Bản án số 09/2025/DS-PT ngày 07/01/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 09/2025/DS-PT ngày 07/01/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Định |
Số hiệu: | 09/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | nguyên đơn bà Nguyễn Thị D khởi kiện yêu cầu ông S, H trả lại quyền sử dụng đất đã lấn chiếm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH ĐỊNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 09/2025/DS-PT
Ngày: 07/01/2025
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Bình
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thanh Tuấn
Ông Ung Quang Định
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Thảo là thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa: Bà
Đặng Thị Thanh Trúc – Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 169/2024/TLPT-DS ngày 04 tháng 11
năm 2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do bản án dân sự sơ thẩm số:
130/2024/DS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh
Bình Định bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:
242/2024/QĐ-PT ngày 03 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1959, có mặt.
Trú tại: XXX, Tp Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Bị đơn:
+ Ông Nguyễn Đặng H, sinh năm 1970, có đơn có đơn xin vắng mặt.
Trú tại: Khu vực N, phường Y, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định
+ Cụ Nguyễn S, sinh năm 1936 (chết ngày 20/02/2024)
Trú tại: Khu vực N, phường Y, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Nguyễn S:
1. Ông Nguyễn Bá H, sinh năm 1957; Địa chỉ: Số XX, thị xã An Nhơn, tỉnh
Bình Định. có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị Tấn N, sinh năm 1959; Địa chỉ: huyện Phù Cát, tỉnh Bình
Định, có mặt.
3. Bà Nguyễn Thị Tấn S, sinh năm 1963; Địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh Bình
Định, có mặt.
4. Ông Nguyễn Bá N (Peter N Nguyễn), sinh năm 1968; Địa chỉ: USA
2
Đại diện ủy quyền của ông N: Ông Nguyễn Đặng T, sinh năm 1972 địa chỉ:
thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, có mặt.
5. Ông Nguyễn Đặng H, sinh năm 1970; Địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh Bình
Định, có đơn xin vắng mặt.
6. Ông Nguyễn Đặng T, sinh năm 1972; Địa chỉ: thị xã An Nhơn, Bình
Định, có mặt.
7. Bà Nguyễn Thị Tấn H, sinh năm 1974; Địa chỉ: huyện Phù Cát, tỉnh Bình
Định, vắng mặt.
8. Ông Nguyễn Thế H, sinh năm 1978; Địa chỉ: thành phố Thủ Đức,
TP.HCM, vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Minh C, sinh năm 1935; Địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh
Bình Định, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1939; Địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh Bình
Định, có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1947; Địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh Bình
Định, có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1950; Địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh Bình
Định, có mặt.
5. Bà Nguyễn Thị Mai, sinh năm 1955; Địa chỉ: thành phố Quy Nhơn, Bình
Định, có đơn xin xét xử vắng mặt.
6. Bà Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1960; Địa chỉ: thành phố Quy Nhơn,
tỉnh Bình Định, có mặt.
7. Bà Đặng Thị Hồng T, sinh năm 1966; có đơn xin xét xử vắng mặt.
8. Chị Nguyễn Đặng Quỳnh N, sinh năm 1996, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Cùng địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.
9. Ông Nguyễn Đặng T, sinh năm 1972, có mặt.
Địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.
10. Ông Nguyễn Bá H, sinh năm 1957, vắng mặt.
11. Bà Hồ Thị T, sinh năm 1957 , có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
12. Chị Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1991, có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt.
Cùng địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.
3
13. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1979; Địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh Bình
Định, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
14. Bà Nguyễn Thị Ngọc Y, sinh năm 1988; Địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh
Bình Định, vắng mặt.
15. Bà Nguyễn Thị Tấn H, sinh năm 1974; Địa chỉ: huyện Phù Cát, tỉnh
Bình Định, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
16. Ông Nguyễn Thế H, sinh năm 1978; thành phố Thủ Đức, TP.HCM, vắng
mặt.
17. Bà Lê Thị Ngọc H, sinh năm 1969; Địa chỉ: thị xã An Nhơn, tỉnh Bình
Định, vắng mặt.
18. UBND thị xã A – tỉnh Bình Định
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Thanh T - Chủ tịch, có đơn đề nghị
vắng mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Đặng H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản ghi lời khai, các thủ tục tố tụng
tiếp theo và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 158 tờ bản đồ số 11 là của ông bà cố để lại cho ông
bà nội và ông bà nội để lại cho cha mẹ (Nguyễn T, Võ Thị M) trên phần đất này có
01 ngôi nhà tranh vách đất của ông bà nội. Khoảng năm 1968, cha mẹ dỡ toàn bộ
ngôi nhà này xây dựng lại 01 ngôi nhà cấp 4 bằng đá táp lô, có hom tô. Ngoài ra
trước năm 1975 thì cha mẹ có mua thêm phần đất của ông Trần D ở hướng Đông
Nam có diện tích khoảng 300m
2
(chính là thửa đất NĐ 1569 có diện tích 300m
2
mà
UBND phường N đã cho bà xem bản đồ năm 1993) có giấy tờ bán mua. Đến năm
1993, UBND huyện A (nay là thị xã A) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho hộ gia đình đứng tên cha Nguyễn T tại thửa đất số 158 tờ bản đồ số 11 có diện
tích 1424m
2
(200m
2
đất ở, 1224m
2
đất vườn) gồm có 03 nhân khẩu cha Nguyễn T,
mẹ Võ Thị M, em Nguyễn Thanh T. Các chị em bà có chồng theo chồng chỉ còn
vợ chồng em Nguyễn Văn T ở cùng với cha mẹ. Đến năm 1996 cha chết thì mẹ và
vợ chồng em trai Nguyễn Văn T sống tại nhà đất này, đến năm 1998 Nguyễn Văn
T chết thì vợ con T ra ở riêng. Do các chị em bà đều có gia đình ở xa nên mẹ của
bà kêu vợ chồng người em con cậu ruột là Võ Văn D lên ở với mẹ cho vui. Năm
2004, mẹ chết chỉ còn vợ chồng D ở tại nhà đất trên, sau đó một thời gian thì vợ
chồng D trả lại nhà đất cho chị em bà.
Thửa đất của cha mẹ là thửa đất số 158, hướng Tây giáp thửa đất liền kề của
ông Nguyễn S là thửa đất số 159, lúc cha mẹ còn sống thì ranh giới giữa phần đất
của cha mẹ với các thửa đất liền kề ở hướng Đông, hướng Nam đều có hàng rào
4
bằng tre. Nguyên thủy giữa phần đất của cha mẹ và phần đất của ông Nguyễn S có
ranh giới là hàng rào kẽm gai đi liền với cây chè như bà đã xác định trong sơ đồ đo
vẽ. Phần đất ở hướng Bắc thửa đất của gia đình bà có 01 giếng nước đào trước đây
gia đình bà, ông S và ông T cùng sử dụng chung, phía trong giếng nước đào có
hàng rào cây thấp do cha mẹ trồng để ngăn gà, còn xung quanh là cây tre bao
phủ.Vì các chị em là con gái có chồng ở xa nên nên cha bà vẫn để cho gia đình ông
S sử dụng phần đất này, sau đó ông S đã dỡ bỏ hàng rào sử dụng luôn phần đất trên
nên giữa hai phần đất của cha mẹ và phần đất của bác Nguyễn S là thuông luông.
Năm 2019 bà và ông H (con của ông S) cùng thống nhất phần bên nào thì
xây dựng hàng rào lưới B40 riêng, đến năm 2020 các chị em bà có nhu cầu làm lại
sổ đỏ nên mời Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai đến đo đạc thì mới biết phần
đất ở phía Tây Bắc do gia đình ông S, ông H sử dụng đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho cha mẹ. Lúc này bà phát hiện trong sổ đỏ của cha ở hướng
Tây giáp thửa đất liền kề của ông S là thửa đất số 159, còn hướng Bắc giáp đất ông
N và hướng Đông giáp đất ông T. Phần đất ông Sang và ông H lấn sử dụng qua đo
đạc có diện tích là 607,6m
2
, trên phần đất này ông H có trồng cây ăn trái là cây ổi
và cây chuối, ngoài ra không có xây dựng công trình nào.
Bà yêu cầu gia đình ông Nguyễn S, ông Nguyễn Đặng H chấm dứt hành vi
cản trở quyền sử dụng đất, trả lại phần đất đã lấn ở hướng Tây Bắc của cha mẹ có
diện tích 607,6m
2
, bà và các chị em của bà sẽ thanh toán lại giá trị cây trồng và ½
giá trị hàng rào lưới B40 mà ông H đã xây chung với ông T và bà N. Đối với yêu
cầu của ông Nguyễn Đặng H về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đứng tên cha Nguyễn T thì bà không đồng ý, vì phần đất này đã được ông cố
phân chia cho ông nội bà và ông nội giao lại cho cha Nguyễn T sử dụng và được
Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại thời điểm cấp sổ đỏ thì thửa
đất của ông Nguyễn S và thửa đất của gia đình bà cấp cùng một thời điểm năm
1993 chứ không có cấp trước hay sau nên không có cấp chồng lấn đất.
* Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Nguyễn S thống
nhất theo nội dung bị đơn ông Nguyễn Đặng H trình bày.
Nguồn gốc phần đất bà D tranh chấp với cha con ông là của ông cố tên
Nguyễn T (cũng là ông cố của bà D). Lúc còn sống ông cố Nguyễn T chia thửa đất
làm 3 phần: chia cho ông nội bà D phần đất ở hướng Đông, chia cho ông nội của
ông tên Nguyễn H phần đất ở chính giữa, phía Bắc chia cho ông Nguyễn S. Sau
khi ông cố chia đất cho ông nội ông, ông nội bà D và cha của ông Nguyễn T thì
phần ai nấy sử dụng. Sau đó ông nội bà D giao lại phần đất này cho cha mẹ bà D là
ông Nguyễn T bà Võ Thị M sử dụng là thửa đất số 158; phần đất của ông nội thì
giao lại cho cha mẹ ông là Nguyễn S, Đặng Thị H sử dụng thửa đất số 159; phần
đất của ông Nguyễn S thì giao lại cho con là ông Nguyễn T sử dụng. Việc ông cố
chia đất cho ông nội của ông, ông nội bà D và cha của ông Nguyễn T không có viết
giấy tờ nhưng giữa các phần đất có ranh giới là hàng rào kẽm gai, xung quanh có
tre bao phủ. Lúc đó cả 03 gia đình cùng sử dụng chung 01 giếng nước đào có từ
5
thời ông bà để lại, hiện giếng nước nằm trên phần đất bà D đang tranh chấp với gia
đình ông; phía trong giếng nước (ở hướng Nam) thì vẫn còn hàng rào thép gai của
gia đình bà D. Năm nào không nhớ, ông Nguyễn T đã dỡ bỏ hàng rào kẽm gai và
tre, xây tường gạch cao khoảng 2,5m giữa thửa đất của cha ông và thửa đất của
ông T. Đến năm 2019 giữa ông và bà D thống nhất chặt bỏ tre và xây tường lưới
B40 giữa hai phần đất, phần đất bên nào thì bên đó tự xây, tự chịu chi phí; phần bà
D xây hàng rào lưới B40 đối với ranh giới đất của cha mẹ bà D từ ranh giới ở phía
trong của giếng nước đào (phía Nam), phần ông hùn xây hàng rào lưới B40 chung
với bà N ở hướng Bắc và hùn xây hàng rào chung với ông T ở hướng Đông nên
giếng nước đào nằm trên phần đất của cha mẹ ông. Khi xây hàng rào lưới B40 thì
dỡ hàng rào kẽm gai và xây lại hàng rào lưới B40 ngay vị trí cũ của hàng rào kẽm
gai nên vết tích ông cố chia vẫn còn.
Năm 1993 khi Nhà nước giao quyền sử dụng đất thì có đo đạc và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên mẹ Đặng Thị H đối với thửa đất số 159, tờ
bản đồ số 11 có diện tích 716m
2
(trong đó 200m
2
đất ở và 516m
2
đất vườn). Con
cái ở riêng nên sau khi có sổ đỏ thì cha mẹ nhận về cất chứ cũng không để ý. Năm
2020 khi gia đình bà D về chia đất và nhờ Văn phòng đăng ký đến đo đạc thì lúc
đó gia đình ông và gia đình bà D mới biết phần diện tích đất mà bà D tranh chấp ở
hướng Tây Bắc có diện tích 607,6m
2
đã được ông cố chia cho ông nội của ông và
cha mẹ ông sử dụng thì UBND huyện A cấp trong sổ đỏ của cha bà D là ông
Nguyễn T.
Ông xác định phần đất bà D tranh chấp có diện tích 607,6m
2
là phần đất do
ông cố chia cho ông nội ông giao lại cho cha mẹ và vợ chồng ông sử dụng từ đó
cho đến nay, hiện trên phần đất này thì vợ chồng ông trồng xoài, ổi, chuối nên ông
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà D. Ông có yêu cầu phản tố yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 158 tờ bản đồ số 11 đứng tên ông
Nguyễn T.
* Theo bản tự khai, biên bản ghi lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị Minh C trình bày:
Phần đất hiện bà D tranh chấp với ông S, ông H là có nguồn gốc của ông bà
nội để lại cho cha mẹ là Nguyễn T, Nguyễn Thị M, vào năm nào bà không nhớ cha
mẹ xây dựng 01 ngôi nhà trên phần đất này và ở cho đến nay; các chị em bà có
chồng theo chồng chỉ còn cha mẹ ở tại nhà đất trên; sau khi cha mẹ chết thì em gái
Nguyễn Thị Hồng N về ở. Nhà đất của cha mẹ bà ở sát với nhà đất của bác họ
Nguyễn S, nhà cha mẹ quay xuống hướng Đông còn nhà đất của ông Nguyễn S ở
hướng Tây và gia đình bác S thường xuyên sử dụng chung giếng đào do cha của bà
làm từ lúc bà còn nhỏ. Giữa đất của cha mẹ và đất của ông S có hàng rào cây chè
thấp nhưng hiện không còn, trong quá trình ở thì ông Nguyễn S đã lấn đất của cha
mẹ ở hướng Tây - Bắc lúc nào thì chị em bà không biết nhưng đến năm 2020 các
chị em bà có phân chia đất trong gia đình nên mời Văn phòng đăng ký đến đo đạc
thì phát hiện là gia đình ông Nguyễn S đã lấn phần đất của cha mẹ tầm khoảng hơn
6
400m
2
. Giữa phần đất ông S lấn với phần đất của cha mẹ là thuông luông không có
ranh giới. Phần đất hiện ông S và ông H lấn của gia đình bà sử dụng thì trước đó là
đất trống, cha mẹ không có xây dựng công trình nào và hiện trên phần đất này ông
H có trồng cây. Bà thống nhất theo yêu cầu khởi kiện của bà D, yêu cầu gia đình
ông Nguyễn S, ông Nguyễn Đặng H chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất,
trả lại phần đất đã lấn ở hướng Tây Bắc cho gia đình bà.
* Theo bản tự khai, biên bản ghi lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị H trình bày: Thống nhất với nội dung, ý kiến mà bà Nguyễn
Thị Minh C đã trình bày và thống nhất với nội dung khởi kiện của bà Nguyễn Thị
D. Ngoài ra bà không có yêu cầu, ý kiến nào khác.
* Theo biên bản ghi lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị Q trình bày: Bà thống nhất theo yêu cầu khởi kiện và ý kiến của bà
Nguyễn Thị D.
* Theo bản tự khai, biên bản ghi lời khai, các thủ tục tố tụng tiếp theo và tại
phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T trình bày:
Thống nhất theo lời trình bày của bà D về nguồn gốc đất và thống nhất theo đơn
khởi kiện của bà D yêu cầu ông Nguyễn Đặng H chấm dứt hành vi cản trở quyền
sử dụng đất, trả lại cho gia đình bà phần đất lấn chiếm sử dụng là 607,6m
2
và
không đồng ý yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Đặng H yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đứng tên cha là Nguyễn T.
* Theo biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị M trình bày: Thống nhất theo lời trình bày của bà D về nguồn gốc đất
và thống nhất theo đơn khởi kiện của bà D yêu cầu ông Nguyễn Đặng H trả lại cho
gia đình phần đất lấn chiếm sử dụng.
* Theo bản tự khai, biên bản ghi lời khai, các thủ tục tố tụng tiếp theo và tại
phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng N trình bày:
Thống nhất theo lời trình bày của bà D về nguồn gốc đất và thống nhất theo đơn
khởi kiện của bà D yêu cầu ông Nguyễn S và ông Nguyễn Đặng H chấm dứt hành
vi cản trở quyền sử dụng đất trả lại cho gia đình bà phần đất lấn chiếm sử dụng là
607,6m
2
và không đồng ý yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Đặng H yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cha là Nguyễn T.
* Theo bản tự khai, biên bản ghi lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Đặng Thị Hồng T trình bày: Năm 1994 bà kết hôn với Nguyễn Văn T và
sống với cha mẹ chồng Nguyễn T, Võ Thị M tại nhà đất của cha mẹ chồng, trong
đó có phần đất hiện bà D đang kiện tranh chấp với ông Nguyễn S ở khu vực
Nghiễm H, phường Nhơn H. Nguồn gốc đất do cha mẹ chồng thửa hưởng từ ông
bà để lại, liền kề ở phía Tây là nhà đất của bác họ chồng tên Nguyễn S. Khi sống ở
đây thì bà thấy giữa phần đất của cha mẹ chồng với phần đất của ông Nguyễn S có
ranh giới là hàng rào cây chè, phía đất của cha mẹ chồng có 01 giếng đào sử dụng
và gia đình ông S cũng thường sử dụng giếng đào này. Sau khi cha chồng chết thì
7
vợ chồng bà cùng mẹ chồng tiếp tục ở nhà đất này, năm 1998 chồng bà chết, chỉ có
bà và mẹ chồng sống với nhau, đến năm 2003 thì bà ra cất nhà ở riêng chỉ còn mẹ
chồng ở nhà đất trên. Sau này có người em con cậu chồng lên ở cùng với mẹ
chồng, sau khi mẹ chồng chết được một thời gian thì người em con cậu ra cất nhà ở
riêng nên bà N về ở trông coi nhà. Hiện nay giữa phần đất của cha mẹ chồng với
phần đất của ông S là thuông luông, không có ranh giới cũng không còn hàng rào
cây chè do ai chặt thì bà không biết. Thửa đất của cha mẹ chồng đã được UBND
huyện A (nay là thị xã A) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cha
chồng Nguyễn T vào năm 1993. Cha mẹ chồng có 08 người con gồm Nguyễn Thị
Minh C, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị M, Nguyễn
Thị D, Nguyễn Thị Hồng N và chồng Nguyễn Văn T (chết năm 1998); hai vợ
chồng bà có 01 người con tên Nguyễn Đặng Quỳnh N. Bà thống nhất theo yêu cầu
khởi kiện của bà Nguyễn Thị D, yêu cầu gia đình ông Nguyễn S và ông Nguyễn
Đặng H trả lại phần đất đã lấn chiếm cho gia đình chồng.
* Theo bản tự khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Đặng
Quỳnh N trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 158 tờ bản đồ số 11 là của ông bà nội
Nguyễn T, Võ Thị M để lại, trên phần đất này có 01 ngôi nhà cấp 4 do ông bà nội
xây, từ khi cha mẹ cưới nhau thì về ở tại ngôi nhà này cùng với ông bà nội. Đến
năm 1996 ông nội chết thì chị cùng cha mẹ Nguyễn Văn T, Đặng Thị Hồng T sống
với bà nội tại nhà đất trên. Năm 1998 cha chết, đến năm 2003 chị và mẹ ra ở riêng,
bà nội sống với người cháu gọi bà nội bằng cô tại nhà đất này. Năm 2004 bà nội
chết, từ khi bà nội chết thì nhà đất này do cô ruột Nguyễn Thị Hồng N thỉnh thoảng
về ở trông coi. Đến khoảng năm 2021, các cô có nhu cầu cấp đổi lại sổ đỏ nên mời
Văn phòng đăng ký đến đo đạc thì phát hiện là gia đình ông Nguyễn S, Nguyễn
Đặng H đã lấn phần đất của ông bà nội để lại, chị nghe bà D nói diện tích lấn
chiếm khoảng 400m
2
. Chị thống nhất với ý kiến của bà D, yêu cầu ông S, ông H
trả lại phần đất lấn chiếm của ông bà nội có diện tích khoảng 400m
2
.
* Theo bản khai, biên bản ghi lời khai, các thủ tục tố tụng tiếp theo và tại
phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đặng T trình bày:
Thống nhất theo nội dung trình bày của ông Hiệp về nguồn gốc đất tranh chấp, xác
định phần đất bà D tranh chấp có diện tích 607,6m
2
là của gia đình cha mẹ Nguyễn
S, Đặng Thị H nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà D và thống nhất yêu
cầu phản tố của ông H yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số
158 tờ bản đồ số 11 đứng tên ông Nguyễn T.
* Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Bá H trình bày: Nguyên thủy ông cố có 03 người con gồm
Nguyễn H, Nguyễn S và Nguyễn B, ông cố chia mảnh đất tọa lạc tại khu vực N
cho 3 người con gồm: ông Nguyễn Sphần đất ở hướng Tây Bắc, giao cho ông nội
Nguyễn H phần đất ở chính giữa và giao cho ông Nguyễn B (ông nội bà D) sử
dụng phần đất ở hướng Đông Nam. Hiện nay phần đất của ông Nguyễn Sử do con
trai là ông Nguyễn T đã xây dựng nhà từ đường, phần đất của ông Nguyễn B giao
8
lại cho cha bà D là Nguyễn T tiếp tục sử dụng phần đất ở hướng Đông Nam; còn
phần đất của ông nội Nguyễn H thì giao lại cho cha là Nguyễn S sử dụng, hiện vợ
chồng em trai Nguyễn Đặng H ở quản lý. Lúc ông cố giao đất có viết giấy không
thì ông không biết nhưng giữa các phần đất có hàng rào cây chè; ranh giới phần đất
của cha và ông Nguyễn T có hàng rào cây chè, giữa hàng rào có cây thầu đâu và ở
góc hướng Đông có cây dừa. Lúc đó có 01 giếng đào từ thời ông cố để lại nằm trên
phần đất cha của ông, gia đình ông Nguyễn T sử dụng chung giếng nước nên có trổ
ngay hàng rào chè 01 cổng để đi qua sử dụng nước giếng. Năm 2019 chị em bà D
dỡ bỏ hàng rào chè xây dựng ngay từ cạnh nhà bếp xuống hướng Đông (phía trong
giếng đào) hàng rào lưới B40; còn phần hàng rào ở hướng Đông chạy ra hướng
Bắc thì do ông H và ông Võ Văn T cùng hùn xây chung; hàng rào ở phía Bắc thì
ông H và vợ của ông Nguyễn Xuân N cùng hùn xây chung.
Ông không có ý kiến, yêu cầu gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà D, ông chỉ
có mong muốn là từ thời ông cố chia đất có ranh giới rõ ràng thì giờ vẫn giữ
nguyên ranh giới như vậy mà sử dụng chứ ông không có yêu cầu, ý kiến gì.
* Theo bản tự khai, biên bản ghi lời khai, các thủ tục tố tụng tiếp theo và tại
phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị T trình bày: Thống
nhất theo lời trình bày của ông H về nguồn gốc đất tranh chấp, xác định phần đất
tranh chấp có diện tích 607,6m
2
là của gia đình cha mẹ chồng Nguyễn S, Đặng Thị
H. Bà xác định khi về làm dâu thì 3 gia đình gồm cha mẹ chồng, gia đình ông
Nguyễn T, ông Nguyễn T vẫn sử dụng chung giếng nước, phần đất mà bà D tranh
chấp thì lúc đó cha mẹ chồng đang sử dụng nhưng việc cấp sổ đỏ như thế nào thì
bà không biết. Đến lúc gia đình bà D đo đạc đất phát sinh tranh chấp và đi kiện. Bà
thống nhất theo yêu cầu của ông Nguyễn Đặng H.
* Theo bản tự khai, biên bản ghi lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan chị Nguyễn Thị Ngọc H trình bày: Về nguồn gốc đất hiện bà Nguyễn Thị D
đang tranh chấp với ông nội Nguyễn S và chú Nguyễn Đặng H thì chị không rõ,
chị thống nhất theo lời trình bày của ba mẹ (Nguyễn Bá H-Hồ Thị T) đã trình bày,
không có ý kiến yêu cầu nào khác.
* Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị B trình bày: Về nguồn gốc đất hiện bà Nguyễn Thị D đang
tranh chấp với ông nội Nguyễn S và chú ruột Nguyễn Đặng H thì chị không rõ, chị
thống nhất theo lời trình bày và ý kiến của ba (Nguyễn Bá H) đã trình bày, chị
không có ý kiến yêu cầu nào khác.
* Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan chị Nguyễn Thị Ngọc Y trình bày: Về nguồn gốc đất hiện bà Nguyễn Thị D
đang tranh chấp với ông nội Nguyễn S và chú Nguyễn Đặng H thì chị không rõ,
chị thống nhất theo lời trình bày của ba mẹ (Nguyễn Bá H-Hồ Thị T) đã trình bày,
không có ý kiến yêu cầu nào khác.
9
* Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị Tấn H trình bày: Nguyên thủy ông cố chia đất cho ông nội
của bà, ông nội bà D và cha của ông Nguyễn T sử dụng từ lúc nào bà không biết;
sau khi ông nội chết thì cha Nguyễn S mẹ Đặng Thị H tiếp tục sử dụng. Phần đất
hiện bà D đang tranh chấp thì từ lúc nhỏ lớn lên bà thấy gia đình cha mẹ của bà sử
dụng, trên phần đất này có 01 giếng đào, phía trong giếng đào là hàng rào chè ranh
giới với phần đất của cha mẹ bà D. Giếng đào này lúc còn nhỏ thì thấy 03 gia đình
cha mẹ, cha mẹ bà D và gia đình ông Nguyễn T cùng sử dụng chung. Sau này khi
ông Nguyễn Đặng H sửa lại nhà cha mẹ thì đóng giếng sử dụng nên không còn sử
dụng giếng nước này, trên phần đất bà D tranh chấp thì vợ chồng ông H trồng
chuối.
Bà xác định phần đất bà D đang tranh chấp khởi kiện là của ông cố đã chia
cho ông nội giao lại cho cha mẹ của bà sử dụng từ lúc bà còn nhỏ cho đến nay nên
phần đất này là của gia đình cha mẹ chứ không phải của cha mẹ bà D nên bà thống
nhất theo ý kiến của ông Nguyễn Đặng H, bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của
bà D. Tại phiên tòa, bà xác định tính từ mép hàng rào của bà D về phía Nam đủ đất
thì trả cho bà D, còn lại là đất Nhà nước đề nghị Nhà nước thu hồi.
* Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Thế H trình bày: Ông là con của cụ Nguyễn S, ông có biết việc
tranh chấp giữa bà D với cha ông, ông có ý kiến giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất
từ trước đến nay của hai gia đình.
* Theo bản tự khai, biên bản ghi lời khai, các thủ tục tố tụng tiếp theo và tại
phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Ngọc H trình bày:
Thống nhất theo lời trình bày của ông H về nguồn gốc đất tranh chấp, xác định
phần đất bà D tranh chấp có diện tích 607,6m
2
là của gia đình cha mẹ chồng
Nguyễn S, Đặng Thị H nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà D.
* Theo bản tự khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND thị xã A
do người đại diện theo ủy quyền trình bày: Về nguồn gốc thửa đất số 158 và thửa
đất số 159 thuộc tờ bản đồ số 11, theo sổ mục kê năm 1983 là thửa đất số 264 tờ
bản đồ số 14 (hiện nay là thửa đất số 158, 159 tờ bản đồ số 11) có diện tích
2.488m
2
do ông Nguyễn T, Nguyễn S, Nguyễn T và ông Phạm Văn L kê khai sử
dụng. Theo sổ mục kê đất năm 1993 và sổ địa chính năm 1993 thì thửa đất số 158
tờ bản đồ số 11 diện tích 1424m
2
(trong đó 200m
2
đất ở, 1224m
2
đất vườn) do ông
Nguyễn T đăng ký kê khai sử dụng; Thửa đất số 159 tờ bản đồ 11 diện tích 716m
2
(trong đó 200m
2
đất ở, 516m
2
đất vườn) do bà Đặng Thị H đăng ký kê khai, sử
dụng. Về hồ sơ giao quyền sử dụng đất theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của
Chính phủ, tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất
số 158 tờ bản đồ số 11 diện tích 1424m
2
(trong đó 200m
2
đất ở, 1224m
2
đất vườn)
thì thửa đất này giao cho hộ gia đình ông Nguyễn Tiện do ông Nguyễn Tiện đại
diện, tại thời điểm giao quyền sử dụng ruộng đất thì hộ gia đình ông Nguyễn T có
03 nhân khẩu được giao quyền sử dụng ruộng đất. Thửa đất số 159 tờ bản đồ 11
10
diện tích 716m
2
(trong đó 200m
2
đất ở, 516m
2
đất vườn) được giao cho hộ gia đình
bà Đặng Thị H do Đặng Thị H đại diện, tại thời điểm giao quyền sử dụng ruộng
đất thì hộ gia đình bà Đặng Thị H có 11 nhân khẩu được giao quyền sử dụng ruộng
đất. Trên cơ sở đề nghị của UBND phường N về việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho hộ sử dụng đất, UBND huyện A (nay là thị xã A) xem xét cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ sử dụng ruộng đất theo quy định. Tại thời
điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Tiện và hộ bà
Đặng Thị H không có đơn tranh chấp và sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho hộ ông Nguyễn T và hộ bà Đặng Thị H không có khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn T và hộ
bà Đặng Thị H là đúng trình tự thủ tục theo quy định.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 130/2024/DS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thị xã A đã quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 166, Điều 235,
Điều 264, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 164, Điều 169, Điều 175 Bộ luật Dân sự và Điều 166, Điều
203 Luật Đất đai, khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30.12.2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D.
2/ Xác định phần đất vườn ở hướng Tây Bắc (ký hiệu C trên sơ đồ)có diện
tích là 607,6m
2
thuộc thửa đất số 158 tờ bản đồ số 11 tọa lạc tại khu vực N, phường
N tỉnh Bình Định được giao quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Nguyễn Tiện.
3/ Buộc vợ chồng ông Nguyễn Đặng H, bà Nguyễn Thị Ngọc H cùng những
kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Nguyễn S chấm dứt hành vi cản trở
quyền sử dụng đất và trả lại cho bà Nguyễn Thị D cùng với những người thừa kế
của cụ Nguyễn T cụ Võ Thị M và các thành viên hộ gia đình cụ Nguyễn T (gồm
có: bà Nguyễn Thị Minh C, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Q, bà Nguyễn Thị T,
bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị Hồng N, bà Đặg Thị Hồng T và chị Nguyễn
Đặng Quỳnh N) phần đất vườn ở hướng Tây Bắc có diện tích là 607,6m
2
(ký hiệu
C trên sơ đồ), có kích thước các cạnh như sau:
Đông giáp thửa đất ODT 156 có chiều dài cạnh 25,12m
Tây giáp thửa ODT 159 có chiều dài cạnh 6,44m + 9,9m + 10,92m và ODT
thửa 149 có chiều dài cạnh 15,86m + 2,4m.
Bắc giáp thửa đất ODT 1608 có chiều dài cạnh là 18,84m.
Nam giáp thửa đất ODT 158
11
(Có sơ đồ kèm theo)
4/ Buộc bà Nguyễn Thị D cùng vớinhững người thừa kế của cụ Nguyễn T cụ
Võ Thị M và các thành viên hộ gia đình cụ Nguyễn T (gồm có: bà Nguyễn Thị
Minh C, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Q, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị
Mi, bà Nguyễn Thị Hồng N, bà Đặg Thị Hồng T và chị Nguyễn Đặng Quỳnh N) có
trách nhiệm thanh toán cho vợ chồng ông Nguyễn Đặng H bà Nguyễn Thị N
Hương ½ giá trị hàng rào và các cây trồng trên đất với tổng số tiền 9.362.343đ
(chín triệu, ba trăm sáu mươi hai nghìn ba trăm bốn mươi ba đồng).
5/ Bà Nguyễn Thị D cùng với những người thừa kế của cụ Nguyễn T cụ Võ
Thị M và các thành viên hộ gia đình cụ Nguyễn T được sở hữu chung hàng rào
lưới B40 ở hướng Đông có chiều dài 25,12m với gia đình ông Võ Văn T và được
sở hữu chung phần hàng rào lưới B40 ở hướng Bắc có chiều dài 18,84m với gia
đình ông Nguyễn Xuân N.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố
tụng và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 24 tháng 9 năm 2024, bị đơn ông Nguyễn Đặng H kháng cáo không
đồng ý quyết định của bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện,
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn giữ nguyên nội dung kháng
cáo.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật
tố tụng; Về quan điểm giải quyết vụ án: Thấy rằng, trong vụ án có ông khi nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn T đã không xem xét
hiện trạng đất đang sử dụng của ông Nguyễn Đặng H là có thiếu sót nên cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là chưa có cơ sở, bị đơn có yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn nhưng cấp sơ thẩm không
chuyển cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết là vi phạm tố tụng. Do cấp sơ thẩm đã vi
phạm tố tụng nên đề nghị hủy bản án sơ thẩm. Áp dụng khoản 3 Điều 308 của
BLTTDS đề nghị hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm
tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của
bị đơn ông Nguyễn Đặng H trong thời hạn và đã nộp tạm ứng án phí đầy đủ nên
được xem xét. Bị đơn ông Nguyễn Đặng H và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị H, bà Đặng Thị Hồng T, bà Nguyễn Thị Mai, bà Nguyễn Thị
12
Q, bà Nguyễn Thị Minh C, đại diện hợp pháp của UBND thị xã A có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt; Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn bà Nguyễn
Thị Tấn H, Ông Nguyễn Thế H; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Bá H, bà Nguyễn Thị Ngọc Y, bà Lê Thị Ngọc H vắng mặt lần 2. Căn cứ
khoản 3 Điều 296 của BLTTDS, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những
người nêu trên.
[2] Xét nội dung kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của
bị đơn ông Nguyễn Đặng Hiệp, thấy rằng:
Nguồn gốc thửa đất số 158 và thửa đất số 159 thuộc tờ bản đồ số 11 vào
năm 1986 là thửa đất số 264, tờ bản đồ số 14 có diện tích trên bản đồ địa chính là
1.988m
2
, diện tích trong trong sổ mục kê ruộng đất năm 1984 là 2.488m
2
đứng tên
kê khai sử dụng trong sổ mục kê là cụ Nguyễn T cụ Nguyễn S, cụ Nguyễn Th và
ông Phạm Văn L. Đến năm 1993 thửa đất số 264, tờ bản đồ số 14 được cụ Nguyễn
T, vợ chồng cụ Nguyễn T - bà Võ Thị M, vợ chồng cụ Đặng Thị H - cụ Nguyễn S
kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cụ thể vợ chồng cụ
Nguyễn T- cụ Võ Thị M kê khai được UBND huyện A (nay là UBND thị xã A)
giao quyền sử dụng ruộng đất cho hộ gia đình cụ Nguyễn Tiện đối với thửa đất số
158 tờ bản đồ số 11 có diện tích 1.424m
2
(trong đó 200m
2
đất ở, 1.224m
2
đất
vườn) theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00092 QSDĐ/I13 ngày
10/8/1993 đứng tên cụ Nguyễn T; Đối với vợ chồng cụ Đặng Thị H - cụ Nguyễn S
đăng ký kê khai được UBND huyện A (nay là UBND thị xã A) giao quyền sử dụng
ruộng đất cho hộ cụ Đặng Thị H thửa đất số 159 tờ bản đồ số 11 có diện tích
1716m
2
(trong đó 200m
2
đất ở, 516m
2
đất vườn) theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 00029 QSDĐ/I13 ngày 10/8/1993 đứng tên cụ Đặng Thị H là hoàn
toàn phù hợp với lời khai của các đương sự về nguồn gốc đất từ ông bà để lại và
được thể hiện tại Công văn số 55/UBND ngày 09 tháng 2 năm 2022 do UBND
phường N và Công văn số 55/UBND ngày 09 tháng 2 năm 2022 do UBND phường
N cung cấp.
Theo kết quả đo đạc ranh giới chỉ dẫn của hai bên thì thửa đất số 158 có diện
tích đo đạc theo hiện trạng là 1173,4m
2
cộng phần đất tranh chấp thì diện tích là
1781m
2
(1173,4m
2
+ 607,6m
2
) chênh lệch tăng so với diện tích trong giấy chứng
nhận là 357m
2
. Phần diện tích tăng này nguyên nhân do cụ Nguyễn T (cha của bà
D) đã sử dụng thửa đất số 1569 tờ bản đồ 11 có diện tích 300m
2
loại đất nghĩa địa
do Nhà nước quản lý nằm ở phía Đông Nam của thửa đất số 158 và diện tích tăng
còn lại nằm trên đất giao thông ở cạnh phía Tây của thửa đất số 158, phần đất tăng
không liên quan đến phần đất tranh chấp ở hướng Bắc có diện tích 607,6m
2
. Đối
với thửa đất số 159 có diện tích đo đạc theo hiện trạng là 703,3m
2
, giảm 12,7m
2
so
với diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00029 QSDĐ/I13 ngày
10/8/1993 thì thửa đất số 159 tờ bản đồ số 11 đứng tên cụ Đặng Thị H và giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 00092 QSDĐ/I13 ngày 10/8/1993 đối với thửa
13
đất số 158 tờ bản đồ số 11 đứng tên cụ Nguyễn T và bản đồ địa chính năm 1993 do
UBND phường N cung cấp thể hiện: Hướng Đông của thửa đất 159 (thửa đất do
ông H đang sử dụng) giáp thửa đất 158 (thửa đất của cụ Nguyễn T, cha của bà D),
hướng Bắc giáp thửa 149. Nhưng thực tế qua xem xét thẩm định tại chỗ thì hướng
Đông của thửa đất 159 giáp thửa đất 156 và hướng Bắc giáp thửa đất 1608. Thửa
đất số 158 và thửa đất số 159 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
nghị định 64/CP của Chính phủ trên cơ sở kê khai của người sử dụng đất; thửa đất
số 158 do cụ Nguyễn T kê khai còn thửa đất 159 do cụ Đặng Thị H kê khai nên
UBND huyện A (nay là thị xã A) đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ gia đình cụ T và hộ gia đình cụ H từ năm 1993. Sau khi được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và trong quá trình sử dụng đất, các thành viên hộ gia đình
cụ T và cụ H không tranh chấp khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Do đó, có căn cứ xác định phần đất tranh chấp có diện tích 607,6m
2
đất vườn
thuộc thửa đất số 158 tờ bản đồ số 11 đã được UBND huyện A (nay là thị xã A)
cân đối giao quyền sử dụng đất cho hộ gia đình cụ Nguyễn T. Căn cứ vào những
chứng cứ và nhận định nêu trên, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là có căn cứ, vì vậy HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
[3] Về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00092 QSDĐ/I13
ngày 10/8/1993 đứng tên cụ Nguyễn Tiện, cấp sơ thẩm nhận định Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nói trên không cấp chồng lấn diện tích đất của hộ gia đình ông
H, cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi sử dụng đất của hộ gia đình ông H nên
không có căn cứ xem xét giải quyết yêu cầu của ông H yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 158 tờ bản đồ số 11 tại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 00092 QSDĐ/I13 ngày 10/8/1993 đứng tên cụ Nguyễn
T là có căn cứ.
[4] Quá trình sử dụng đất vợ chồng ông Nguyễn Đặng H trồng cây trên đất
cụ thể: 05 cây ổi còn nhỏ x 50.000đ/cây có giá trị 250.000đ, 01 cây xoài còn nhỏ x
168.000đ/cây có giá trị 168.000đ, 02 cây mãng cầu còn nhỏ x 85.000đ/cây có giá
trị 170.000đ, 50 cây chuối (8 bụi) còn nhỏ x 26.000đ/cây có giá trị 1.300.000đ.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và biên bản định giá tài sản ngày
10.3.2020 thể hiện từ trụ bê tông thứ 2 ở hướng Đông kéo thẳng ra hướng Bắc thì
phần tường xây gạch + lưới B40 khổ 1,8m do ông Nguyễn Đặng Hiệp và gia đình
ông Võ Văn T cùng xây dựng chung từ năm 2019 có chiều dài 25,12m có giá trị
8.599.228đ. Tường rào lưới B40 khổ 1,8m ở hướng Bắc có chiều dài 18,84m do
ông Nguyễn Đặng H và gia đình ông Nguyễn Xuân Ng cùng xây dựng chung từ
năm 2019 có giá trị 6.349.459đ. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa
bà Nguyễn Thị D đồng ý cùng với những người thừa kế cụ Nguyễn T, cụ Võ Thị
Mvà thành viên hộ gia đình của cụ Nguyễn T tự nguyện thanh toán lại ½ giá trị
hàng rào do ông H xây dựng chung với ông T và ông Ng và thanh toán giá trị cây
trồng mà vợ chồng ông H trồng nên công nhận, buộc bà Nguyễn Thị Dg cùng với
những người thừa kế cụ Nguyễn T, cụ Võ Thị M và thành viên hộ gia đình của cụ
14
Nguyễn T có trách nhiệm thanh toán cho vợ chồng ông H bà H với tổng số tiền
9.362.343đ là phù hợp.
[5] Đối với thửa đất số 1569 tờ bản đồ 11 có diện tích 300m
2
loại đất nghĩa
địa do UBND phường N quản lý và phần đất 57m
2
thuộc đất giao thông ở cạnh
phía Tây của thửa đất số 158 hiện gia đình bà Nguyễn Thị D chiếm sử dụng thì
thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND phường N là có căn cứ.
[6] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không có căn
cứ chấp nhận nội dung kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của
bị đơn ông Nguyễn Đặng H; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[7] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định
đề nghị hủy bản án sơ thẩm do cấp sơ thẩm vi phạm thẩm quyền giải quyết, vì vụ
án có đương sự ông Nguyễn Bá N đang cư trú tại Hoa Kỳ và bị đơn có yêu cầu hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không phù hợp với nhận định của Hội đồng
xét xử. Bởi, với những ý kiến nêu trên của kiểm sát viên tại phiên tòa, Tòa án cấp
sơ thẩm cũng đã chuyển hồ sơ vụ án lên Tòa án cấp tỉnh để giải quyết theo thẩm
quyền 02 lần và Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã chuyển hồ sơ lại cho Tòa án
nhân dân thị xã A giải quyết theo thẩm quyền với quan điểm: Theo mục II của Giải
đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TANDTC hướng dẫn: “…Trường
hợp khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt nhưng không
cần thiết phải hủy quyết định cá biệt đó và việc không hủy quyết định đó vẫn đảm
bảo giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự thì Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự
tiếp tục giải quyết” và theo điểm a khoản 5 Điều 7 của Nghị quyết số 03/2012/NQ-
HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn về việc
không thay đổi thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong trường hợp Tòa án đã thụ
lý giải quyết mới phát sinh yếu tố nước ngoài. Do đó, Tòa án nhân dân thị xã A
giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều điểm a khoản 1 Điều
35, điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS.
[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[9] Án phí dân sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn Đặng Hiệp nên ông Hiệp phải chịu án phí dân sự theo quy định của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
15
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Diều 148, khoản 1 Điều 228, Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 166,
Điều 235, Điều 264, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 164, Điều 169, Điều 175 Bộ luật Dân sự và Điều 166, Điều
203 Luật Đất đai, khoản 2 Điều 27, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30.12.2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Đặng H.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D.
3. Xác định phần đất vườn ở hướng Tây Bắc (ký hiệu C trên sơ đồ) có diện
tích là 607,6m
2
thuộc thửa đất số 158 tờ bản đồ số 11 tọa lạc tại khu vực N, phường
N, thị xã A, tỉnh Bình Định được giao quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông
Nguyễn T.
4. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Đặng H, bà Nguyễn Thị Ngọc H cùng những
kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Nguyễn S chấm dứt hành vi cản trở
quyền sử dụng đất và trả lại cho bà Nguyễn Thị D cùng với những người thừa kế
của cụ Nguyễn T cụ Võ Thị M và các thành viên hộ gia đình cụ Nguyễn T (gồm
có: bà Nguyễn Thị Minh C, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Q, bà Nguyễn Thị T,
bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị Hồng N, bà Đặg Thị Hồng T và chị Nguyễn
Đặng Quỳnh N) phần đất vườn ở hướng Tây Bắc có diện tích là 607,6m
2
(ký hiệu
C trên sơ đồ), có kích thước các cạnh như sau:
Đông giáp thửa đất ODT 156 có chiều dài cạnh 25,12m; Tây giáp thửa ODT
159 có chiều dài cạnh 6,44m + 9,9m + 10,92m và ODT thửa 149 có chiều dài cạnh
15,86m + 2,4m; Bắc giáp thửa đất ODT 1608 có chiều dài cạnh là 18,84m; Nam
giáp thửa đất ODT 158 (Có sơ đồ kèm theo).
5. Buộc bà Nguyễn Thị D cùng với những người thừa kế của cụ Nguyễn
Ticụ Võ Thị M và các thành viên hộ gia đình cụ Nguyễn Tiện (gồm có: bà Nguyễn
Thị Minh C bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Q, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị
M, bà Nguyễn Thị Hồng N, bà Đặg Thị Hồng T và chị Nguyễn Đặng Quỳnh N) có
trách nhiệm thanh toán cho vợ chồng ông Nguyễn Đặng H bà Nguyễn Thị N H ½
giá trị hàng rào và các cây trồng trên đất với tổng số tiền 9.362.343đ (chín triệu, ba
trăm sáu mươi hai nghìn ba trăm bốn mươi ba đồng).
6. Bà Nguyễn Thị D cùng với những người thừa kế của cụ Nguyễn T cụ Võ
Thị M và các thành viên hộ gia đình cụ Nguyễn T được sở hữu chung hàng rào
lưới B40 ở hướng Đông có chiều dài 25,12m với gia đình ông Võ Văn T và được
sở hữu chung phần hàng rào lưới B40 ở hướng Bắc có chiều dài 18,84m với gia
đình ông Nguyễn Xuân N.
16
7. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Bà Nguyễn Thị
D tự nguyện chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.000.000đ (ba triệu đồng),
bà D đã nộp xong.
8. Về án phí:
8.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị D là người cao tuổi được miễn
nộp tiền tạm ứng án phí và án phí. Ông Nguyễn Đặng H phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí
300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 005087 ngày 25 tháng 01 năm
2022 của Chi cục thi hành án thị xã A, tỉnh Bình Định.
8.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Đặng H phải chịu 300.000đ
nhưng được trừ vào tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng áp phí số
0005566 ngày 24/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A.
9. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
10. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án:
10.1. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định
tại Điều 357 khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
10.2. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy đinh tại điều 2
luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án,quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định điều 30 luật thi
hành án dân sự.
11. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Bình Định;
- TAND thị xã A;
- Chi cục THADS thị xã A;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Nguyễn Thị Thanh Bình
Tải về
Bản án số 09/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 09/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 15/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm