Bản án số 15/2024/DS-ST ngày 09/08/2024 của TAND huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 15/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 15/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 15/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 15/2024/DS-ST ngày 09/08/2024 của TAND huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Cù Lao Dung (TAND tỉnh Sóc Trăng) |
Số hiệu: | 15/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà L tranh chấp hợp đồng vay với bà L1, ông Đ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CÙ LAO DUNG
TỈNH SÓC TRĂNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 15/2024/DS-ST
Ngày: 09-8-2024
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Phước Tuấn.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Thành Tâm.
Ông Nguyễn Văn Giáp.
- Thư ký phiên tòa: Bà Hà Thị Thu Trân là Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng
tham gia phiên tòa: Ông Đỗ Minh Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung,
tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 34/2024/TLST-DS ngày
06 tháng 6 năm 2024, về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 19/2024/QĐXXST-DS, ngày 03 tháng 7 năm 2024 giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Út L, sinh năm 1954.
Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Phan Văn Đ, sinh năm 1970 (vắng mặt).
2. Bà Phạm Thị Kiều L1, sinh năm 1974 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện lập ngày 16 tháng 4 năm 2024 và trong quá trình giải
quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Trần Thị Út L trình
bày:
2
Bà Trần Thị Út L với vợ chồng ông Phan Văn Đ và bà Phạm Thị Kiều L1
quen biết nhau từ lâu, nên bà L có cho ông Đ và bà L1 vay nợ (tiền) nhiều lần với
tổng số tiền 100.000.000 đồng cụ thể như sau:
Lần đầu tiên bà L1 điện thoại hỏi bà L vay số tiền 40.000.000 đồng, bà L
đồng ý, bà L1 kêu ông Đ qua nhà bà L nhận, bà L giao cho ông Đ số tiền
40.000.000 đồng, ông Đ có làm biên nhận với bà L đối với số tiền này. Sau đó bà
L1 vay tiếp số tiền 10.000.000 đồng, bà L1 làm lại biên nhận ngày 13/01/2023 với
số tiền 50.000.000 đồng, còn biên nhận ông Đ lập nhận số tiền 40.000.000 đồng
thì bà L1 lấy lại và xé bỏ. Sau đó, bà L1 tiếp tục hỏi bà L vay thêm số tiền
40.000.000 đồng và tiếp tục vay thêm số tiền 10.000.000 đồng, bà L1 có làm biên
nhận nợ cho bà L bằng giấy viết tay vào ngày 22/01/2023 là bà L1, ông Đ nhận
của bà L số tiền 50.000.000 đồng. Tổng cộng bà L1, ông Đ vay của bà L số tiền là
100.000.000 đồng. Lãi suất thỏa thuận là 5%/tháng, trong suốt quá trình vay, ông
Đ, bà L1 không có đóng tiền lãi cho bà L, khi vay không có thỏa thuận thời gian
trả nợ gốc cụ thể nhưng bà L1 thỏa thuận với bà L khi nào cần tiền thì nói bà L1,
bà L1 trả tiền vốn gốc cho bà L, bà L thấy bà L1 không trả lãi cho bà L nên
khoảng 10 ngày sau (sau ngày 22/01/2023), bà L gặp bà L1 để đòi số tiền gốc lại
và tiền lãi thì bà L1 không chịu trả cho đến nay. Khi vay tiền, bà L1 nói vay cho
thầy giáo tức là ông Đ, chồng bà L1, bà L1 không nói ông Đ vay để làm gì và lần
đầu ông Đ cũng là người qua nhận số tiền 40.000.000 đồng nên bà L tin tưởng và
bà L cho vay tiếp tổng cộng số tiền 100.000.000 đồng.
Nay bà L yêu cầu Tòa án buộc bà L1 và ông Đ phải có trách nhiệm trả cho
bà L số tiền nợ vay vốn gốc 100.000.000 đồng và lãi suất 20%/năm đối với số tiền
vốn gốc còn nợ, thời gian tính lãi từ ngày 22/01/2023 cho đến khi bà L1, ông Đ
trả hết số tiền nợ gốc cho bà L.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 26 tháng 6 năm 2024 và các lời khai trong
quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Phạm Thị Kiều L1 trình bày:
Bà L1 có mối quan hệ là vợ của ông Phan Văn Đ, có đăng ký kết hôn
(trước năm 2023) theo quy định của pháp luật. Bà L1 có vay tiền bà Trần Thị Út
L nhiều lần nhưng thời gian vay cụ thể thì bà L1 không nhớ rõ. Lần 1, bà L1 vay
số tiền 40.000.000 đồng, lần 2 vay số tiền 10.000.000 đồng. Hai lần vay này, bà
L1 có làm biên nhận nợ cho bà L bằng giấy viết tay vào ngày 13/01/2023 là bà L1
nhận của bà L số tiền 50.000.000 đồng. Lần 3, bà L1 vay thêm số tiền 40.000.000
đồng, lần 4 bà L1 vay số tiền 10.000.000 đồng. Lần 3 và lần 4 vay này, bà L1 có
làm biên nhận nợ cho bà L bằng giấy viết tay vào ngày 22/01/2023 là bà L1 nhận
của bà L số tiền 50.000.000 đồng. Tổng cộng, bà L1 nhận của bà L số tiền là
100.000.000 đồng. Bà L1 thừa nhận 02 biên nhận nợ ngày 13/01/2023 và ngày
22/01/2023 là do chính bà L1 tự viết nội dung và ghi tên “Phạm Thị Kiều L1:
L1”, “Phan Văn Đ: 10 Đủ”, ông Đ không có viết tên hay ký tên vào 02 biên nhận
nợ trên. Ở biên nhận ngày 13/01/2023, tuy không thể hiện lãi suất bao nhiêu
nhưng bà L1 vẫn đóng lãi suất cho bà L đầy đủ, với mức lãi suất là 5%/tháng. Khi
vay tiền không có ghi thời gian trả nợ, thỏa thuận bằng lời nói là bà L1 trả tiền lãi
3
hàng tháng, khi nào có tiền thì bà L1 trả số tiền vốn gốc cho bà L. Trong suốt thời
gian vay, bà L1 chưa trả tiền lãi cho bà L.
Khi bà L1 vay tiền lần đầu số tiền 40.000.000 đồng (trong biên nhận ngày
13/01/2023, ghi số tiền 50.000.000 đồng) của bà L thì bà L1 điện thoại hỏi vay
tiền của bà L rồi bà L1 nhờ chồng bà L1 là ông Đ qua nhà bà L lấy tiền về đưa
cho bà L1. Bà L1 vay tiền của bà L là để trang trãi cho việc trả nợ tiền hụi cho hụi
viên do bà L1 làm chủ hụi. Việc bà L1 làm chủ hụi là để kiếm thêm thu nhập phục
vụ cho cuộc sống gia đình bà L1. Bà L1 làm chủ hụi từ năm 2013 đến năm 2023
thì bể hụi, bà L1 mất khả năng thanh toán.
Việc vay tiền của bà L do bà L1 tự vay, không có liên quan ông Đ nên bà
L1 đồng ý tự trả số tiền vay vốn gốc 100.000.000 đồng và số tiền lãi cho bà L với
mức lãi suất 20%/năm đối với số tiền vốn gốc còn nợ, thời gian tính lãi từ ngày
22/01/2023 cho đến khi bà L1 trả hết số tiền nợ gốc cho bà L. Do hiện nay bà L1
còn thiếu nợ nhiều người và đang bị cơ quan điều tra Công an tỉnh S khởi tố, điều
tra nên bà L1 chưa có tiền để trả nợ cho bà L. Sau này, nếu bà L1 có bị Tòa án
tuyên phạt tù thì khi bà L1 chấp hành án xong, bà L1 sẽ làm kiếm tiền trả nợ cho
bà L.
Đối với bị đơn ông Phan Văn Đ: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành
thông báo về việc thụ lý vụ án số 34/TB-TLVA ngày 06 tháng 6 năm 2024, tống
đạt hợp lệ cho bị đơn nhưng bị đơn không có văn bản trình bày ý kiến của mình
đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ
đối với bị đơn để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do nên Tòa án lập biên
bản không tiến hành hòa giải được và Tòa án đã đến nhà của bị đơn để lấy lời
khai, tuy nhiên bị đơn không có mặt ở nhà nên Tòa án lập biên bản về việc không
lấy lời khai được bị đơn Đ nên không có lời khai của bị đơn Đ trong hồ sơ vụ án.
* Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và việc chấp hành pháp luật của
những người tham gia tố tụng là nguyên đơn, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Riêng các bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
- Về nội dung giải quyết vụ án: Xét thấy, yêu cầu của nguyên đơn buộc các
bị đơn phải có trách nhiệm trả cho nguyên đơn số tiền nợ vay vốn gốc
100.000.000 đồng và lãi suất 20%/năm đối với số tiền vốn gốc còn nợ, thời gian
tính lãi từ ngày 22/01/2023 cho đến khi các bị đơn trả hết số tiền nợ gốc cho
nguyên đơn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc các bị đơn phải có
nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn số tiền nợ vay vốn gốc 100.000.000 đồng và lãi
suất 20%/năm đối với số tiền vốn gốc còn nợ, thời gian tính lãi từ ngày
22/01/2023 cho đến khi các bị đơn trả hết số tiền nợ gốc cho nguyên đơn.
4
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử nghị án và tuyên án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thủ tục thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn và thẩm quyền giải
quyết: Khi bà Trần Thị Út L nộp đơn khởi kiện, thì người bị kiện là ông Phan Văn
Đ và bà Phạm Thị Kiều L1 cùng cư trú tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
Bà L có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Đ, bà L1 phải trả số tiền vay còn
nợ và yêu cầu tính lãi. Bà L đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Cù
Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Tòa án nhân dân
huyện Cù Lao Dung đã thụ lý đơn khởi kiện và bà L là người cao tuổi và có đơn
xin miễn nộp tiền tạm ứng án phí nên Tòa án đã thông báo miễn nộp tiền tạm ứng
án phí cho bà L theo quy định của pháp luật. Như vậy, Tòa án nhân dân huyện Cù
Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng thụ lý đơn khởi kiện của bà Trần Thị Út L là đúng
thẩm quyền và đúng theo trình tự thủ tục tố tụng theo quy định tại khoản 3 Điều
26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 191 và Điều 195 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Các bị đơn ông Phan Văn Đ và bà Phạm Thị Kiều L1 đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai và vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên căn
cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt các bị đơn.
[2] Về nội dung:
[3] Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu các bị đơn
phải trả cho nguyên đơn số tiền vay vốn gốc là 100.000.000 đồng và tính lãi suất
20%/năm, thời gian tính lãi tính từ ngày 22/01/2023 cho đến khi các bị đơn trả hết
số tiền nợ gốc cho nguyên đơn.
[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
[4.1] Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Phạm Thị Kiều L1 đều thừa
nhận: Bị đơn L1 có vay tiền của bà L các lần như sau: Lần 1, bà L1 vay số tiền
40.000.000 đồng, lần 2 vay số tiền 10.000.000 đồng. Hai lần vay này, bà L1 có
làm biên nhận nợ cho bà L bằng giấy viết tay vào ngày 13/01/2023 là bà L1 nhận
của bà L số tiền 50.000.000 đồng. Lần 3, bà L1 vay thêm số tiền 40.000.000
đồng, lần 4 bà L1 vay số tiền 10.000.000 đồng. Lần 3 và lần 4 này, bà L1 có làm
biên nhận nợ cho bà L bằng giấy viết tay vào ngày 22/01/2023 là bà L1 nhận của
bà L số tiền 50.000.000 đồng. Tổng cộng, bà L1 nhận của bà L số tiền là
100.000.000 đồng. Bà L1 thừa nhận 02 biên nhận nợ ngày 13/01/2023 và ngày
22/01/2023 là do chính bà L1 tự viết nội dung và ghi tên “Phạm Thị Kiều L1:
L1”, “Phan Văn Đ: 10 Đủ”, ông Đ không có viết tên hay ký tên vào 02 biên nhận
nợ trên. Ở biên nhận ngày 13/01/2023, tuy không thể hiện lãi suất bao nhiêu
nhưng bà L1 vẫn đóng lãi suất cho bà L đầy đủ, với mức lãi suất là 5%/tháng. Khi
5
vay tiền không có ghi thời gian trả nợ, thỏa thuận bằng lời nói là bà L1 trả tiền lãi
hàng tháng, khi nào có tiền thì bà L1 trả số tiền vốn gốc cho bà L. Trong suốt thời
gian vay, bà L1 chưa trả tiền lãi cho bà L. Khi bà L1 vay tiền lần đầu số tiền
40.000.000 đồng (trong biên nhận ngày 13/01/2023, ghi số tiền 50.000.000 đồng)
của bà L thì bà L1 điện thoại hỏi vay tiền của bà L rồi bà L1 nhờ chồng bà L1 là
ông Đ qua nhà bà L lấy tiền về đưa cho bà L1. Bà L1 vay tiền của bà L là để trang
trãi cho việc trả nợ tiền hụi cho hụi viên do bà L1 làm chủ hụi. Việc bà L1 làm
chủ hụi là để kiếm thêm thu nhập phục vụ cho cuộc sống gia đình bà L1. Bà L1
làm chủ hụi từ năm 2013 đến năm 2023 thì bể hụi, bà L1 mất khả năng thanh
toán. Việc vay tiền của bà L do bà L1 tự vay, không có liên quan ông Đ nên bà L1
đồng ý tự trả số tiền vay vốn gốc 100.000.000 đồng và số tiền lãi cho bà L với
mức lãi suất 20%/năm đối với số tiền vốn gốc còn nợ, thời gian tính lãi từ ngày
22/01/2023 cho đến khi bà L1 trả hết số tiền nợ gốc cho bà L. Do hiện nay bà L1
còn thiếu nợ nhiều người và đang bị cơ quan điều tra Công an tỉnh S khởi tố, điều
tra nên bà L1 chưa có tiền để trả nợ cho bà L. Sau này, nếu bà L1 có bị Tòa án
tuyên phạt tù thì khi bà L1 chấp hành án xong, bà L1 sẽ làm kiếm tiền trả nợ cho
bà L. Theo khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “Một bên đương sự
thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận
của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không
phải chứng minh”, căn cứ vào quy định này, Hội đồng xét xử công nhận bà Phạm
Thị Kiều L1 có vay số tiền 100.000.000 đồng của bà Trần thị Út L là sự thật.
[4.2] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu các bị đơn bà L1 và ông
Đ phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền vay vốn gốc và lãi suất, Hội đồng
xét xử xát thấy, tại biên bản lấy lời khai ngày 26 tháng 6 năm 2024, bà L1 cho
rằng việc vay tiền của bà L là bà L1 tự vay, không có liên quan ông Đ nên bà L1
đồng ý tự trả số tiền vay vốn gốc 100.000.000 đồng. Bà L1 thừa nhận “Khi bà L1
vay tiền lần đầu số tiền 40.000.000 đồng (trong biên nhận ngày 13/01/2023, ghi
số tiền 50.000.000 đồng) của bà Lthì bà L1 điện thoại hỏi vay tiền của bà L rồi bà
L1 nhờ chồng bà L1 là ông Đ qua nhà bà L lấy tiền về đưa cho bà L1. Bà L1 vay
tiền của bà L là để trang trãi cho việc trả nợ tiền hụi cho hụi viên do bà L1 làm
chủ hụi. Việc bà L1 làm chủ hụi là để kiếm thêm thu nhập phục vụ cho cuộc sống
gia đình bà L1”. Như vậy, khi bà L1 vay tiền của bà L, thì ông Đ biết và có đi
nhận tiền vay từ bà L và việc bà L1 vay tiền của bà L là để trang trãi cho việc trả
nợ tiền hụi cho hụi viên do bà L1 làm chủ hụi. Việc bà L1 làm chủ hụi là để kiếm
thêm thu nhập phục vụ cho cuộc sống gia đình bà L1. Do đó, yêu cầu khởi kiện
của bà L yêu cầu bà L1 với ông Đ cùng có nghĩa vụ trả số tiền nợ vay cho bà L là
có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Căn cứ vào Điều 463 của Bộ luật Dân sự quy định “Hợp đồng vay tài
sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay;
khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng
số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định” và tại khoản 1 Điều 466 của Bộ luật Dân sự quy định về nghĩa vụ của bên
vay như sau: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là
6
vật thì phải trả vật cùng loại, đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác”.
[6] Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên
đơn yêu cầu các bị đơn trả lãi suất 20%/năm tính từ ngày 22/01/2023 cho đến khi
trả hết nợ gốc cho nguyên đơn và bị đơn L1 cũng đồng ý trả lãi suất cho nguyên
đơn 20%/năm tính từ ngày 22/01/2023, việc thỏa thuận trên là phù hợp với khoản
1 Điều 468 Bộ luật Dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tiền lãi của số
tiền vốn gốc 100.000.000 đồng (từ ngày 22/01/2023 đến ngày 09/8/2024 là 01
năm 06 tháng 19 ngày, lãi suất 20%/năm) là 31.041.095 đồng
[7] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, buộc các bị đơn phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn
số tiền vay vốn gốc 100.000.000 đồng và số tiền lãi suất là 31.041.095 đồng.
Tổng cộng số tiền vay vốn gốc và lãi là 131.041.095 đồng. Kể từ ngày tiếp theo
của ngày xét xử sơ thẩm (từ ngày 10/8/2024), các bị đơn còn phải tiếp tục chịu
khoản tiền lãi với mức lãi suất 20%/năm đối với số tiền nợ vay vốn gốc chưa
thanh toán cho đến khi thanh toán hết số tiền nợ vay vốn gốc này.
[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung giải quyết vụ án là có căn
cứ, đúng quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án nên các bị đơn ông Phan Văn Đ và bà Phạm Thị Kiều L1 phải chịu
toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 6.552.054 đồng (ông Phan Văn Đ nộp
3.276.027 đồng, bà Phạm Thị Kiều L1 nộp 3.276.027 đồng).
[10] Nguyên đơn bà Trần Thị Út L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm,
nguyên đơn là người cao tuổi, có đơn xin được miễn nộp tiền tạm ứng án phí dân
sự sơ thẩm và được Tòa án chấp nhận nên không phải trả lại tiền tạm ứng án phí
cho nguyên đơn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Khoản 2 Điều 92; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ
luật Tố tụng dân sự;
- Điều 463; khoản 1 Điều 466 và khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự;
- Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng
12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
7
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Út L
về yêu cầu trả số tiền nợ vay vốn gốc và lãi suất đối với các bị đơn ông Phan Văn
Đ và bà Phạm Thị Kiều L1.
2. Xử buộc các bị đơn ông Phan Văn Đ và bà Phạm Thị Kiều L1 phải trả
cho nguyên đơn bà Trần Thị Út L số tiền nợ vay vốn gốc 100.000.000 đồng và số
tiền lãi là 31.041.095 đồng. Tổng cộng số tiền vay vốn gốc và lãi là 131.041.095
đồng. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (từ ngày 10/8/2024), các bị
đơn còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi với mức lãi suất 20%/năm đối với số tiền
nợ vay vốn gốc chưa thanh toán cho đến khi thanh toán hết số tiền nợ vay vốn gốc
này.
3. Về án phí:
3.1. Các bị đơn ông Phan Văn Đ và bà Phạm Thị Kiều L1 phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 6.552.054 đồng (ông Phan Văn Đ nộp 3.276.027
đồng, bà Phạm Thị Kiều L1 nộp 3.276.027 đồng).
3.2. Nguyên đơn bà Trần Thị Út L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm,
nguyên đơn là người cao tuổi, có đơn xin được miễn nộp tiền tạm ứng án phí dân
sự sơ thẩm và được Tòa án chấp nhận nên không phải trả lại tiền tạm ứng án phí
cho nguyên đơn.
4. Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày tuyên án; rêng các bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, thì thời hạn kháng cáo tính
từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND huyện Cù Lao Dung;
- Chi cục THADS huyện Cù Lao Dung;
- TAND tỉnh Sóc Trăng
(P.KTNV & THA);
- Lưu hồ sơ;
- Lưu Tòa án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Đặng Phước Tuấn
Tải về
Bản án số 15/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 15/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Bản án số 590/2024/DS-PT ngày 26/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Bản án số 565/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm