Bản án số 97/2024/KDTM-PT ngày 29/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về đầu tư tài chính, ngân hàng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 97/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 97/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 97/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 97/2024/KDTM-PT ngày 29/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về đầu tư tài chính, ngân hàng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về đầu tư tài chính, ngân hàng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 97/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/11/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Sửa bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 97/2024/KDTM-PT
Ngày 29 tháng 11 năm 2024
“V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng;
hủy quyết định cá biệt”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Ngọc Tuấn.
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Đắc Minh.
Ông Dương Anh Văn.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên – Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Phạm Ba Duy – Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 60/2024/TLPT-
KDTM ngày 15 tháng 8 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, hủy
quyết định cá biệt”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 13/2024/KDTM-ST ngày
31/01/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3602/2024/QĐPT-
KDTM ngày 07 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V2; địa chỉ: F A, Phường I,
Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trọng Đ, Chuyên viên xử lý nợ
(theo Giấy ủy quyền ngày 04/6/2024 của Chủ tịch HĐQT – Ngân hàng TMCP
V2). (có mặt)
- Bị đơn: Công ty TNHH T3; địa chỉ: C L, Phường A, Quận C, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Thành viên của Công ty TNHH T3:
1/ Ông Trương Công H, sinh năm 1950; địa chỉ: C L, Phường A, Quận C,
Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
2/ Bà Lê Thị Kim T, sinh năm 1970; địa chỉ: E T, phường V (trước đây là
Phường F), Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ủy ban nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ: I T, Phường
G, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Minh L, Trưởng Phòng T4 (theo
Giấy ủy quyền ngày 11/7/2022). (vắng mặt)
2/ Ngân hàng N2; địa chỉ: D L, Quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Huỳnh Thị Diễm H1, sinh năm 1980; địa
chỉ: Tháp M Khu dân cư J, phường P, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy
ủy quyền số 8595/GUQ-NHNN ngày 18/10/2024 và số 719/GUQ-HCM ngày
21/10/2024). (có mặt)
3/ Ông Lê Nguyên H2, sinh năm 1991; địa chỉ: P V, G Đ, Phường B, quận
B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Nguyên H2:
+ Ông Danh Thanh H3, sinh năm 1990; địa chỉ: Ấp M, xã A, huyện U, tỉnh
Kiên Giang (Hợp đồng ủy quyền số 004265 ngày 22/6/2023). (có mặt)
+ Bà Trần Thị Hiểu V, sinh năm 1998; địa chỉ: Xóm A, thôn D, xã Đ, thành
phố B, tỉnh Lâm Đồng (Hợp đồng ủy quyền số 0243 ngày 16/01/2024). (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Lê Nguyên H2: Bà
Trương Thị H4, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Trương Thị H4, Đoàn Luật sư
Thành phố H. (có mặt)
4/ Bà Phan Thị Thu T1, sinh năm 1989. (vắng mặt)
5/ Bà Phan Thị Ánh N, sinh năm 1967. (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: 1 T, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
6/ Ông Trương Công H, sinh năm 1950. (vắng mặt)
7/ Bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1955. (vắng mặt)
8/ Ông Trương Công Kỳ V1, sinh năm 1982. (vắng mặt)
9/ Bà Trương Dạ T2, sinh năm 1982. (vắng mặt)
10/ Ông Trương Thanh H5, sinh năm 1985. (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: C L, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
11/ Công ty TNHH T5; địa chỉ: C L, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Lê Thị Ngọc Q; địa chỉ: 5 X, Phường B,
quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
Người kháng cáo: Ông Lê Nguyên H2, là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
3
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 22/01/1997, đơn khởi kiện bổ sung đề ngày
26/01/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn và người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 05/6/1996, Công ty TNHH T3 (gọi tắt là Công ty T3) đã ký khế ước
vay số C.96286 và phụ kiện vay vốn bổ sung ngày 22/6/1996 vay của Ngân
hàng TMCP V2 (gọi tắt là Ngân hàng V2) số tiền 1.100.000.000 đồng để kinh
doanh, thời hạn vay 06 tháng (từ ngày 05/6/1996 đến ngày 04/12/1996), lãi suất
vay 1,75%/tháng.
Để đảm bảo khoản vay trên, Công ty T3 đã thế chấp nhà đất số C L,
Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là nhà đất số C L) thuộc sở
hữu của ông Trương Công H và bà Nguyễn Thị O, công chứng thế chấp số 3730
ngày 09/12/1995. Sau khi vay, Công ty T3 trả lãi được 02 tháng rồi không trả
nữa.
Ngày 22/01/1997, Ngân hàng V2 khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên tài sản thế chấp của ông Trương Công
H và bà Nguyễn Thị O là nhà đất số C L; xử lý phát mại tài sản thế chấp để
Ngân hàng V2 thu hồi khoản nợ là 1.235.573.000 đồng.
Ngày 07/10/2010, ông H làm đơn cớ mất giấy tờ nhà đất số C L. Đến ngày
06/12/2010, ông H, bà O đã được Ủy ban nhân dâC (UBND) Quận C cấp lại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở số BD 152386, số
vào sổ cấp GCN: CH 03318/2010/GCN (gọi tắt là Giấy chứng nhận). Sau đó,
ông H, bà O đã chuyển nhượng nhà đất nêu trên cho bà Phan Thị Thu T1 và bà
T1 đã được cấp Giấy chứng nhận ngày 25/5/2011.
Ngày 26/01/2021, Nguyên đơn khởi kiện bổ sung, đề nghị hủy Giấy chứng
nhận ngày 06/12/2010 cấp cho ông Trương Công H và bà Nguyễn Thị O và hủy
Giấy chứng nhận ngày 25/5/2011 cấp cho bà Phan Thị Thu T1.
Do tài sản thế chấp của Công ty T3 có công chứng thế chấp theo quy định
và tài sản này Ngân hàng V2 đã tái thế chấp cho Ngân hàng N2, ông H và bà O
kê khai gian dối dẫn đến chuyển dịch tài sản qua nhiều người khác không có căn
cứ pháp luật. Vì vậy, Ngân hàng V2 yêu cầu: (i) Buộc Công ty T3 trả nợ gốc và
lãi tính đến ngày 31/01/2024 là 10.725.962.500 đồng (gốc là 1.100.000.000
đồng, lãi là 9.625.962.500 đồng). Trường hợp Công ty T3 không thực hiện nghĩa
vụ trả nợ ngay khi án có hiệu lực pháp luật thì yêu cầu kê biên, phát mãi tài sản
thế chấp là nhà đất số C L để Ngân hàng V2 thu hồi công nợ; (ii) hủy Giấy
chứng nhận ngày 06/12/2010 cấp cho ông Trương Công H và bà Nguyễn Thị O;
(iii) hủy Giấy chứng nhận ngày 25/5/2011 cấp cho bà Phan Thị Thu T1.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Nguyên H2 trình bày:
Ngày 28/3/2018, ông H2 đã ký Hợp đồng công chứng số 1952 để mua nhà
đất C L từ ông Nguyễn Đạt P và đã được cơ quan có thẩm quyền công nhận
quyền sở hữu đối với nhà đất nêu trên. Do đó, ông H2 không đồng ý dùng nhà
đất 315/9A Lê Văn S để đảm bảo khoản nợ của Công ty T3.
4
Ủy ban nhân dân Quận C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình
bày ý kiến tại Văn bản số 620/UBND-TNMT ngày 29/6/2022 như sau (tóm tắt):
Việc cấp Giấy chứng nhận nhà đất số C L cho ông Trương Công H, bà
Nguyễn Thị O được thực hiện trên cơ sở đương sự cung cấp các tài liệu như:
Bản chụp Giấy phép ủy quyền sở hữu mua bán, chuyển dịch nhà cửa số
1200/GP-UB ngày 14/8/1989 do C cấp (kèm bản vẽ nhà ủy quyền ngày
24/5/1989); Đơn cớ mất giấy chủ quyền nhà C L có xác nhận của Công an P2,
Quận C ngày 08/10/2010; Đơn Tường trình và cam kết nguồn gốc nhà của ông
H có xác nhận của C ngày 11/11/2010; Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận của
ông H có xác nhận của C ngày 11/11/2010.
Việc cấp Giấy chứng nhận nhà đất số C L cho bà Phan Thị Thu T1 được
thực hiện trên cơ sở hợp đồng mua bán nhà đất giữa ông H, bà O với bà T1 được
công chứng ngày 17/5/2011 và trước bạ ngày 25/5/2011.
Như vậy, việc cấp các Giấy chứng nhận trên hoàn toàn phù hợp nên đề
nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 13/2024/KDTM-ST ngày
31/01/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định (tóm
tắt):
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại
Cổ phần V2.
1. Buộc Công ty TNHH T3 trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V2
tổng số tiền tính đến hết ngày 31/01/2024 là 10.725.962.500 đồng, trong đó nợ
gốc là 1.100.000.000 (một tỷ một trăm triệu) đồng, nợ lãi trong hạn là
78.925.000 (bảy mươi tám triệu chín trăm hai mươi lăm ngàn) đồng và nợ lãi
quá hạn 9.547.037.500 (chín tỷ năm trăm bốn mươi bảy triệu không trăm ba
mươi bảy ngàn năm trăm) đồng. Trả một lần kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp
luật.
Kể từ ngày 01/02/2024, Công ty TNHH T3 còn phải tiếp tục thanh toán cho
Ngân hàng Thương mại Cổ phần V2 các khoản tiền lãi trên nợ gốc chưa thanh
toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Khế ước vay tiền cho đến
khi thanh toán xong nợ gốc.
Trường hợp Công ty TNHH T3 tất toán xong các khoản gốc và lãi trên thì
Ngân hàng Thương mại Cổ phần V2 có nghĩa vụ hoàn trả tất cả giấy tờ về tài
sản thế chấp cho ông Trương Công H và bà Nguyễn Thị O.
Trong trường hợp Công ty TNHH T3 không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nợ gốc và lãi thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần V2 được quyền
yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp sau
để thu hồi nợ: Căn nhà và đất (thuộc thửa đất số 05, tờ bản đồ số 05, Phường A,
diện tích đất 66,7m
2
tại số C L, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh)
thuộc quyền sở hữu của ông Trương Công H và bà Nguyễn Thị O theo Giấy
phép ủy quyền sở hữu mua bán, chuyển dịch nhà cửa số 1200/GP-UB ngày
5
14/8/1989 do Ủy ban nhân dân Quận C cấp cho Trần Thị N1 cho phép chuyển
nhượng cho ông Trương Công H và bà Nguyễn Thị O. Giấy cam kết thế chấp
nhà để vay vốn của Ngân hàng V2 ngày 09/12/1995 và Giấy cam kết thế chấp
nhà ngày 03/6/1996.
Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản thế chấp đã thực hiện
xong nghĩa vụ trả nợ của Công ty TNHH T3 mà vẫn còn dư thì bà O, ông H
được nhận số tiền dư này.
Trường hợp sau khi phát mại tài sản đảm bảo mà không đủ trả tiền gốc, tiền
lãi có liên quan thì Công ty TNHH T3 có trách nhiệm tiếp tục trả nợ cho Ngân
hàng Thương mại Cổ phần V2 cho đến khi trả xong.
2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số BD 152386, số vào sổ cấp GCN: CH 03318/2010/GCN
do Ủy ban nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 06/12/2010 cho
ông Trương Công H và bà Nguyễn Thị O.
3. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số BE 491900, số vào sổ cấp GCN: CH 01277/2011/GCN
do Ủy ban nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 25/5/2011 cho
bà Phan Thị Thu T1.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về quyền, nghĩa vụ thi hành
án, chi phí tố tụng khác, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 02/02/2024, ông Lê Nguyên H2 kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm,
nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, ông H2 rút lại một phần yêu cầu kháng cáo đối
với nội dung, buộc Công ty T3 trả khoản nợ vay và lãi cho Ngân hàng V2, giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo về nội dung, Ngân hàng V2 có quyền yêu cầu phát
mại tài sản thế chấp là nhà đất số C L.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông H2 phát biểu tranh luận,
ông H2 nhận chuyển nhượng nhà đất số C L vào ngày 28/3/2018 từ ông Nguyễn
Đạt P. Trước đó, ông P nhận chuyển nhượng nhà đất này từ ông Nguyễn Đăng
P1 (năm 2015), còn ông P1 nhận chuyển nhượng từ bà Phan Thị Thu T1 (năm
2014). Mặc dù tất cả các giao dịch này đều vô hiệu do giao dịch giữa ông H, bà
O với bà T1 bị vô hiệu, nhưng đều là những giao địch đã hoàn thành và ngay
tình. Điều 138 của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 không bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình trong trường hợp giao dịch vô hiệu (các
giao dịch giữa bà T1 với ông P1, giữa ông P1 với ông P), nhưng khoản 2 Điều
133 của BLDS năm 2015 lại bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba
ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu trong trường hợp chuyển nhượng giữa
ông P với ông H2 vào ngày 28/3/2018. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của ông H2, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng, không
chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn đối với việc xử lý tài sản thế chấp là nhà đất
số C L.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu ý kiến:
6
Về tố tụng: Từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án cho đến khi xét xử,
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã thực hiện
đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ
trong hồ sơ vụ án, xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn đối với
Bị đơn là có căn cứ pháp luật. Ông Lê Nguyên H2 là người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan kháng cáo nhưng không có tình tiết mới có thể làm thay đổi bản
chất vụ án nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của ông Lê Nguyên H2 làm trong hạn luật định, đủ điều
kiện để thụ lý giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Ông H2 rút một phần yêu cầu kháng cáo tại phiên tòa, phù hợp với quy
định tại khoản 2 Điều 284 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên chấp nhận và đình chỉ
xét xử phúc thẩm đối với nội dung rút kháng cáo.
[2] Về tư cách tham gia tố tụng: Theo quy định tại mục b khoản 2 Phần III
Thông tư liên bộ số 16/TT-LB ngày 25/10/1996 của liên bộ Thương mại – Tài
chính – Kế hoạch và Đầu tư – Tư pháp – Tổng cục Thống kê, hướng dẫn thi
hành Chỉ thị số 657-TTg ngày 13/9/1996 của Thủ tướng Chính phủ (về tăng
cường quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ
ngoài quốc doanh), thì Công ty T3 thuộc diện phải đăng ký kinh doanh lại,
nhưng Công ty không thực hiện nên trường hợp này phải bị thu hồi giấy phép
kinh doanh, nhưng cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thu hồi nên về danh
nghĩa, Công ty T3 vẫn tồn tại. Mặt khác, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều
74 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn
không còn tồn tại thì thành viên của công ty là người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng nên Tòa án cấp sơ thẩm đưa ông Trương Công H và bà Lê Thị Kim T là
thành viên Công ty T3 vào tham gia tố tụng trong vụ án là phù hợp.
[3] Xét kháng cáo của ông H2, thấy rằng: Ngày 05/6/1996, Công ty T3 vay
của Ngân hàng V2 800.000.000 đồng, đến ngày 22/6/1996 vay thêm
300.000.000 đồng, tổng cộng là 1.100.000.000 đồng; thời hạn vay 06 tháng (từ
ngày 05/6/1996 đến ngày 04/12/1996); lãi suất 1,75%/tháng. Để đảm bảo cho
khoản vay 800.000.000 đồng, Công ty T3 đã thế chấp nhà đất số C L cho Ngân
hàng V2 tại “Giấy cam kết thế chấp nhà để vay vốn của Ngân hàng V2” ngày
09/12/1995 (công chứng cùng ngày) và “Giấy cam kết thế chấp nhà” ngày
03/6/1996 (công chứng ngày 04/6/1996). Đối với khoản vay thêm 300.000.000
đồng, hai bên không thỏa thuận về biện pháp bảo đảm.
[4] Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T3 trả được 02 tháng lãi rồi
ngưng nên bị Ngân hàng V2 khởi kiện vào ngày 22/01/1997, yêu cầu Tòa án giải
quyết áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên tài sản thế chấp của ông
7
Trương Công H và bà Nguyễn Thị O là nhà đất số C L; phát mại tài sản thế chấp
để Ngân hàng thu hồi khoản nợ là 1.235.573.000 đồng.
[5] Ngày 31/01/1997, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ
án tranh chấp giữa Ngân hàng V2 với Công ty T3, nhưng đã ra Quyết định Tạm
đình chỉ việc giải quyết vụ án kinh tế số 12/TĐC-KT ngày 03/3/1997 với lý do,
“ông Trương Công H – Giám đốc và bà Nguyễn Thị O – Phó Giám đốc Công ty
T3 đã bỏ trốn khỏi nơi cư ngụ”.
[6] Ngày 07/10/2010, ông H làm đơn cớ mất giấy tờ nhà đất số C L gửi
Công an P2, Quận C. Ngày 06/12/2010, ông H, bà O đã được C cấp lại Giấy
chứng nhận đối với nhà đất trên, sau đó chuyển nhượng cho bà Phan Thị Thu
T1. Bà T1 đã được C cấp Giấy chứng nhận ngày 25/5/2011, xây dựng nhà mới
để ở (theo Giấy phép xây dựng số 698/GPXD ngày 18/7/2011 của C). Đến ngày
17/6/2014, Ngân hàng V2 phát hiện có sự việc làm giấy tờ nhà mới và chuyển
nhượng nhà đất số C giữa ông H, bà O với bà T1 như đã nêu trên nên mời bà T1
đến Ngân hàng giải quyết, nhưng hai bên không thỏa thuận được.
[7] Ngày 27/11/2014, bà T1 chuyển nhượng nhà đất số C L cho ông
Nguyễn Đăng P1, sau đó, ông P1 chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Đạt P
ngày 20/10/2015, rồi ông P chuyển nhượng cho ông Lê Nguyên H2 ngày
28/3/2018. Các trường hợp chuyển nhượng nhà đất nêu trên đều đã hoàn thành
và đúng quy định của pháp luật, bên nhận chuyển nhượng đều được sang tên
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất; ông H2 là người nhận chuyển nhượng
sau cùng và hiện đang quản lý, sử dụng nhà đất số C L.
[8] Ngày 26/01/2021, Nguyên đơn có đơn khởi kiện bổ sung, đề nghị hủy
Giấy chứng nhận ngày 06/12/2010 cấp cho ông H, bà O và hủy Giấy chứng
nhận ngày 25/5/2011 cấp cho bà T1 đối với nhà đất số C L.
[9] Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử buộc Công ty T3 trả cho Ngân
hàng V2 10.725.962.500 (cả gốc và lãi tính đến ngày 31/01/2024). Nội dung này
không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.
[10] Xét hành vi làm đơn cớ mất giấy tờ nhà để được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp lại giấy tờ mới, rồi thực hiện việc chuyển nhượng nhà đất cho
người khác của vợ chồng ông H, bà O có dấu hiệu tội phạm nên trong quá trình
giải quyết vụ án, theo yêu cầu của Ngân hàng V2, Tòa án cấp sơ thẩm đã làm
văn bản (số 4382/TATP-TKT ngày 22/10/2021) và chuyển tài liệu cho cơ quan
Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố H xử lý theo thẩm quyền, nhưng cơ quan
này không khởi tố vụ án hình sự và đến ngày 13/02/2023 đã ban hành Thông
báo số 3104/TP-PC02-Đ8 về việc tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin báo tội
phạm, sau đó cũng không phúc đáp công văn của Tòa án về việc có hay không
khởi tố vụ án hình sự, do đó, Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng
dân sự và pháp luật được áp dụng là các quy phạm pháp luật dân sự.
[11] Theo nhận định tại đoạn [6] thì Ngân hàng V2 phát hiện sự việc vợ
chồng ông H, bà O làm giấy tờ nhà đất mới để chuyển nhượng nhà đất số C L
cho bà T1 vào thời điểm ngày 17/6/2014, nhưng không thực hiện việc khiếu nại
8
đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận là C và cũng
không khởi kiện bổ sung, đồng thời yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, dẫn đến các cơ quan này không có biện pháp ngăn chặn bà T1 thực
hiện việc chuyển nhượng nhà đất nêu trên cho ông P1, cũng như các giao dịch
tiếp theo đối với nhà đất này.
[12] Như vậy, các giao dịch đối với nhà đất số C L chỉ không ngay tình đối
với các giao dịch giữa ông H, bà O với bà T1 và giữa bà T1 với ông P1 (do bà
T1 biết nhà đất là đối tượng thế chấp của ông H, bà O với Ngân hàng V2), còn
các giao dịch giữa ông P1 với ông P và giữa ông P với ông H2 đều ngay tình và
không có tranh chấp. Tuy nhiên, do giao dịch giữa ông P1 với ông P được xác
lập vào ngày 20/10/2015, pháp luật áp dụng là Bộ luật Dân sự (BLDS) năm
2005 không bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong trường hợp này
nên bị vô hiệu (khoản 2 Điều 138). Còn giao dịch giữa ông P với ông H2 được
xác lập ngày 28/3/2018, pháp luật áp dụng là BLDS năm 2015. Khoản 2 Điều
133 của BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu
nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó
được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình
và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì
giao dịch đó không bị vô hiệu…”. Do đó, trường hợp của ông H2 được pháp luật
bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình.
[13] Tòa án cấp sơ thẩm viện dẫn các quy định tại khoản 8 Điều 320 của
BLDS năm 2015 (Không được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản thế
chấp,…) và điểm b khoản 1 Điều 118 của Luật Nhà ở năm 2014 ([Nhà ở] không
thuộc diện đang có tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về quyền sở hữu; đang
trong thời hạn sở hữu nhà ở đối với trường hợp sở hữu nhà ở có thời hạn) để áp
dụng trong trường hợp chuyển nhượng nhà đất giữa ông P với ông H2 là không
đúng với quy định tại khoản 2 Điều 133 của BLDS năm 2015 đã viện dẫn trên.
[14] Quyền sở hữu của ông H2 đối với nhà đất số C L được pháp luật bảo
vệ nên yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V2 về việc kê biên, phát mại tài sản đối
với nhà đất này trong trường hợp Công ty T3 không trả được khoản nợ vay là
không có cơ sở để chấp nhận.
[15] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn có sai sót trong việc xác định khoản
vay có bảo đảm. Theo Giấy cam kết thế chấp nhà để vay vốn của Ngân hàng V2
ngày 09/12/1995 và Giấy cam kết thế chấp nhà ngày 03/6/1996, thì nhà đất số C
Lê Văn S chỉ bảo đảm cho khoản vay 800.000.000 đồng, nhưng Tòa án cấp sơ
thẩm xác định tài sản này bảo đảm cho khoản vay 1.100.000.000 đồng là không
đúng, từ đó xác định nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản không đúng. Tuy nhiên,
sai sót này làm không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thế
chấp tài sản vì tài sản thế chấp đã chuyển quyền sử dụng cho người khác.
[16] Đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng V2, mặc
dù Ngân hàng không khiếu nại việc C cấp Giấy chứng nhận nhà đất số C L cho
ông H, bà O, nhưng khi thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận này, C đã có
thiếu sót trong việc kiểm tra, xác minh thông tin về nhà đất nêu trên, dẫn đến
9
cấp Giấy chứng nhận cho ông H, bà O không đúng pháp luật. Thiệt hại của
Ngân hàng V2 (nếu có) là hệ quả do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền gây ra
nên trường hợp Ngân hàng V2 có yêu cầu khởi kiện sẽ được giải quyết theo quy
định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
[17] Với nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sửa một phần Bản
án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
Nguyên đơn đối với nội dung yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền
phát mại tài sản thế chấp là nhà đất số C L để thu hồi nợ.
[18] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị giữ
nguyên Bản án sơ thẩm, nhưng chỉ có một phần phù hợp với nhận định trên
(phần giải quyết về khoản nợ vay giữa Ngân hàng V2 với Công ty T3) nên chấp nhận
một phần.
[19] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[20] Về án phí phúc thẩm: Do sửa Bản án sơ thẩm nên người kháng cáo
không phải chịu án phúc phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 và khoản 2 Điều 284 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Lê Nguyên
H2 về nội dung, buộc Công ty TNHH T3 thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay và khoản
lãi cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V2.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Lê Nguyên H2. Sửa Bản
án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 13/2024/KDTM-ST ngày 31/01/2024 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Áp dụng Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 127, Điều 131, Điều 133 của
Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng
Thương mại Cổ phần V2.
Buộc Công ty TNHH T3 trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V2 tổng
số tiền tính đến hết ngày 31/01/2024 là 10.725.962.500 (mười tỷ bảy trăm hai
mươi lăm triệu chín trăm sáu mươi hai ngàn năm trăm) đồng, trong đó nợ gốc là
1.100.000.000 (một tỷ một trăm triệu) đồng, nợ lãi trong hạn là 78.925.000 (bảy
mươi tám triệu chín trăm hai mươi lăm ngàn) đồng và nợ lãi quá hạn
9.547.037.500 (chín tỷ năm trăm bốn mươi bảy triệu không trăm ba mươi bảy
ngàn năm trăm) đồng.
Kể từ ngày 01/02/2024, Công ty TNHH T3 còn phải tiếp tục thanh toán cho
Ngân hàng Thương mại Cổ phần V2 các khoản tiền lãi trên nợ gốc chưa thanh
10
toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Khế ước vay tiền cho đến
khi thanh toán xong nợ gốc.
2. Không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về việc hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE
491900, số vào sổ cấp GCN: CH 01277/2011/GCN do Ủy ban nhân dân Quận
C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 25/5/2011 cho bà Phan Thị Thu T1, cập
nhật sang tên cho ông Lê Nguyên H2; phát mại tài sản thế chấp là nhà đất số C
L, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh để thu hồi nợ.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Án phí phúc thẩm: Ông Lê Nguyên H2 không phải chịu án phí phúc
thẩm. H6 lại cho ông H2 2.000.000 (hai triệu) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo
Biên lai số 0031910 ngày 06/02/2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố
Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại TP. HCM;
- Tòa án nhân dân TP. HCM;
- VKSND TP. HCM;
- Cục THADS TP. HCM;
- Các đương sự;
- Lưu VP, lưu hồ sơ, NTK.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Ngọc Tuấn
Tải về
Bản án số 97/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 97/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 01/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 08/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 03/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm