài sản trên đất là của bà X bị Chi
cục thi hành án dân sự huyện U Minh cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản để thi
hành án. Ông D là người trúng đấu giá tài sản theo hợp đồng mua bán tài sản đấu
giá số 171/2022/HĐMB-MK-CM ngày 03/6/2022; ông D đã được Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Cà Mau cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DG 799477
ngày 09/11/2022. Sau khi trúng đấu giá, giữa ông D với bà X có lập hợp đồng
thoả thuận ngày 12/7/2022 với nội dung: Ông D giao lại cho bà X quản lý các các
tài sản nêu trên trong thời gian 30 ngày (từ 12/7/2022 đến 12/8/2022); hết thời gian
nêu trên mà bà X không có tìm được người mua đất hoặc nộp trả cho ông D
1.622.000.000 đồng thì bà X tự nguyện trả các tài sản lại cho ông D và không yêu
cầu bất cứ điều gì. Nhưng quá thời hạn thoả thuận 30 ngày, bà X không thực hiện
theo thoả thuận, nên ông D yêu cầu bà X trả lại phần đất và các tài sản gắn liền với
đất. Bà X không đồng ý trả lại phần đất và các tài sản gắn liền với đất, vì bà X xác
định theo thỏa thuận ngày 12/7/2022, ông D đã cho bà X được quyền quản lý sử
dụng phần đất đang tranh chấp và bà X cũng đã thực hiện đúng theo thỏa thuận, có
tìm ông Sách để mua đất nhưng ông Sách không đủ tiền mua hết diện tích, chỉ mua
12 công nhưng ông D không bán. Tuy nhiên, ông D xác định không có việc bà X
có dẫn ông Sách đến mua đất như bà X trình bày, phần đất diện tích 15.970,1m
2
hiện nay ông D vẫn quản lý. Đối với trình bày của ông Đoàn Trí Sách tại biên bản

5
ghi lời khai ngày 23/9/2024, cho rằng có gặp ông D để thỏa thuận chuyển nhượng
phần đất và giao cho ông D 10.000.000 đồng để làm tin nhưng ông Sách cũng
không cung cấp được tài liệu chứng cứ gì để chứng minh. Đồng thời, ngoài lời khai
của ông Đoàn Trí Sách thì bà X cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì chứng
minh việc ông D cho bà X phần đất và các tài sản hiện bà X đang quản lý sử dụng.
Do phần tài sản nêu trên ông D trúng đấu giá theo hợp đồng mua bán tài sản đấu
giá số 171/2022/HĐMB-MK-CM ngày 03/6/2022, nên Toà án cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu của ông D, buộc bà X trả lại cho ông D là có căn cứ. Tuy nhiên, đối
với phần đất buộc bà X trả cho ông D diện tích 759,1m
2
, bản án sơ thẩm xác định
“chiều dài từ vị trí M7 – M8 và dài từ vị trí M10 – M11” chưa chính xác và không
tuyên về lãi suất chậm thi hành án; nên cấp phúc thẩm có điều chỉnh lại cách tuyên
của bản án sơ thẩm.
[3] Từ nhận định trên, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bà Võ
Thị X, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm bà Võ Thị X được miễn chịu án phí.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt ra
xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị X.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 190/2024/DS-ST ngày 23 tháng 10
năm 2024 của Toà án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Chí D.
Buộc bà Võ Thị X trả lại cho ông Võ Chí D phần đất có diện tích 759,1m
2
,
đất toạ lạc tại ấp 14, xã Khánh Hoà, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau và các tài sản có
trên đất gồm: 01 nhà chính diện tích xây dựng 108,01m
2
; máy che 01 có diện
tích xây dựng 60,45m²; máy che 2 diện tích 32,03m
2
; nhà tạm 1 diện tích
60,45m²; nhà tạm 2 diện tích là 7,2m²; nhà tạm 3 diện tích 4,18m
2
giá trị
792.528 đồng; nhà tạm 4 diện tích là 15,91m
2
; hệ thống lọc đóng chai đã qua sử
dụng; cây trồng trên đất gồm: Dừa 03 cây, Tràm 06 cây, Chuối 10 bụi và Sộp 01
cây.
Buộc bà Võ Thị X di dời 14 cây mai trồng trên phần đất (do bà X trồng
năm 2014) để trả lại đất cho ông D.
(Kèm theo Bản vẽ hiện trạng ngày 20/6/2024 của Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Tài nguyên Môi trường Dâng Phong)
6
- Về chi phí tố tụng: Bà Võ Thị X phải chịu số tiền 8.753.000 đồng , ông D
đã dự nộp. Buộc bà X hoàn trả lại cho ông D số tiền 8.753.000 đồng.
Kể từ ngày ông D có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong
khoản tiền nêu trên thì hàng tháng bà X còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật Dân sự.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Võ Chí D không phải chịu. Ngày 16/10/2023,
ông D đã dự nộp 13.474.000 đồng theo biên lai thu số 0001014 của Chi cục Thi hành
án Dân sự huyện U Minh, được nhận lại. Bà X được miễn chịu án phí.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Võ Thị X được miễn chịu án phí.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện U Minh;
- Chi cục THADS huyện U Minh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Lập
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 03/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm