Bản án số 09/2024/KDTM-ST ngày 06/06/2024 của TAND TX. Bến Cát, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về mua bán hàng hóa
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2024/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2024/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2024/KDTM-ST
Tên Bản án: | Bản án số 09/2024/KDTM-ST ngày 06/06/2024 của TAND TX. Bến Cát, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về mua bán hàng hóa |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về mua bán hàng hóa |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Bến Cát (TAND tỉnh Bình Dương) |
Số hiệu: | 09/2024/KDTM-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/06/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Công ty Gỗ TT khởi kiện Công ty HK QT yêu cầu thanh toán tiền nợ mua hàng hoá và lãi suất chậm thanh toán |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ BẾN CÁT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 09/2024/KDTM-ST
Ngày: 06-6-2024
V/v tranh chấp
hợp đồng
mua bán hàng hóa
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tiến.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Kim Lý.
2. Ông Lục Kim Thanh.
- Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thị Nga - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố
Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương
tham gia phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thuỷ - Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát,
tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai
vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số:
45/2023/TLST-KDTM ngày 11/10/2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2024/QĐXXST-KDTM ngày
15 tháng 5 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH gỗ Công nghiệp TT; địa chỉ: Thửa đất số 717
tờ bản đồ số 11, khu phố 6, phường VT, thành phố TU, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: Ông Vương Đức T, sinh năm 1986; địa chỉ: KM
1877 quốc lộ 1K, phường BA, thành phố DA, tỉnh Bình Dương (giấy ủy quyền
10/8/2023). Có mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH HK QT (Việt Nam); địa chỉ: Lô E11 đường D10
khu công nghiệp RB, xã AT, thị xã BC (nay là phường AT, thành phố BC), tỉnh
Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp:
2
1. Bà Đặng Thị Vũ H, sinh năm 1987; Địa chỉ thường trú : Số 103/47,
đường Lái Thiêu 29, khu phố ĐT, phường LT, thành phố TA, tỉnh Bình Dương.
Có mặt;
2. Ông Wang Q, sinh năm 1988; Địa chỉ liên lạc: Lô E1 (khu B4), đường
D10, khu công nghiệp RB, AT, BC, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
3. Bà Trần Thị Bích N, sinh năm 1991; địa chỉ: Khu phố 3, phường MP,BC,
tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
Theo Văn bản ủy quyền ngày 03/11/2023.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan: Ông Zhang Xiu N, sinh năm
1976; địa chỉ: Tổ 1, khu phố ÔD, phường TH, thành phố TU, tỉnh Bình Dương.
Vắng mặt đồng thời có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Tại Đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, người đại diện hợp pháp của nguyên
đơn Công ty TNHH Gỗ Công nghiệp TT là ông Vương Đức T trình bày:
Tháng 8 năm 2022, Công ty TNHH Gỗ Công nghiệp TT (sau đây gọi tắt là
Công ty TT) có bán cho Chi nhánh Bàu Bàng - Công ty TNHH HK QT Việt Nam
(sau đây gọi tắt là Công ty HK- CN Bàu Bàng) mặt hàng là 19,339,5m3 gỗ Birch
bào AB với tổng giá trị là 610.934.805 đồng, công ty TT có gửi hợp đồng mua
bán cho Công ty HK- CN Bàu Bàng nhưng không thấy Công ty HK- CN Bàu
Bàng ký gửi lại Công ty TT. Thực tế, Công ty HK- CN Bàu Bàng có mua hàng và
yêu cầu giao hàng nên Công ty TT đã giao đủ số lượng như trên, giao hàng thành
3 lần vào các ngày 26/8/22; 22/8/22, 18/8/22, địa điểm giao hàng theo yêu cầu
của bên mua là tại Lô E11 đường D10 khu công nghiệp Rạch Bắp, xã An Tây, thị
xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, mỗi lần giao hàng đều có biên bản giao. Sau khi
giao đủ số lượng hàng hoá thì phía Công ty TT phát hành hoá đơn VAT số 74
ngày 08/9/2022 để yêu cầu thanh toán, thời hạn thanh toán là trong vòng 30 ngày
kể từ ngày xuất hoá đơn. Tuy nhiên đến nay Công ty HK- CN Bàu Bàng mới
thanh toán được 100.000.000 đồng, ngày thanh toán là ngày 11/1/2023 thông qua
hình thức chuyển khoản từ tài khoản công ty HK chi nhánh Bàu Bàng qua tài
khoản công ty TT số tiền còn thiếu chưa thanh toán là 510.934.805 đồng.
Nay công ty TT đề nghị công ty HK thanh toán nợ gốc còn thiếu
510.934.805 đồng và tiền lãi chậm thanh toán tính từ ngày 10/10/2022 (tính từ
ngày kế tiếp của thời hạn 30 ngày từ ngày xuất hóa đơn) đến khi vụ án xét xử với
mức lãi suất 1%/tháng tạm tính là 56.202.828 đồng.
3
2. Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty
TNHH HK QT Việt Nam (sau đây gọi tắt là Công ty HK) là bà Đặng Thị Vũ H và
ông Wang Q cùng trình bày:
Sau khi kiểm tra thông tin lưu giữ tại công ty thì công ty HK không thấy
tồn tại hợp đồng mua bán gỗ giữa công ty TT với công ty HK chi nhánh Bàu
Bàng nên công ty HK không biết có việc mua bán giữa hai bên như công ty TT
trình bày hay không, đối với phiếu giao hàng công ty TT cung cấp thì công ty HK
thấy địa điểm giao hàng là ở công ty HK QT (Việt Nam) trụ sở chính chứ không
phải ở công ty HK chi nhánh Bàu Bàng, khi công ty HK kiểm tra thì không có
nhân viên nào của công ty tên Lương Ngọc Huyền (bên nhận công ty HK), ngoài
ra kiểm tra hàng hóa tại công ty thì không có loại hàng và số lượng hàng như công
ty TT trình bày, còn số tiền 100.000.000 đồng đã thanh toán thì đúng là công ty
HK chi nhánh Bàu Bàng có chuyển cho công ty TT, tuy nhiên nếu công ty TT
không chứng minh được có việc mua bán gỗ như đã trình bày thì đề nghị công ty
TT trả lại công ty HK số tiền 100.000.000 đồng đã nhận.
Đối với việc yêu cầu công ty TT trả lại số tiền 100.000.000 đồng này thì bà
H sẽ làm việc lại với người đại diện theo pháp luật của công ty, nếu có yêu cầu thì
công ty sẽ nộp đơn phản tố theo quy định.
Công ty HK đề nghị đưa ông ông Zhang Xiu N và kế toán trường của công
ty HK – chi nhánh Bàu Bàng là bà Võ Lâm Kiều Anh tham gia vụ án với tư cách
là người liên quan để làm rõ việc mua bán hàng hóa là gỗ với công ty TT vì thời
gian này hai người vẫn đang phụ trách tại công ty HK chi nhánh Bàu Bàng.
Do công ty TT không cung cấp được hợp đồng mua bán, không cung cấp
được có việc giao hàng nên công ty HK không đồng ý trả tiền theo yêu cầu khởi
kiện.
3. Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan
là ông Zhang Xiu N trình bày ý kiến như sau:
Vào tháng 02/2022, ông được ông Liao, Chuan W là Tổng giám đốc Công
ty HK, đồng thời là Giám đốc chi nhánh Công ty HK- CN Bàu Bàng cử làm phó
giám đốc chi nhánh và có nhiệm vụ điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của
Công ty HK- CN Bàu Bàng theo Giấy uỷ quyền ngày 15/02/2022 do ông Liao,
Chuan W kí, đóng dấu của Công tu HK2.
Nay đối với vụ án ông có ý kiến như sau:
- Vào tháng 8/2022, ông đại diện hợp pháp của Công ty HK- CN Bàu Bàng
có liên hệ với Công ty TT để mua gỗ Birch bào AB với số lượng là 19,3395 m3
với tổng giá trị là 610.934.805 đồng (đã bao gồm VAT). Việc mua bán có lập hợp
4
đồng hay không thì ông không nhớ rõ do thời gian đã lâu.
- Sau khi thống nhất về hàng hoá, số lượng, đơn giá thì Công ty TT đã giao
đúng hàng hoá như thoả thuận cho Công ty HK- CN Bàu Bàng vào các ngày
18/8/2022; ngày 22/8/2022 và ngày 26/8/2022, khi giao nhận hàng hoá có lập
phiếu giao nhận hàng hoá. Sau khi nhận hàng thì phía Công ty HK đã thanh toán
được số tiền 100.000.000 đồng vào ngày 11/01/2023, còn nợ lại 510.934.805
đồng. Hiện nay do ông đã nghỉ việc ở Công ty HK- CN Bàu Bàng nên ông không
biết còn nợ lại bao nhiêu.
- Số lượng hàng hoá sau khi Công ty TT giao cho, Công ty HK- CN Bàu
Bàng đã đưa vào phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình và cũng
đã hạch toán, kết toán đầy đủ theo quy định pháp luật (kê khai, báo cáo thuế đầy
đủ).
Nay phía Công ty TT khởi kiện yêu cầu thanh toán tiền hàng còn thiếu thì
ông không có ý kiến, đề nghị Toà án giải quyết theo quy định.
Ông cam kết lời trình bày của mình là đúng sự thật.
Tại phiên tòa:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Thiên trình bày:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Yêu cầu Toà án buộc bị đơn phải
thanh toán cho nguyên đơn các khoản tiền sau:
- Tiền nợ tiền mua hàng hoá là 510.934.805 đồng;
- Tiền lãi phát sinh tính từ ngày chậm thanh toán là ngày 10/10/2022 đến ngày
xét xử hôm nay (6/6/2024) là 19 tháng 27 ngày. Tại Đơn khởi kiện, nguyên đơn
yêu cầu mức lãi suất chậm thanh toán là 1%/tháng. Tuy nhiên, nguyên đơn nhận
thấy mức lãi suất của các ngân hàng hiện tại đang giảm mức thấp hơn nên nguyên
đơn thay đổi mức lãi suất yêu cầu xuống còn 0,8%/tháng. Tổng số tiền lãi nguyên
đơn yêu cầu là 81.340.820 đồng.
Tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán là 592.275.625 đồng
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà H trình bày: Giữ nguyên các
ý kiến đã trình bày, bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Kiểm sát viên đại diện VKSND thành phố Bến Cát phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Thời hạn thụ lý, giải quyết vụ án, việc cấp tống đạt văn
bản pháp luật và việc tuân thủ quy định pháp luật của người tham gia tố tụng, người
tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy
5
nhiên về chứng cứ chứng minh trong vụ án là chưa đảm bảo. Xét cần phải xác minh
tại Chi cục thuế Bàu Bàng để xác định phía bị đơn hay Chi nhánh tại Bàu Bàng của
bị đơn có sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng số 74 ngày 08/9/2022 do nguyên đơn
phát hành để khai báo, khấu trừ thuế hay không. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử
tạm ngừng phiên toà để thu thập thêm tài liệu chứng cứ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp:
Công ty TT khởi kiện yêu cầu Công ty HK thanh toán số tiền nợ theo thoả
thuận mua bán hàng hoá vào tháng 8/2022 giữa Công ty TT và Công ty HK- CN
Bàu Bàng nên đây là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định tại
khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:
Bị đơn là Công ty TNHH HK QT (Việt Nam) có địa chỉ trụ sở tại Lô E1
(khu B4), đường D10, khu công nghiệp Rạch Bắp, xã An Tây, thị xã Bến Cát (nay
là phường An Tây, thành phố Bến Cát), tỉnh Bình Dương theo quy định tại Điều
30, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát (nay là thành phố Bến Cát),
tỉnh Bình Dương.
[1.3] Về xác định tư cách người tham gia tố tụng.
Quá trình tham gia tố tụng, phía đại diện hợp pháp của bị đơn có đề nghị
Toà án triệu tập ông Zhang Xiu N và bà Võ Lâm Kiều Anh tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ
án cho thấy việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của ông
Zhang Xiu N nên Toà án đã tiến hành triệu tập ông Zhang Xiu N tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án, ông Zhang
cũng đã có văn bản trình bày ý kiến đối với vụ án.
Đối với bà Võ Lâm Kiều Anh: Toà án xét thấy việc giải quyết vụ án không
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của bà Anh do đó Toà án không đưa bà Anh vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan.
[1.4] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng.
6
Tại phiên toà, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan là ông Zhang
Xiu N vắng mặt, tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án, ông Zhang đã có văn bản
trình bày rõ ý kiến và có Đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của
ông Zhang không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án do đó HĐXX tiến hành xét xử
vắng mặt ông Zhang theo quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về xác định sự tồn tại của giao dịch mua bán hàng hoá giữa nguyên
đơn và Công ty HK- CN Bàu Bàng:
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn và người có quyền lợi và nghĩa
vụ có liên quan là ông Zhang Xiu N đều thừa nhận: Vào tháng 8/2022 giữa
nguyên đơn và ông Zhang với tư cách là đại diện hợp pháp của Công ty HK- CN
Bàu Bàng đã thoả thuận về việc mua bán hàng hoá, theo đó Công ty HK- CN Bàu
Bàng mua của nguyên đơn mặt hàng là 19,339,5m3 gỗ Birch bào AB với tổng giá
trị là 610.934.805 đồng. Thực hiện hợp đồng mua bán, Công ty TT đã giao đủ số
lượng hàng như trên vào các ngày 26/8/22; 22/8/22, 18/8/22. Sau khi giao đủ số
lượng hàng hoá thì phía Công ty TT phát hành hoá đơn VAT số 74 ngày
08/9/2022 để yêu cầu Công ty HK- CN Bàu Bàng thanh toán.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn lại cho rằng: Giữa nguyên đơn và bị
đơn không tồn tại quan hệ mua bán hàng hoá bởi các lý do: 1- Nguyên đơn không
xuất trình được Hợp đồng mua bán (bằng văn bản) thể hiện việc ký kết hợp đồng
giữa nguyên đơn với Công ty HK- CN Bàu Bàng, bị đơn cũng đã tiến hành kiểm
tra tại trụ sở nhưng không có bản hợp đồng nào được ký kết với nguyên đơn; 2-
Thực tế không có việc nguyên đơn giao hàng cho phía bị đơn vì người nhận hàng
tên Lương Ngọc Huyền không có tên trong danh sách nhân viên của bị đơn, ngoài
ra bị đơn cũng đã tiến hành kiểm tra kho của bị đơn nhưng không có mặt hàng
nào như của nguyên đơn cung cấp theo hợp đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Zhang đã cung cấp cho Toà án 01 bản photo
Giấy uỷ quyền ngày 15/02/2022 (có bản chính đối chiếu), phía bị đơn đã được tiếp
cận Giấy uỷ quyền này và không phủ nhận giá trị pháp lý của nó.
Xét nội dung Giấy uỷ quyền ngày 15/02/2022 thể hiện: Ông Liao, Chuan
W là giám đốc Công ty HK- CN Bàu Bàng (đồng thời ông Liao cũng là đại diện
theo pháp luật của Công ty HK) ủy quyền cho ông Zhang Xiu N là phó giám đốc
Công ty HK- CN Bàu Bàng được quyền ký kết các hợp đồng mua bán, ký báo giá
của Công ty HK với các nhà cung ứng. Như vậy về thẩm quyền giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá, ông Zhang Xiu N được quyền đại diện Công ty HK- CN Bàu
Bàng để thoả thuận, giao kết hợp đồng mua bán với bên cung ứng là Công ty TT.
7
Xét lời trình bày của bị đơn: Về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá:
Theo quy định tại Điều 24 Luật Thương mại thì hình thức của hợp đồng mua bán
hàng hoá có thể được thể hiện dưới dạng lời nói, văn bản hoặc bằng những hành
vi cụ thể. Như vậy việc bị đơn phủ nhận giữa các bên có tồn tại giao dịch mua bán
hàng hoá vì không có văn bản thể hiện là không có cơ sở. Danh sách nhân viên
Công ty HK do bị đơn cung cấp không thể là căn cứ để xác định Công ty HK có
nhận hàng hoá hay không. Mặt khác, ông Zhang Xiu N đã xác định hàng hoá sau
khi nhận đã được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty HK-
CN Bàu Bàng do đó thời điểm phát sinh tranh chấp Công ty HK tiến hành kiểm
tra và trình bày rằng không có mặt hàng mà nguyên đơn cung ứng tại kho của
mình là phù hợp, đây không phải là căn cứ cho rằng nguyên đơn không giao hàng
được.
Từ các phân tích trên có đủ cơ sở xác định: Giữa nguyên đơn và Công ty
HK- CN Bàu Bàng có xác lập hợp đồng mua bán hàng hoá vào tháng 8/2022 với
mặt hàng mua bán là 19,339,5m3 gỗ Birch bào AB với tổng giá trị là 610.934.805
đồng.
[2.2] Về hiệu lực pháp lý của giao dịch mua bán hàng hoá được xác lập
giữa nguyên đơn với Công ty HK- CN Bàu Bàng đối với bị đơn - Công ty HK.
Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự thì Chi nhánh chỉ là đơn vị phụ
thuộc của doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân. Và Pháp nhân (doanh
nghiệp) có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do Chi nhánh của
mình xác lập, thực hiện. Công ty HK- CN Bàu Bàng chính là chi nhánh tại Bàu
Bàng của Công ty HK do đó hợp đồng mua bán được xác lập bởi Công ty HK-
CN Bàu Bàng với nguyên đơn thì Công ty HK cũng bị ràng buộc trách nhiệm
pháp lý, Công ty HK phải chịu trách nhiệm pháp lý với bên thứ 3 khi phát sinh
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ. Do đó việc nguyên đơn khởi kiện Công ty HK
để yêu cầu nghĩa vụ thanh toán đối với hợp đồng mua bán được xác lập giữa
nguyên đơn với chi nhánh của Công ty HK là đúng quy định.
[2.3] Về việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá:
Nguyên đơn đã cung cấp được các Phiếu giao hàng vào các ngày
18/8/2022; 22/8/2022 và 26/8/2022 với tổng khối lượng hàng hoá được giao là
19,339,5m3 gỗ Birch bào AB. Ông Zhang Xiu N xác định (thời điểm ông còn là
người đại diện hợp pháp của Công ty HK- CN Bàu Bàng) đã nhận đủ số lượng
hàng hoá mua bán như phiếu giao hàng thể hiện do đó có cơ sở xác định bên bán
là Công ty TT đã thực hiện xong nghĩa vụ giao hàng.
8
Đối với nghĩa vụ thanh toán của bên mua là Công ty HK- CN Bàu Bàng:
Tổng giá trị hàng hoá bên mua có nghĩa vụ thanh toán là 610.934.805 đồng.
Nguyên đơn, bị đơn và người liên quan đều thừa nhận ngày 11/01/2023, từ
tài khoản của Công ty HK- CN Bàu Bàng tại ngân hàng MB (số tài khoản
0838800886868) đã chuyển khoản sang tài khoản của Công ty TT tại ngân hàng
Techcombank số tiền 100.000.000 đồng. Phía bị đơn không thừa nhận đây là
thanh toán tiền mua hàng hoá từ nguyên đơn nhưng lại không đưa ra được chứng
cứ chứng minh cho nội dung của giao dịch chuyển khoản này, trong khi chính bị
đơn thừa nhận giữa bị đơn và nguyên đơn không tồn tại quan hệ hợp đồng mua
bán nào khác. Trong khi theo bản sao kê tài khoản có do phía nguyên đơn cung
cấp thì nội dung của giao dịch này là “HK tt”, theo nguyên đơn và ông Zhang Xiu
N xác định thì đây chính là khoản tiền mua hàng mà Công ty HK- CN Bàu Bàng
thanh toán cho nguyên đơn, lời trình bày này của nguyên đơn và ông Zhang Xiu
N là phù hợp với nội dung giao dịch.
Ngoài số tiền 100.000.000 đồng đã thanh toán trên thì nguyên đơn, bị đơn
đều xác định cho đến hiện tại phía bị đơn hay Công ty HK- CN Bàu Bàng không
thanh toán thêm khoản nào khác cho nguyên đơn.
[3] Xét các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[3.1] Về nghĩa vụ thanh toán: Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự thì
việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Công ty HK thanh toán số tiền nợ mua hàng
hoá và lãi chậm thanh toán phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá giữa nguyên
đơn và Công ty HK- CN Bàu Bàng là có căn cứ chấp nhận.
[3.2] Về số tiền phải thanh toán cụ thể:
Từ những phân tích trên có cơ sở xác định Công ty HK- CN Bàu Bàng vẫn
còn nợ lại Công ty TT số tiền mua bán hàng hoá là 610.934.805 đồng -
100.000.000 đồng = 510.934.805 đồng phải thanh toán nguyên đơn
Về tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán: Nguyên đơn yêu cầu: Tiền lãi phát
sinh tính từ ngày chậm thanh toán là ngày 10/10/2022 đến ngày xét xử là 19 tháng
27 ngày với mức lãi suất 0,8%/tháng, tương ứng số tiền lãi là 81.340.820 đồng.
Ngày nguyên đơn giao xong hàng hoá là ngày 26/8/2022, ngày nguyên đơn
xuất hoá đơn yêu cầu thanh toán là ngày 08/9/2022. Nguyên đơn thừa nhận thời
hạn thanh toán là 30 ngày kể từ ngày xuất hoá đơn. Như vậy ngày qúa hạn thanh
toán được tính từ ngày 08/10/2022, tuy nhiên nguyên đơn chỉ yêu cầu thanh toán
tiền lãi chậm thanh toán là từ ngày 10/10/2022 nên có căn cứ chấp nhận.
Đối với mức lãi suất chậm thanh toán nguyên đơn yêu cầu áp dụng là:
1%/tháng (tương ứng 12%/năm). Các bên tham gia giao dịch không thoả thuận về
9
mức lãi chậm thanh toán. Do đó căn cứ theo quy định tại Điều 306 Luật Thương
mại và Án lệ số 09/2016/AL (được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày
17/10/2016) thì trường hợp này cần căn cứ vào mức lãi suất quá hạn trung bình của
ít nhất 03 ngân hàng tại địa phương, cụ thể là 03 ngân hàng sau: Ngân hàng TMCP
Sài Gòn Thương Tín - Chi nhánh Bến Cát (14,025%/năm); Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Bắc Bình Dương (8,91%/năm);
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Mỹ
Phước (11,55%/năm) là 11,495%/năm, tương đương 0,96%/tháng. Như vậy việc
nguyên đơn yêu cầu tính mức lãi suất là 0,8%/tháng là thấp hơn mức bình quân, có
lợi hơn cho bị đơn nên có căn cứ chấp nhận.
Thời gian tính lãi là từ ngày 10/10/2022 đến ngày xét xử là 06/6/2024 là 19
tháng 27 ngày x số tiền tính lãi là 510.934.805 đồng x 0,8%/tháng = 81.340.280
đồng.
Như vậy yêu cầu tính lãi của nguyên đơn có căn cứ chấp nhận.
[4] Về ý kiến của bị đơn liên quan đến số tiền 100.000.000 đồng đã thanh
toán: Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của bị đơn có trình bày
về việc sẽ có Đơn yêu cầu nguyên đơn hoàn trả lại số tiền 100.000.000 đồng mà
Công ty HK- CN Bàu Bàng đã chuyển khoản vào ngày 11/01/2023. Tuy nhiên
cho đến tại phiên toà hôm nay phía bị đơn vẫn không đưa ra yêu cầu này do đó
Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Xét tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã đủ cơ sở để giải quyết vụ
án do đó, xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về việc tạm ngừng
phiên toà để thu thập thêm tài liệu chứng cứ là không cần thiết nên Hội đồng xét xử
không chấp nhận.
[6] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Bị đơn phải chịu án phí do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ các Điều 30, 35, 39, 91, 147, 271, 272 và 273 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 84, 357, 430, 440 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 24, Điều 50, điều 306 và Điều 319 Luật Thương mại;
10
- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH gỗ
Công nghiệp TT đối với bị đơn Công ty TNHH HK QT (Việt Nam) về việc tranh
chấp hợp đồng mua bán hàng hóa:
Buộc Công ty TNHH HK QT (Việt Nam) có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty
TNHH gỗ Công nghiệp TT số tiền là: 592.275.625 đồng (Năm trăm chín mươi hai
triệu, hai trăm bảy mươi lăm nghìn, sáu trăm hai mươi lăm đồng), trong đó:
- Tiền nợ gốc: 510.934.805 đồng;
- Tiền lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là 81.340.820 đồng.
Kể từ ngày Công ty TNHH gỗ Công nghiệp TT có đơn yêu cầu thi hành án
cho đến khi thi hành án xong, nếu Công ty TNHH HK QT (Việt Nam) chậm thi
hành án thì hàng tháng, Công ty TNHH HK QT (Việt Nam) còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357,
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời
gian chưa thi hành án.
2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty TNHH HK QT (Việt Nam) phải nộp 27.691.025 đồng (hai mươi bảy
triệu, sáu trăm chín mươi mốt nghìn, không trăm hai mươi lăm đồng) án phí sơ thẩm.
- Hoàn trả lại cho Công ty TNHH gỗ Công nghiệp TT số tiền tạm ứng án phí
đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số AA/2021/0012296 ngày
03/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát (nay là thành phố Bến
Cát), tỉnh Bình Dương là 13.342.753 đồng (mười ba triệu, ba trăm bốn mươi hai
nghìn, bảy trăm năm mươi ba đồng).
4. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo Bản án án trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo
Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được
niêm yết theo quy định.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án
11
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự./.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Lục Kim Thanh Nguyễn Kim Lý
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Tiến
Tải về
Bản án số 09/2024/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 09/2024/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Bản án số 08/2024/KDTM-PT ngày 22/10/2024 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 02/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm