Bản án số 85/2024/KDTM-PT ngày 02/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về mua bán hàng hóa
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 85/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 85/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 85/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 85/2024/KDTM-PT ngày 02/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về mua bán hàng hóa |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về mua bán hàng hóa |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 85/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/10/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC; chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn Tập đoàn ĐL Việt Nam và chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 85/2024/KDTM-PT
Ngày 02 – 10 – 2024
V/v Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
yêu cầu phạt vi phạm và bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Đình Thanh
Các thẩm phán: Ông Phạm Văn Công
Ông Nguyễn Văn Minh
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hồng Nhung – Thư ký Toà án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh tham gia phiên toà: Ông Nguyễn Văn Đức – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 15 tháng 8, ngày 10, 16 tháng 9 và ngày 02 tháng 10
năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử
phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại phúc thẩm thụ lý số:
36/2024/TLPT-KDTM ngày 02 tháng 5 năm 2024 về vụ án “Tranh chấp hợp
đồng mua bán hàng hóa, yêu cầu phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 01/2024/KDTM-ST ngày
04 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng
cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2972/2024/QĐ-PT
ngày 16 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC (DIC); địa
chỉ: Số 82 THL, Phường 15, quận PN, Thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức H –
Tổng Giám đốc DIC, (có mặt);
2
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (theo các Giấy ủy quyền
ngày 23/4/2019 và ngày 26/10/2020):
1- Ông Hồ Hoàng H1, sinh năm 1978, (có mặt);
2- Ông Lưu Trường H2, sinh năm 1974, (có mặt ngày 15/8/2024, có mặt
ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
3- Ông Hoàng Văn Th, sinh năm 1976, (có mặt);
4- Ông Nguyễn Anh K, sinh năm 1977, (có mặt);
Cùng địa: Số 82 THL, Phường 15, quận PN, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Tập đoàn ĐL Việt Nam (EVN); địa chỉ: Số 11, CB, quận BĐ,
thành phố Hà Nội;
Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông Nguyễn Anh T – Tổng
Giám đốc EVN, (có mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (theo Giấy ủy quyền số:
3801/UQ-EVN ngày 08/7/2024);
1- Ông Võ Minh Th1, sinh năm 1977, (có mặt);
2- Bà Lý Trần Phương Th2, sinh năm 1982, (có mặt ngày 15/8/2024, có
mặt ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
3- Ông Nguyễn Mạnh L, sinh năm 1993, (có mặt ngày 15/8/2024, có mặt
ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
Ông Th1, bà Th2 và ông L cùng địa chỉ: Số 11, CB, quận BĐ, thành phố
Hà Nội.
4- Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) PLTM Việt Nam
(Lexcomm); địa chỉ: Tầng M, Tòa nhà HH Center, Số 25 LTK, phường PCT,
quận HK, thành phố Hà Nội;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Việt H3 – Giám đốc
Lexcomm, (có mặt ngày 15/8/2024, có mặt ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày
16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
Người đại diện theo ủy quyền của Lexcomm (theo Giấy ủy quyền ngày
09/7/2024):
4.1- Ông Nguyễn Thăng T1, sinh năm 2000, (có mặt ngày 15/8/2024, có
mặt ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
4.2- Ông Nguyễn Anh H4, sinh năm 1999, (có mặt ngày 15/8/2024, có
mặt ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
3
Ông T1 và ông Anh H4 cùng địa chỉ: Tầng M, Tòa nhà HH Center, Số
25 LTK, phường PCT, quận HK, thành phố Hà Nội.
4.3- Ông Nguyễn Huy H5, sinh năm 1999; địa chỉ: Phòng 2106-07, Tầng
21, Tòa nhà ST Center, Số 37 TĐT, phường BN, Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh, (vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:
1- Ông Nguyễn Việt H3 – Luật sư làm việc tại Lexcomm, thuộc Đoàn
Luật sư thành phố Hà Nội, (có mặt ngày 15/8/2024, có mặt ngày 10/9/2024,
vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
2- Ông Nguyễn Hoàng Đ – Luật sư làm việc tại Lexcomm, thuộc Đoàn
Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt ngày 15/8/2024, có mặt ngày
10/9/2024, vắng mặt các ngày 16/9 và 02/10/2024);
3- Ông Vũ Xuân N – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí
Minh, (có mặt ngày 15/8/2024, vắng mặt các ngày 10, 16/9 và 02/10/2024);
4- Ông Phạm Anh V - Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí
Minh, (có mặt);
Ông N và ông V cùng làm việc tại Công ty Luật TNHH HK; địa chỉ: Số
48 HNP, phường LH, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty PT.S.G.E. (SGE); địa chỉ: Tầng 10, Tòa nhà P., Tp. S., JI.
Asia, Lô 9, J.S 10270, Indonesia.
Người đại diện theo pháp luật của SGE: Ông Welly T.mas – Giám đốc
SGE, (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền (theo Giấy ủy quyền ngày 25/12/2018):
Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC.
Người đại diện theo pháp luật của DIC: Ông Nguyễn Đức H – Tổng
Giám đốc DIC; địa chỉ: Số 82 THL, Phường 15, quận PN, Thành phố Hồ Chí
Minh, (có mặt).
2. Công ty Cổ phần VL Hà Nội (VLHN); địa chỉ: Số 587 HHT, quận
BĐ, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật của VLHN: Ông Nguyễn Đức C – Giám
đốc VLHN (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của VLHN (theo Giấy ủy quyền ngày
25/12/2018): Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC.
4
Người đại diện theo pháp luật của DIC: Ông Nguyễn Đức H – Tổng
Giám đốc DIC; địa chỉ: Số 82 THL, Phường 15, quận PN, Thành phố Hồ Chí
Minh, (có mặt).
3. Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BIDV); địa chỉ: 194 TQK, quận HK, thành phố Hà Nội;
Người đại diện theo pháp luật của BIDV: Ông Phan Đức T2 – Chủ tịch
Hội đồng quản trị, (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của BIDV (theo Quyết định ủy quyền tham
gia tố tụng số 963/QĐ-BIDV ngày 25/10/2021 và Giấy ủy quyền ngày
19/7/2022):
+ Bà Đinh Thị Thu Ng, sinh năm 1981, (có mặt);
+ Bà Lê Minh H6, sinh năm 1985, (có mặt);
Bà Nga và bà Huệ cùng địa chỉ: Số 134 NCT, phường NTB, Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo:
+ Nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC;
+ Bị đơn Tập đoàn ĐL Việt Nam;
- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo Đơn khởi kiện ngày 15/8/2019, các Đơn khởi kiện bổ sung ngày
25/8/2020, ngày 26/12/2022 và các lời khai trong quá trình tham gia giải quyết
vụ án, nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC thông qua
người đại diện hợp pháp trình bày:
Liên danh Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC + PT.S.G.E. +
Công ty Cổ phần VL Hà Nội, đại diện là Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương
mại DIC (gọi tắt là DIC) và Tập đoàn ĐL Việt Nam, đại diện là Ban Quản lý
nhiệt điện VT – Chi nhánh Công ty TNHH Một thành viên – Tổng Công ty Phát
điện 3 (gọi tắt là EVN) đã ký hợp đồng cung cấp than phục vụ chạy thử, nghiệm
thu Nhà máy nhiệt điện VT 4, Hợp đồng giữa hai bên bao gồm:
1. Hợp đồng số 04/2017/HĐMB ký ngày 28/3/2017 giữa DIC và EVN
(gọi tắt là Hợp đồng số 04) với các nội dung cơ bản sau đây:
5
Khối lượng than DIC sẽ cung cấp cho EVN tại Cảng VT 4 – BT là
922.450 tấn; trong đó đợt 1 Than Sub-Bitum là 645.715 tấn, đợt 2 Than Bitum là
276.735 tấn; tổng giá trị hợp đồng là 1.084.672.057.000 đồng (đ).
Thời gian thực hiện hợp đồng 16 tháng kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực
và tùy thuộc vào tiến độ chạy thử, nghiệm thu Nhà máy nhiệt điện VT 4.
Khối lượng cụ thể và thời gian giao hàng cho từng chuyến hàng sẽ được
bên mua thông báo trước ngày 20 hàng tháng bằng văn bản để bên bán có sự
chuẩn bị kế hoạch nhận hàng phù hợp. Riêng chuyến hàng cho đợt 2 – Than
Bitum, bên mua sẽ thông báo trước thời gian yêu cầu giao hàng là 30 ngày.
Việc thanh toán chia thành 2 đợt: Đợt 1, bên mua sẽ thanh toán 90% giá
trị Hoá đơn cho bên bán trong vòng 15 ngày làm việc sau khi nhận được bộ hồ
sơ thanh toán hợp lệ từ bên bán. Đợt 2, bên mua sẽ thanh toán cho đủ 100% giá
trị thanh toán cuối cùng của mỗi chuyến hàng trong vòng 15 ngày làm việc sau
khi nhận được bộ hồ sơ thanh toán hợp lệ từ bên bán. Tiền thanh toán là Việt
Nam đồng theo tỷ giá bán USD tại thời điểm phát hành hoá đơn thanh toán của
Ngân hàng bên mua mở tài khoản.
2. Hợp đồng sửa đổi bổ sung ký ngày 01/02/2018, thay đổi một số nội
dung của Hợp đồng 04, trong đó liên quan đến giá hợp đồng, điều khoản thanh
toán, thuế, phạt vi phạm đối với than không đạt tiêu chuẩn, điều kiện dỡ hàng,
phạt vi phạm hợp đồng.
3. Phụ lục Hợp đồng ký ngày 26/3/2018 về việc thay đổi một số nội dung
của Bộ chứng từ thanh toán lần 1.
Quá trình thực hiện hợp đồng, dù gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại nhưng
DIC đã cố gắng thực hiện nghiêm túc, đúng tiến độ hợp đồng, đảm bảo việc
chạy thử Nhà máy nhiệt điện VT 4 vượt kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, việc thanh
toán tiền của EVN cho DIC chậm trễ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh
của DIC. Bên cạnh đó, EVN đã không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng
về độ sâu luồng (sau đây gọi tắt là mớn nước) Cảng VT 4 và chậm trễ trong vấn
đề dỡ hàng, nên đã gây thiệt hại rất lớn về kinh tế cho DIC. Do thương thảo
nhiều lần không được nên DIC (sau đây gọi tắt là nguyên đơn) khởi kiện EVN
(sau đây gọi tắt là bị đơn) với các yêu cầu sau:
Tại Đơn khởi kiện ngày 15/8/2019, nguyên đơn yêu cầu EVN phải trả
tiền hàng còn nợ: 54.303.665.456đ + tiền phạt dôi ngày tàu (dôi nhật):
35.500.627.376đ + tiền phạt do vi phạm mớn nước: 118.365.317.002đ. Sau đó
thống nhất với bị đơn số tiền hàng còn nợ chỉ là 48.303.665.456đ nên tổng số
tiền yêu cầu là 202.169.609.834đ.
6
Ngày 25/8/2020, nguyên đơn bổ sung yêu cầu đòi tiền lãi chậm thanh
toán là 31.859.161.664đ và phạt vi phạm 8% nghĩa vụ thanh toán
37.291.271.213đ. Tổng số tiền yêu cầu là 271.320.042.709đ.
Ngày 26/12/2022, nguyên đơn bổ sung yêu cầu đòi tiền phạt chất lượng
than vượt quá 8% phần bị vi phạm là 14.510.444.880đ. Tổng số tiền yêu cầu là
285.830.487.589đ.
Ngày 28/11/2023, nguyên đơn thay đổi, rút một phần yêu cầu đối với
tiền phạt vi phạm 8% nghĩa vụ thanh toán, giảm xuống còn yêu cầu
26.080.656.308đ và tiền lãi chậm thanh toán giảm còn 22.143.740.267đ. Tổng
số tiền yêu cầu là 265.247.208.799đ.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu về tiền phạt vi
phạm 8% nghĩa vụ thanh toán, giảm còn 17.682.530.054đ. Tổng số tiền yêu cầu
là 256.849.082.547đ.
Căn cứ để DIC khởi kiện cụ thể như sau:
+ Đối với số tiền hàng 48.303.665.456đ còn nợ: DIC đã cung cấp cho
EVN tổng khối lượng than của 37 chuyến hàng thực tế là 925.925,6 tấn nhưng
khối lượng sau khi trừ độ ẩm và được EVN nghiệm thu là 924.914,73 tấn, thành
tiền là 1.201.690.550.410đ (đã trừ giá trị EVN cho rằng DIC vi phạm chất
lượng than). EVN đã thanh toán 1.153.386.884.954đ, nên số tiền chưa thanh
toán là 48.303.665.456đ. EVN cũng đã thống nhất khoản tiền này tại Biên bản
làm việc ngày 19/5/2020 và các Biên bản công khai chứng cứ tại Tòa án nhân
dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
+ Đối với yêu cầu tiền phạt dôi nhật 35.500.627.376đ: Tiền phạt dôi nhật
là khoản tiền phạt chậm dỡ hàng. EVN cũng đã thống nhất khoản tiền này tại
Biên bản họp giữa 2 bên ngày 18/12/2018, Biên bản làm việc ngày 19/5/2020 tại
Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và các Biên bản công khai chứng cứ.
+ Đối với yêu cầu tiền phạt do vi phạm độ sâu luồng 118.365.317.002đ:
Theo Phụ lục 09 về Điều kiện dỡ hàng của Hợp đồng số 04; Phần 5 của
Hồ sơ mời thầu theo Quyết định số 1274/QĐ-EVN ngày 10/12/2016 thì EVN đã
cam kết độ sâu luồng từng thời điểm: Từ tháng 3-2017: -7,9m; từ tháng 6-2017:
-11,7m; từ tháng 10-2017: -13,5m; từ tháng 3-2018: -15,7m.
Căn cứ vào độ sâu luồng như trên, DIC đã chào thầu giá cước vận
chuyển cố định từ thời điểm đóng thầu vào tháng 02-2017 nhưng đến khi tiến
hành giao hàng thì độ sâu luồng không đảm bảo nên DIC không thể thuê tàu lớn
chở hàng vào cảng mà phải thuê tàu nhỏ, tàu đúng tải trọng phù hợp với độ sâu
luồng thực tế để vào cảng dẫn đến giá thuê tàu bị cao hơn. Mặt khác, khi thuê
7
tàu nhỏ thì phải chịu phát sinh tiền cước tàu tăng thêm; tàu nhỏ thì không có
gầu, ngoạm nên phải thuê thêm gầu, ngoạm để xếp dỡ hàng và còn chịu tiền
hàng tăng thêm vì chi phí trên một đầu tấn than tăng lên.
Khi độ sâu luồng không đảm bảo thì trước khi giao hàng DIC đã làm
việc với bị đơn và bị đơn cam kết đẩy nhanh công tác nạo vét luồng để phấn đấu
đạt được độ sâu của luồng theo dự kiến được thể hiện tại Biên bản làm việc ngày
17/5/2017. Tuy nhiên, theo các Thông báo hàng hải có hiệu lực trong suốt thời
gian thực hiện hợp đồng thì độ sâu luồng thực tế của cảng vẫn luôn không đảm
bảo như quy định của hợp đồng.
DIC đã nộp các hợp đồng thuê tàu, vận đơn thanh toán cước tàu, chứng
từ thanh toán tiền hàng cho Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tuy
nhiên, việc thuê gầu ngoạm do đơn vị cung cấp than tại nước ngoài đứng ra thuê
gầu ngoạm thay cho DIC nên việc thanh toán tiền hàng và tiền thuê gầu ngoạm
là thanh toán chung, không tách ra thanh toán riêng.
Thực tế chi phí chênh lệch giữa giá cước tàu chào thầu của EVN và giá
cước DIC thực trả chủ tàu là 80.959.941.175đ; chi phí thuê gầu ngoạm (xúc) tại
cảng xếp là 31.597.211.475đ; chi phí giá than tăng thêm do thuê cỡ tàu nhỏ là
42.129.615.301đ. Tổng chi phí DIC bị thiệt hại khi độ sâu luồng không đảm bảo
là 154.686.767.950đ, nhưng để thể hiện thiện chí hợp tác lâu dài với EVN nên
DIC chỉ yêu cầu EVN thanh toán tiền tăng thêm do độ sâu của luồng không đảm
bảo là 118.365.317.002đ.
+ Đối với yêu cầu phạt EVN 8% giá trị vi phạm về thời hạn thanh toán.
Căn cứ Mục 3 Phụ lục 4, Mục 3 Phụ lục 11 của Hợp đồng số 04 quy
định bên mua sẽ thanh toán 90% giá trị hóa đơn cho bên bán trong vòng 15 ngày
làm việc sau khi nhận được bộ hồ sơ thanh toán hợp lệ từ bên bán gồm các
chứng từ theo quy định tại Hợp đồng số 04. Căn cứ Hợp đồng số 04 thì DIC
xuất hóa đơn Thuế giá trị gia tăng (GTGT) không bao gồm thuế, tuy nhiên trong
quá trình thực hiện hợp đồng thì EVN yêu cầu DIC xuất lại hóa đơn Thuế
GTGT 10% thì mới làm thủ tục thanh toán.
Thực tế thì DIC đã xuất hóa đơn không bao gồm thuế cho 02 chuyến đầu
là tàu Neptune Star, Genco Challenger. Sau đó, căn cứ Công văn số 7646/CT-
TTHT ngày 10/8/2018 của Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh thì DIC đã xuất
hóa đơn với thuế suất 0% cho 30 chuyến hàng (từ chuyến 03 đến chuyến 32)
nhưng EVN vẫn không chấp nhận và yêu cầu DIC xuất lại hóa đơn Thuế GTGT
10%. Sau đó, DIC đã xuất lại hóa đơn Thuế GTGT 10% theo yêu cầu của EVN.
Do đó, bộ hồ sơ thanh toán đầy đủ DIC đã gửi cho EVN từ khi xuất hóa
đơn lần đầu tiên, việc EVN yêu cầu DIC xuất lại hóa đơn và căn cứ vào ngày
8
xuất hóa đơn lại để tính thời hạn thanh toán là không hợp lý. Thực tế thì EVN
cũng có Văn bản số 1728/QNĐVT-KTKH-TCKT ngày 13/9/2017 xác nhận
ngày nhận đủ hồ sơ thanh toán của một số chuyến và tạm ứng tiền hàng của một
số chuyến đó cho DIC.
Theo Mục 3 Phụ lục 11 Hợp đồng số 04 quy định tỷ lệ chậm thanh toán
tương ứng với lãi suất huy động vốn ngắn hạn của Ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam (VCB). Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đề
nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng lãi suất theo quy định của Điều 306 Luật
Thương mại, nguyên đơn yêu cầu mức lãi suất là 9,25%/năm, thấp hơn lãi thực
của Ngân hàng.
+ Đối với yêu cầu phản tố của EVN về việc phạt 8% giá trị chuyến hàng
của than không đạt chuẩn:
Căn cứ Mục 2 Phụ lục 3 Hợp đồng số 04 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung
ngày 01/02/2018 thì: “Trong trường hợp than không phù hợp, bên mua có quyền
phạt bên bán 8% giá trị chuyến hàng theo giá trị hóa đơn phát hành cho lần
thanh toán Đợt 1 của lô hàng tương ứng vì than không đạt chuẩn và lựa chọn
các giải pháp sau:
a. Từ chối nhận hàng, trả lại cho Bên bán và tất cả các chi phí phát sinh
liên quan đến việc trả lại hàng sẽ do Bên bán chịu
b. Hoặc chấp nhận lô hàng và thanh toán giá hóa đơn chiết khấu...”
Tổng số chuyến than không đạt chuẩn là 26 chuyến mà EVN đã phạt
DIC với tổng số tiền là 84.803.868.229đ và hiện nay EVN có yêu cầu phản tố
phạt 8% theo thỏa thuận tại Hợp đồng số 04 với số tiền là 70.293.423.349đ là
không có căn cứ vì EVN không thể vừa khấu trừ số tiền than không đạt chuẩn,
vừa phạt 8% giá trị chuyến hàng của than không đạt chuẩn, việc phạt này là trái
với quy định tại Điều 301 Luật Thương mại 2005 là không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Như vậy, EVN đã phạt vi phạm chất lượng vượt
quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm; do đó, DIC không đồng ý
với yêu cầu này và đề nghị EVN phải trả lại số tiền mà EVN đã phạt vượt là
14.510.444.880đ.
Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của DIC thì đề nghị
Tòa án tuyên toàn bộ số tiền EVN phải thanh toán cho DIC chuyển về số tài
khoản 31010002388002 của Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thành phố Hồ
Chí Minh.
9
- Bị đơn Tập đoàn ĐL Việt Nam (EVN) thông qua người đại diện hợp
pháp trình bày:
EVN thống nhất với trình bày của DIC về việc ký kết Hợp đồng số 04,
Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 01/02/2018 và Phụ lục Hợp đồng ký ngày
26/3/2018.
+ Đối với các nội dung khởi kiện của nguyên đơn DIC, EVN có ý kiến
và có yêu cầu phản tố như sau:
Tại Mục 1 Phụ lục 1, Mục 2 Phụ lục 3, Mục C.2 Phụ lục 5 của Hợp đồng
số 04 và Mục 8 Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 01/02/2018 thì trường hợp than
không đạt tiêu chuẩn, bên mua có quyền phạt bên bán 8% giá trị chuyến hàng
theo giá trị hóa đơn phát hành cho lần thanh toán Đợt 1 của lô hàng tương ứng
với than không đạt tiêu chuẩn.
Qua tổng hợp thực tế theo chứng thư giám định tại Cảng dỡ VT, có 26
chuyến hàng vi phạm tiêu chuẩn chất lượng là các chuyến hàng số 1, 3, 4, 5, 6,
7, 8, 9, 12, 14, 16, 18, 19, 20, 21, 23, 24, 26, 28, 29, 30, 31, 32, 34, 35, 37.
Trong quá trình thanh toán, EVN đã cân đối, thông báo cho DIC và giữ lại số
tiền 70.293.423.349đ để đảm bảo đủ tỷ lệ phạt 8% theo quy định hợp đồng.
Ngày 20/8/2019, EVN đã tổ chức họp với đại diện DIC đề nghị DIC tuân
thủ các quy định của hợp đồng về tỷ lệ phạt vi phạm chất lượng do than không
đúng tiêu chuẩn. Tuy nhiên, DIC không chấp nhận áp dụng mức phạt 8% cho tất
cả các chuyến hàng vi phạm và kiến nghị EVN xem xét giá trị phạt chỉ là
40.245.165.652đ, trong đó có 13 chuyến hàng than vi phạm thông số lớn phạt
8%, còn 13 chuyến chỉ vi phạm nhỏ thì áp dụng tỷ lệ phạt 0.5-5%.
Tại Báo cáo kiểm toán hoạt động xây dựng và quản lý, sử dụng vốn đầu
tư Dự án Nhà máy nhiệt điện VT, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị EVN tính
toán, thống nhất với nhà cung cấp về giá trị các khoản phạt, bao gồm cả khoản
phạt 8% giá trị chuyến hàng sai quy cách để quyết toán hợp đồng theo quy định.
Vì vậy, việc phạt chất lượng do than không đúng tiêu chuẩn đã được
DIC và EVN thỏa thuận, thống nhất vào thời điểm ký kết hợp đồng với tỷ lệ
phạt 8%, DIC đã thừa nhận ở các Biên bản họp ngày 11/6/2019 và ngày
10/9/2019 nên không có cơ sở để chấp thuận tỷ lệ phạt thấp hơn 8% như đề nghị
của DIC.
Căn cứ vào quy định của Hợp đồng, tổng khoản phạt vi phạm mà Liên
danh phải thanh toán cho EVN liên quan đến 26 chuyến hàng có than không đạt
tiêu chuẩn là 70.293.423.349đ.
10
Do đó, EVN có yêu cầu phản tố, đề nghị Tòa án yêu cầu Liên danh thanh
toán cho EVN số tiền phạt vi phạm Hợp đồng là 70.293.423.349đ.
+ Về tiền mua than EVN còn nợ DIC 48.303.665.456đ và tiền dôi nhật
ngày tàu 35.500.627.376đ là đúng, không tranh chấp, nhưng EVN giữ lại để
khấu trừ với khoản phạt chất lượng do than không đạt tiêu chuẩn mà Liên danh
DIC-INI SGE-VLHN có nghĩa vụ chi trả cho EVN theo Hợp đồng số 04 như
yêu cầu phản tố nêu trên.
+ Về chi phí mớn nước 118.365.317.002đ:
Tại Điều 5, Mục 5.1 Phụ lục 2, Phụ lục 09 của Hợp đồng số 04 cho thấy
các chỉ dẫn về mớn nước dự kiến tại Cảng dỡ đã được EVN cung cấp trong hợp
đồng, tuy nhiên nhà thầu được yêu cầu khảo sát kỹ các thông tin cần thiết tại khu
vực Cảng dỡ (bao gồm thông tin mớn nước) để bố trí tàu có tải trọng phù hợp
cho vận chuyển than.
Hợp đồng quy định trách nhiệm xin phép cho tàu vào cảng là của nhà
thầu. Theo đó, để được phép vào cảng dỡ, tàu vận chuyển than của nhà thầu sẽ
phải đảm bảo các yêu cầu về tải trọng, mớn nước theo thực tế luồng vào tại
Cảng dỡ. Trường hợp nhà thầu bố trí tàu quá tải so với khả năng đáp ứng tại
Cảng dỡ thì các chi phí phát sinh do phải san tải tàu sẽ do nhà thầu chi trả.
Hợp đồng không quy định về trách nhiệm của Bên mua phải chịu phạt do
không đảm bảo mớn nước theo các thông tin đã được chỉ dẫn trong hợp đồng.
Hiện nay, DIC đang đề nghị EVN hỗ trợ chi phí vận chuyển để bù đắp
các chi phí chênh lệch cước, cước khống, chi phí thuê gầu ngoạm tại cảng xếp,
chênh lệch giá hàng tương đương 118.365.317.002đ. Đề nghị này không có căn
cứ theo các quy định của Hợp đồng và quy định của pháp luật. EVN là một
doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, mọi khoản chi đều phải thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật nên EVN không chấp thuận đề nghị hỗ trợ chi phí mớn
nước do Hợp đồng số 04 không có quy định về vấn đề này.
+ Về phạt 8% giá trị hợp đồng do chậm thời hạn thanh toán:
Tại Mục 3 Phụ lục 11 Hợp đồng số 04 quy định trong trường hợp chậm
thanh toán, bên có lỗi phải thanh toán cho bên còn lại một khoản chậm thanh
toán. Tuy nhiên, EVN hoàn toàn không có lỗi, việc giữ lại tiền hàng vì đây là
hợp đồng song vụ căn cứ theo Điều 346 và 412 Bộ luật Dân sự, EVN có quyền
cầm giữ khoản tiền hàng và phí dôi nhật ngày tàu để bù trừ với các nghĩa vụ
khác của DIC, không phải là một khoản chậm thanh toán. Do đó, DIC yêu cầu
áp dụng chế tài phạt chậm thanh toán là không có cơ sở.
11
Đồng thời, DIC cũng xác định sai thời điểm hình thành hồ sơ thanh toán
hợp lệ. EVN đã thanh toán đúng hạn cho hầu hết các chuyến hàng, thậm chí còn
ứng trước nhiều đợt cho DIC. Do đó, DIC yêu cầu tính lãi chậm thanh toán cho
tiền hàng là không có căn cứ.
+ Về tiền lãi chậm thanh toán theo mức lãi suất 9,25%/năm:
DIC yêu cầu áp dụng mức lãi suất 9,25%/năm nhưng không đưa ra
chứng cứ chứng minh để áp dụng mức lãi suất trên, EVN nhận thấy mức lãi suất
trên không có cơ sở để áp dụng. Như đã nêu, EVN không có lỗi trong việc chậm
thanh toán. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu này của DIC. Nếu giả
sử cho rằng EVN có chuyến nào chậm thanh toán thì mức lãi suất cũng chỉ áp
dụng theo tiền gửi ngắn hạn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, kỳ hạn 01
tháng hoặc chỉ là 1,9%/năm.
EVN đề nghị Tòa án bác bỏ toàn bộ yêu cầu của DIC, trừ yêu cầu về tiền
hàng 48.303.665.456đ và tiền phạt dôi nhật ngày tàu 35.500.627.376đ; buộc
Liên danh phải thanh toán cho EVN số tiền phạt vi phạm hợp đồng trị giá
70.293.423.349đ. Sau khi khấu trừ số tiền phạt vi phạm hợp đồng với tiền phạt
dôi nhật ngày tàu, EVN sẽ thanh toán số tiền còn lại là 13.510.869.483đ.
- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty PT. S.G.E. thông qua người đại diện hợp pháp trình bày:
Công ty PT. S.G.E. (viết tắt là SGE) thống nhất với trình bày của DIC về
việc ký kết Hợp đồng số 04, Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 01/02/2018 và Phụ
lục Hợp đồng ký ngày 26/3/2018. SGE đã ủy quyền cho DIC đứng ra khởi kiện,
SGE thống nhất với trình bày của DIC, không có yêu cầu gì trong vụ án này; đề
nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của DIC.
2. Công ty Cổ phần VL Hà Nội thông qua người đại diện hợp pháp trình
bày:
Công ty Cổ phần VL Hà Nội thống nhất với trình bày của DIC về việc
ký kết Hợp đồng số 04, Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 01/02/2018 và Phụ lục
Hợp đồng ký ngày 26/3/2018. Công ty Cổ phần VL Hà Nội đã ủy quyền cho
DIC đứng ra khởi kiện, Công ty Cổ phần VL Hà Nội thống nhất với trình bày
của DIC, không có yêu cầu gì trong vụ án này; đề nghị Tòa án chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của DIC.
3. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV) thông qua người đại diện hợp pháp trình bày:
DIC có vay vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh theo các Hợp đồng tín dụng số
12
01/2014/1596656/HĐTD ngày 14/5/2014 và số 01/2019/1596656/HĐTD ngày
08/8/2019. DIC đã thế chấp cho BIDV các khoản phải thu của DIC phát sinh từ
Thỏa thuận giữa DIC – PT. S.G.E. – Công ty Cổ phần VL Hà Nội và Hợp đồng
số 04/2017/HĐMB ngày 28/3/2017 ký giữa DIC – PT. S.G.E. – Công ty Cổ
phần VL Hà Nội với EVN.
Tính đến ngày 15/10/2022, DIC còn nợ BIDV số tiền 736.261.810.338đ,
trong đó bao gồm 584.020.623.436đ nợ gốc, 152.225.736.252đ nợ lãi quá hạn
và 15.450.650đ lãi phạt.
DIC đã khởi kiện EVN do EVN vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Hợp
đồng số 04/2017/HĐMB ngày 28/3/2017 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu. BIDV đồng ý với yêu cầu khởi kiện của DIC, không có yêu cầu độc
lập đối với ai trong vụ án này. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
DIC. Trong trường hợp phát sinh tranh chấp liên quan đến các hợp đồng tín
dụng nêu trên thì BIDV sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác.
Tại phiên toà sơ thẩm: Nguyên đơn rút một phần đối với yêu cầu phạt
8% vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số: 01/2024/KDTM-ST ngày
04/01/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã quyết định:
1. Đình chỉ giải quyết phần yêu cầu của nguyên đơn là Công ty Cổ phần
Đầu tư và Thương mại DIC về số tiền phạt 8% vi phạm nghĩa vụ thanh toán là
19.608.741.159đ (mười chín tỷ, sáu trăm lẻ tám triệu, bảy trăm bốn mốt nghìn,
một trăm năm mươi chín đồng).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Công ty Cổ
phần Đầu tư và Thương mại DIC đối với bị đơn là Tập đoàn ĐL Việt Nam:
2.1. Tập đoàn ĐL Việt Nam phải thanh toán cho Công ty Cổ phần Đầu
tư và Thương mại DIC - đại diện cho Liên danh Công ty Cổ phần Đầu tư và
Thương mại DIC, PT.S.G.E., Công ty Cổ phần VL Hà Nội số tiền
220.348.098.290đ (hai trăm hai mươi tỷ, ba trăm bốn mươi tám triệu, không
trăm chín mươi tám nghìn, hai trăm chín mươi đồng), gồm các khoản sau đây:
+ Tiền hàng bị đơn chưa thanh toán là 48.303.665.456đ (bốn mươi tám
tỷ, ba trăm lẻ ba triệu, sáu trăm sáu mươi lăm nghìn, bốn trăm năm mươi sáu
đồng),
+ Tiền dôi nhật là 35.500.627.376đ (ba mươi lăm tỷ, năm trăm triệu, sáu
trăm hai mươi bảy nghìn, ba trăm bảy mươi sáu đồng),
13
+ Tiền được hoàn lại là 14.510.444.880đ (mười bốn tỷ, năm trăm mười
triệu, bốn trăm bốn mươi bốn nghìn, tám trăm tám mươi đồng) do bị phạt than
không đảm bảo chất lượng vượt quá 8%,
+ Tiền được bồi thường thiệt hại do bị đơn không đảm bảo mớn nước
theo hợp đồng gồm cước vận chuyển 80.959.941.175đ (tám mươi tỷ, chín trăm
năm mươi chín triệu, chín trăm bốn mươi mốt nghìn, một trăm bảy mươi lăm
đồng) và chi phí tăng thêm cho gàu xúc là 31.597.211.475đ (ba mươi mốt tỷ,
năm trăm chín mươi bảy triệu, hai trăm mười một nghìn, bốn trăm bảy mươi
lăm đồng). Tổng cộng 112.557.152.650đ (một trăm mười hai tỷ, năm trăm năm
mươi bảy triệu, một trăm năm mươi hai nghìn, sáu trăm năm mươi đồng),
+ Tiền phạt bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán và tiền lãi chậm trả là
9.476.207.928đ (chín tỷ, bốn trăm bảy mươi sáu triệu, hai trăm lẻ bảy nghìn,
chín trăm hai mươi tám đồng).
2.2. Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu
bên phải thi hành án không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải trả
cho bên được thi hành án số tiền lãi 10%/năm của khoản tiền chậm thi hành án,
tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
3. Toàn bộ số tiền tại Mục 2.1 nêu trên được thanh toán vào tài khoản số
31010002388002 của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC tại Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC đối với số tiền 36.500.979.256đ
(ba mươi sáu tỷ, năm trăm triệu, chín trăm bảy mươi chín nghìn, hai trăm năm
mươi sáu đồng).
5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là Tập đoàn ĐL Việt
Nam về khoản tiền phạt vi phạm chất lượng than 8% là 70.293.423.349đ (bảy
mươi tỷ, hai trăm chín mươi ba triệu, bốn trăm hai mươi ba nghìn, ba trăm bốn
mươi chín đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của
pháp luật.
Ngày 17/01/2024, nguyên đơn DIC có đơn kháng cáo một phần Bản án
sơ thẩm với nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm, sửa một phần Bản án sơ
thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị
đơn EVN phải trả toàn bộ các khoản tiền bồi thường thiệt hại, bao gồm cả các
14
khoản tiền bồi thường thiệt hại nguyên đơn đã có yêu cầu nhưng không được
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận với tổng số tiền là 72.822.435.206đ (bảy mươi
hai tỷ, tám trăm hai mươi hai triệu, bốn trăm ba mươi lăm nghìn, hai trăm lẻ
sáu đồng), cụ thể: Phần bồi thường thiệt do mớn nước không đúng như trong
hợp đồng đã ký dẫn đến giá than tăng gây thiệt hại với số tiền là
42.129.615.301đ + tiền phạt 8% vi phạm hợp đồng về nghĩa vụ thanh toán và
tiền lãi chậm trả với số tiền không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là
30.692.819.905đ, trong đó khoản phạt 8% do vi phạm hợp đồng về nghĩa vụ
thanh toán với số tiền là 12.581.631.785đ, khoản lãi chậm trả (9,25%) với số
tiền là 8.634.980.192đ và khoản tiền bị chia đôi, do Tòa án cấp sơ thẩm xác định
lỗi của cả 2 (hai) bên, với số tiền là 9.476.207.928đ.
Ngày 15/01/2024 và ngảy 18/01/2024, bị đơn EVN có đơn kháng cáo
toàn bộ Bản án sơ thẩm với nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án
sơ thẩm theo hướng, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận
toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn về yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng với số
tiền 70.293.423.349 đồng.
Ngày 01/02/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 06/QĐ-VKS-
KDTM đối với một phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số:
01/2024/KDTM-ST ngày 04/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu với nội dung cho rằng:
Số tiền phạt vi phạm hợp đồng về thời hạn thanh toán với mức 8% giá trị
hợp đồng vi phạm mà nguyên đơn được chấp nhận phải là các chuyến: 2, 5, 6, 7,
8, 10, 11, 13, 15, 17, 22, 26a, 26b, 27, 28, 29a, 29b, 30, 34a, 34b, 35, 36, 37
(Đợt 1); Đợt 2 gồm các chuyến: 16, 19, 20; tổng cộng số tiền vi phạm là
13.496.350.333đ. Tuy nhiên, tại mục [7.8] của Bản án sơ thẩm về việc xem xét
các chuyến tàu của nguyên đơn cũng như việc thanh toán của bị đơn đã có sự sai
sót đối với các chuyến 5, 6, 10, 11, 13, 15, 17, 23, 24, 26b, 27, 30, 34a, 34b (Đợt
1) và các chuyến: 16, 19, 20 (Đợt 2). Theo đó nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ
chấp nhận đối với số tiền phạt vi phạm là 5.100.898.270đ đối với các chuyến,
tàu Đợt 1 gồm: 2, 7, 8, 11, 22, 26a, 26b, 28, 29a, 29b, 30, 32, 35, 36, 37 và tính
sai số đối với chuyến 16 là không chính xác, gây thiệt hại cho nguyên đơn
8.395.452.063đ.
Đối với yêu cầu buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn
do không đảm bảo về độ sâu luồng (còn gọi là mớn nước) của Cảng VT 4 mà bị
đơn đã cam kết tại Hợp đồng số 04, dẫn đến việc nguyên đơn phải thuê tàu nhỏ
cho phù hợp với độ sâu thực tế của luồng hoặc thuê tàu nhưng phải chở non tải
thì mới vào được luồng của Cảng VT 4, làm cho giá than, cước phí vận chuyển,
15
bốc xếp than tăng lên, gây thiệt hại cho nguyên đơn. Tòa án cấp sơ thẩm xác
định về các yếu tố lỗi, thiệt hại, hậu quả và mối quan hệ nhân quả để chấp nhận
yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn là đúng. Tuy nhiên, đối với tiền
chênh lệch giá mua than khi chuyên chở bằng tàu lớn và tàu nhỏ (mục [8.7] của
Bản án sơ thẩm) thấy rằng: Quá trình giải quyết sơ thẩm vụ án, nguyên đơn cung
cấp chứng cứ là các thư báo giá than của Nhà cung cấp than nước ngoài chưa
được hợp pháp hóa lãnh sự để chứng minh tiền chênh lệch giá mua than khi
chuyên chở bằng tàu lớn và tàu nhỏ. Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng
về việc không tiến hành ủy thác thu thập xác minh tài liệu chứng cứ, cũng như
không yêu cầu nguyên đơn cung cấp bảng giá than của Nhà cung cấp than nước
ngoài được hợp pháp hóa lãnh sự, nhưng lại có nhận định các thư báo giá than
của Nhà cung cấp than nước ngoài chưa được hợp pháp hóa lãnh sự nên không
được coi là chứng cứ hợp pháp, từ đó không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
đối với phần thiệt hại do giá than tăng với số tiền 42.129.615.301đ gây thiệt hại
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Tuy nhiên, các thư báo giá than Nhà
cung cấp than nước ngoài báo giá than, trong khoảng thời gian từ tháng 3/2017
đến tháng 4/2018, thể hiện đơn giá của lô hàng cho tàu 20.000 – 30.000 tấn cao
hơn 2 USD/tấn so với tàu 35.000 – 50.000 tấn. Do đó, có cơ sở xác định lời trình
bày của nguyên đơn về việc khi mua than chuyên chở bằng tàu cỡ lớn sẽ được
mua với giá thấp hơn, nên đây cũng được coi là thiệt hại và có căn cứ để chấp
nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
Vì các lẽ trên, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng sửa một phần
Bản án sơ thẩm như đã phân tích nêu trên. (sau đây gọi tắt là Quyết định kháng
nghị hoặc Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh).
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn DIC thay đổi một phần yêu cầu kháng cáo, cụ thể DIC yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng buộc bị đơn
EVN phải trả thêm các khoản tiền bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là
51.757.627.555đ (năm mươi mốt tỷ, bảy trăm năm mươi bảy triệu, sáu trăm hai
mươi bảy nghìn, năm trăm năm mươi lăm đồng), trong đó: Phần bồi thường thiệt
do mớn nước không đúng như trong hợp đồng đã ký dẫn đến giá than tăng gây
thiệt hại với số tiền là 42.129.615.301đ, nhưng DIC thay đổi kháng cáo chỉ yêu
cầu EVN phải bồi thường một nửa với số tiền là 21.064.807.650đ + tiền phạt 8%
vi phạm hợp đồng về nghĩa vụ thanh toán và tiền lãi chậm trả với số tiền không
được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là 30.692.819.905đ, trong đó khoản phạt
16
8% do vi phạm hợp đồng về nghĩa vụ thanh toán với số tiền là 12.581.631.785đ,
khoản lãi chậm trả (9,25%) với số tiền là 8.634.980.192đ và khoản tiền bị chia
đôi do Tòa án cấp sơ thẩm xác định lỗi của cả 2 (hai) với số tiền là
9.476.207.928đ.
Bị đơn EVN xác định, ngày 15/01/2024 và ngày 18/01/2024, EVN có
đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm là kháng cáo các quyết định mà Tòa cấp sơ thẩm
đã giải quyết tranh chấp giữa các đương sự trong vụ án nhưng EVN không đồng
ý. Trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, EVN đã đồng ý với khoản
tiền dôi nhật 35.500.627.376đ và Bản án sơ thẩm đã quyết định EVN phải thanh
toán cho DIC khoản tiền dôi nhật là đúng, EVN không kháng cáo đối với khoản
tiền này.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
đã có Quyết định kháng nghị đối với quyết định của Bản án sơ thẩm không chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn đối với phần thiệt hại do giá than tăng với số tiền
42.129.615.301đ, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng chấp nhận nhận yêu cầu của nguyên đơn,
buộc bị đơn EVN phải thanh toán cho nguyên đơn DIC toàn bộ số tiền này. Tuy
nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm
trình bày, do nguyên đơn DIC có thay đổi kháng cáo đối với số tiền thiệt hại do
giá than tăng nên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh cũng có sự thay đổi một phần Quyết định kháng nghị cho phù hợp, cụ
thể: Kháng nghị đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên
đơn, buộc bị đơn EVN phải thanh toán cho nguyên đơn DIC một nửa phần thiệt
hại do giá than tăng với số tiền cụ thể là 21.064.807.650đ.
- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn DIC trình bày tranh luận với
nội dung:
Toàn bộ nội dung yêu cầu kháng cáo của bị đơn EVN là không có cơ sở
nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của EVN.
Kháng cáo của nguyên đơn DIC và Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (sau khi đã được thay đổi) là phù
hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án và phù hợp với quy định pháp luật nên
đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn.
- Người đại diện hợp pháp của bị đơn EVN và các Luật sư bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của EVN đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận ý
kiến chi tiết và tóm tắt bảng tính đã trình các thành viên Hội đồng xét xử, do
17
phía bị đơn vẫn giữ nguyên không thay đổi ý kiến, tại phiên tòa phúc thẩm xin
trình bày các quan điểm chính kháng cáo của bị đơn đối với Bản án sơ thẩm, cụ
thể như sau:
+ Đối với quyết định của Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn DIC về việc bị đơn EVN phải trả lại 14.510.444.880đ là số tiền phạt vi
phạm chất lượng than DIC đã trả vượt quá 8%; không chấp nhận giải quyết yêu
cầu phản tố của bị đơn EVN về phạt nguyên đơn mức 8% do vi phạm về chất
lượng than, bị đơn tranh luận với nội dung như sau;
Nguyên đơn và Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng, quy định tại Mục 2 Phụ lục
3 của Hợp đồng số 04 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung ký ngày 01/02/2018 ở phần
Bảng giá và điều chỉnh giá quy định về trường hợp than không đúng quy cách,
không phù hợp, có nội dung chứa đựng việc một lô than vi phạm chất lượng bị
xử lý hai lần, vừa bị phạt 8%, vừa bị giảm trừ giá, là đánh tráo khái niệm, không
đáp ứng được các tiêu chí của Luật Thương mại. Vì đối chiếu quy định tại điều,
khoản này thì số tiền phạt 8% về chất lượng than là khoản độc lập, riêng biệt với
khoản điều chỉnh giá than theo chất lượng thực tế. Khi ký Hợp đồng, các bên
đều nhận thức rõ là trong trường hợp than không đạt chất lượng thì bên mua có
quyền phạt 8% giá trị chuyến hàng do giao không đạt chất lượng và có quyền
lựa chọn 01 (một) trong 02 (hai) giải pháp là không nhận hàng hoặc nhận lô
hàng nhưng tính lại giá trị than và thanh toán tiền theo chất lượng than thực tế.
Quy định này đã được DIC áp dụng y nguyên thành các điều, khoản tương tự
quy định trong Hợp đồng mua bán than với bên nước ngoài Indonesia. Thực tế,
trong vụ án này, đối với 26/37 chuyến than các bên xác định là không đạt chất
lượng, nguyên đơn đã chủ động tự tính toán giảm trừ 84.803.868.229đ so với
than đảm bảo chất lượng theo Hợp đồng; đồng thời, về khoản phạt 8% giá trị
chuyến hàng không đạt chất lượng, nguyên đơn cũng tự nguyện chịu phạt với
tổng số là 40.245.165.652đ (không đủ 8%) với lý do có những chuyến vi phạm
chất lượng than ít nên xin được phạt từ 1-2%. Tại phiên tòa phúc thẩm, người
đại diện hợp pháp của nguyên đơn cho rằng, EVN ép DIC ký đồng ý chịu phạt
số tiền 40.245.165.652đ như trên là không đúng. Bị đơn không đồng ý số tiền
40.245.165.652đ cho khoản phạt 8% giá trị chuyến hàng không đạt chất lượng là
do cấp trên không đồng ý, trong khi đó quy định về khoản phạt này đã được 02
(hai) bên thỏa thuận và ghi trong Hợp đồng là 8%, đến nay không có cơ chế nào
để thay đổi; thêm nữa, Dự án Nhà máy nhiệt điện VT là dự án 100% vốn Nhà
nước, tại Báo cáo kiểm toán hoạt động xây dựng và quản lý, sử dụng vốn đầu tư
Dự án này, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị EVN tính toán, thống nhất với nhà
cung cấp về giá trị các khoản phạt, bao gồm cả khoản phạt 8% giá trị chuyến
hàng sai quy cách để quyết toán hợp đồng theo quy định. Do đó, bị đơn yêu cầu
18
nguyên đơn phải chịu phạt với số tiền 70.293.423.349đ (đủ 8% giá trị chuyến
hàng do giao không đạt chất lượng) là đúng theo quy định.
Thêm nữa, trong vụ án này, không có đương sự nào yêu cầu Tòa án
tuyên nội dung quy định tại Mục 2 Phụ lục 3 của Hợp đồng số 04 và Hợp đồng
sửa đổi bổ sung ký ngày 01/02/2018 ở phần Bảng giá và điều chỉnh giá quy định
về trường hợp than không đúng quy cách, không phù hợp, là không có hiệu lực.
Thế nhưng, Tòa án cấp sơ thẩm lại tuyên điều khoản này không có hiệu lực là
vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự, không đúng quy định pháp luật về tố
tụng, vi phạm khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do số tiền phạt 8% về chất lượng than là một khoản độc lập, riêng biệt
với khoản điều chỉnh giá than theo chất lượng thực tế, nên yêu cầu của nguyên
đơn DIC về việc bị đơn EVN phải trả lại 14.510.444.880đ (nằm trong số tiền
84.803.868.229đ giảm trừ do điều chỉnh giá than theo chất lượng thực tế 26
chuyến không đảm bảo chất lượng) là không có cơ sở.
Với các tài liệu, chứng cứ như trên có đủ cơ sở khẳng định, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn DIC về việc bị đơn
EVN phải trả lại 14.510.444.880đ với lý do đây là số tiền phạt vi phạm chất
lượng than DIC đã trả vượt quá 8%; không chấp nhận giải quyết yêu cầu phản tố
của bị đơn EVN về phạt nguyên đơn mức 8% do vi phạm về chất lượng than với
số tiền 70.293.423.349đ, là không đúng quy định pháp luật.
+ Đối với yêu cầu của nguyên đơn DIC về việc bị đơn EVN phải chịu
phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán và chịu lãi chậm thanh toán, bị đơn tranh luận
với nội dung như sau;
DIC đã cung cấp cho EVN tổng khối lượng than qua 37 chuyến hàng
được vận chuyển bằng tàu biển và đã nhận của EVN tổng số tiền
1.153.386.884.954đ. Vì DIC là nhà thầu duy nhất được chọn cung cấp than chạy
thử Nhà máy nhiệt điện VT 4 nên EVN luôn phải bố trí dòng tiền đảm bảo DIC
đủ để cung cấp than nên 37 chuyến hàng này đều được EVN thanh toán gối đầu
nhau. Theo bảng tính toán thì trong các lần thanh toán, EVN chưa bao giờ thanh
toán thiếu. Đối chiếu hồ sơ thanh toán của 37 chuyến hàng thể hiện, chính DIC
là bên đã lập toàn bộ các hồ sơ thanh toán của 37 chuyến hàng này, không hề có
sự ép buộc nào, hồ sơ đều đã được người đại diện theo pháp luật của DIC ký rồi
chuyển EVN thanh toán theo các ủy nhiệm chi cộng dồn là 1.153.386.884.954đ.
Thực tế, từ 16/01/2019 tới 22/01/2019 có xuất hiện một số yêu cầu chậm thanh
toán, nhưng EVN đã thanh toán bù trừ vào tháng 5/2019 (phần tô màu hồng
trong biểu đồ EVN đã nộp). Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng: “Ngoài ra, trong quá
trình thực hiện Hợp đồng số 04, nguyên đơn có lúc sai sót trên tài liệu của hồ sơ
19
thanh toán nên phải chỉnh sửa, đồng thời đã thống nhất với bị đơn về vấn đề giá
trị thanh toán phải giảm trừ chất lượng than nên cũng là những căn cứ để xác
định mốc thời gian hồ sơ thanh toán được coi là hợp lệ (các BL 3511-3641 tập
32; 3790, 3794 - 3798, 3817, 3822 tập 34)”, là sai quy định pháp luật. Như vậy,
EVN không chậm thanh toán thì không thể có việc phát sinh lãi chậm trả. Thiệt
hại này là do DIC tự tính toán sai sót vì chưa có kinh nghiệm. Các cáo buộc về
phần này của nguyên đơn là hoàn toàn sai lệch so với hồ sơ thanh toán, EVN
không thể thanh toán những gì DIC không yêu cầu và EVN không có vi phạm.
Tính đúng ra thì DIC phải chịu phạt 8% do vi phạm về chất lượng than với số
tiền 70.293.423.349đ bù trừ đi số tiền EVN chưa thanh toán 48.303.665.456đ thì
DIC vẫn còn nợ EVN.
Thêm nữa, theo quy định của Luật Thương mại thì mức phạt vi phạm
hợp đồng phải được các bên thỏa thuận trong Hợp đồng, nhưng Tòa án cấp sơ
thẩm không chấp nhận tỷ lệ phạt chậm thanh toán tương ứng với lãi suất huy
động vốn ngắn hạn của VCB đã được 02 (hai) bên thỏa thuận trong Hợp đồng số
04, là không đúng quy định pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm còn cho rằng, phần
cam kết của hai bên về tỷ lệ phạt chậm thanh toán tương ứng với lãi suất huy
động vốn ngắn hạn của VCB tại thời điểm thanh toán trong Hợp đồng số 04
không có hiệu lực, cũng là vi phạm pháp luật về tố tụng dân sự vì trong vụ án
này không có đương sự nào yêu cầu Tòa án tuyên phần này không có hiệu lực.
Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm còn cho rằng: “Đối với việc nguyên đơn
yêu cầu bị đơn phải chịu lãi chậm trả ngoài mức phạt vi phạm nêu trên đối với
một số chuyến hàng cũng được xem xét bởi vì theo quy định của khoản 2 Điều
307 Luật Thương mại, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu cả phạt vi phạm và yêu
cầu bồi thường thiệt hại” là sai lầm. Vì Tòa án cấp sơ thẩm đã đồng nhất yêu
cầu lãi chậm trả (quyền bên bị vi phạm) với bồi thường thiệt hại (bồi thường tổn
thất thực tế), nhưng đây là 02 (hai) chế định pháp luật khác nhau, độc lập với
nhau. Hơn nữa, EVN không chậm thanh toán thì không có việc phát sinh lãi
chậm trả và cũng không có việc đền bù thiệt hại do chậm thanh toán được.
Về tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết yêu cầu của nguyên đơn DIC
về việc bị đơn EVN phải chịu phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán và chịu lãi chậm
thanh toán mà nguyên đơn tính 9,25%, trong khi hồ sơ không có thông báo thụ
lý và đóng tạm ứng án phí đối với yêu cầu này của nguyên đơn, đây cũng thuộc
trường hợp xét xử vụ án nằm ngoài phạm vi yêu cầu của nguyên đơn, vi phạm
thủ tục tố tụng quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Với các tài liệu, chứng cứ như trên có đủ cơ sở khẳng định, Tòa án cấp
sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, quyết định bị
đơn phải thanh toán cho nguyên đơn khoản tiền phạt bị đơn vi phạm nghĩa vụ
20
thanh toán và tiền lãi chậm trả với tổng số tiền 9.476.207.928đ, là không đúng
quy định pháp luật.
+ Đối với cáo buộc của nguyên đơn về thiệt hại liên quan đến mớn nước,
bị đơn tranh luận với nội dung như sau;
Từ lúc mời thầu cho tới khi đàm phán và ký Hợp đồng số 04, EVN có đề
cấp đến độ sâu của luồng vào Cảng VT, nhưng đây không phải là cam kết,
không phải nghĩa vụ của EVN như Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định. Trong Hợp
đồng số 04 ghi rõ quy định là phía nguyên đơn có nghĩa vụ phải bố trí các
phương tiện vận chuyển phù hợp với tình hình mực nước tại cảng và nhu cầu đặt
hàng của EVN; tuân thủ các điều kiện bốc dỡ theo hồ sơ mời thầu hoặc bằng
một văn bản chính thức khác. Ngày 17/5/2017, hai bên có Biên bản làm việc về
vấn đề này, bị đơn cũng xác nhận độ sâu luồng tại Cảng VT 4 thời điểm đó là
7,9m. Toàn bộ Hợp đồng số 04, không có dòng nào nói nguyên đơn phải dùng
tàu to hay tàu nhỏ, chỉ có Phụ lục 03 nói chi phí vận chuyển là chi phí cố định
6,2USD/tấn, chỉ có điều chỉnh giá theo chỉ số than của thị trường quốc tế. Theo
quy định của Luật Đấu thầu thì Doanh nghiệp Nhà nước rất e ngại việc điều
chỉnh chi phí cố định. Vì đấu thầu trong trường hợp này là đấu thầu rộng rãi, nếu
chi phí cố định có điều chỉnh các nhà thầu khác không trúng thầu thời điểm đó
sau này có thể sẽ kiện bị đơn. Về việc sắp xếp tàu thì nguyên đơn phải khảo sát,
xem xét và toàn bộ chi phí nguyên đơn phải chịu. Nguyên đơn cố tình chào giá
6,2USD/tấn thấp xuống để trúng thầu, đây là chi phí cố định và không được thay
đổi suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Trong hồ sơ mời thầu và suốt quá trình
đàm phán ký kết hợp đồng, EVN đều nói khi tàu không vào được cảng, phải tổ
chức san tải, toàn bộ chi phí này nhà thầu DIC phải chịu. Và thực tế DIC đã chịu
nên đã tự ý đổi qua tàu nhỏ, nhưng do họ tính toán sai, tàu nhỏ phải đi thuê gàu
xúc, làm cho chi phí tăng thêm thì đây là việc của nguyên đơn.
Đối với cước phí vận chuyển, DIC mời giá 6,2USD/tấn là giá để thắng
thầu, là lựa chọn của DIC, nên chi phí tăng thêm 2,5USD/tấn hay bao nhiêu thì
cũng không phải là thiệt hại, nên DIC phải chịu.
Đối với giá than, DIC cho rằng vì tàu nhỏ nên phát sinh thêm tiền do
phải mua than với giá cao là không đúng, vì giá than là điều chỉnh theo chỉ số
biến động của thị trường than thế giới. Trong quá trình giải quyết vụ án ở giai
đoạn phúc thẩm, nguyên đơn có bổ sung hồ sơ, tài liệu có hợp thức hóa lãnh sự
chứng minh cho yêu cầu này thì cũng chỉ là hồ sơ, tài liệu của 11 chuyến, không
thể đại diện cho toàn bộ 37 chuyến hàng mà EVN đều đã thông báo điều kiện
cảng trước khi giao hàng.
Tóm lại, toàn bộ các chí phí tăng thêm về tiền vận chuyển, tiền gàu xúc
21
và tiền mua than đều nằm trong chi phí của DIC trong việc thực hiện Hợp đồng
số 04 chứ không phải thiệt hại. Quá trình thực hiện Hợp đồng số 04, DIC chưa
bao giờ cho rằng các khoản chi phí nêu trên là thiệt hại mà chỉ xin hỗ trợ, tại
phiên tòa sơ thẩm thì DIC mới thay đổi cho là thiệt hại và yêu cầu EVN bồi
thường các khoản tiền này. Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là bồi thường thiệt
hại, nhưng nội dung này cũng không có thông báo thụ lý và đóng tạm ứng án phí
của nguyên đơn là vi phạm thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của bị đơn.
Với các tài liệu, chứng cứ như trên có đủ cơ sở khẳng định, Tòa án cấp
sơ thẩm quyết định, bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn khoản tiền bồi
thường thiệt hại do bị đơn không đảm bảo mớn nước theo hợp đồng gồm cước
vận chuyển 80.959.941.175đ và chi phí tăng thêm cho gàu xúc 31.597.211.475đ;
tổng cộng 112.557.152.650đ, là không đúng quy định pháp luật.
Cũng với các tài liệu, chứng cứ như trên có đủ cơ sở khẳng định, kháng
cáo của nguyên đơn DIC và Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh với nội dung cho rằng, do bị đơn không
đảm bảo về mớn nước nên khi mua than DIC phải chuyên chở bằng tàu cỡ nhỏ
và phải mua với giá cao phát sinh thêm 42.129.615.301đ, đây cũng được coi là
thiệt hại cho DIC, là không đúng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm
không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn DIC và không chấp nhận Kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh đối với nội dung này.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm của
Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở
giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và các
đương sự có mặt tại phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Về kháng cáo của nguyên đơn DIC, kháng cáo của bị đơn EVN và
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh;
Sau khi phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong Hồ sơ vụ án,
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm
chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (sau khi đã được thay đổi), chấp nhận một phần
kháng cáo của nguyên đơn DIC (sau khi đã được thay đổi) và chấp nhận một
phần kháng cáo của bị đơn EVN, sửa bản án sơ thẩm theo hướng:
22
Ngoài khoản tiền dôi nhật 35.500.627.376đ được các bên thống nhất
thừa nhận và EVN phải thanh toán cho DIC, đối với khoản tiền hàng EVN chưa
thanh toán cho DIC được 02 (hai) bên đã thống nhất xác nhận với số tiền
48.303.665.456đ do phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm buộc EVN phải thanh toán khoản tiền này cho DIC.
Đối với các khoản tiền nguyên đơn DIC yêu cầu EVN bồi thường thiệt
hại, gồm: Tiền bồi thường thiệt hại do EVN không đảm bảo mớn nước theo hợp
đồng được xác định là 112.557.152.650đ (trong đó, cước vận chuyển là
80.959.941.175đ và chi phí tăng thêm cho gàu xúc là 31.597.211.475đ); tiền
phạt EVN vi phạm nghĩa vụ thanh toán và tiền lãi chậm trả được xác định là
27.347.867.920đ; tiền bồi thường thiệt hại, do EVN không đảm bảo mớn nước,
DIC phải tàu cỡ nhỏ chuyên chở nên phải mua than với giá cao phát sinh thêm
được xác định là 42.129.615.301đ. Nhận thấy các bên xác định chưa rõ trách
nhiệm về mớn nước trong quá trình ký kết và thực hiện Hợp đồng số 04 là do lỗi
ngang nhau của 02 (hai) bên DIC và EVN nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm quyết định, nguyên đơn DIC và bị đơn EVN, mỗi bên đương sự phải chịu
một nửa các khoản tiền nguyên đơn DIC yêu cầu bị đơn EVN bồi thường thiệt
hại các khoản tiền nêu trên.
Đối với yêu cầu của nguyên đơn DIC về việc EVN phải trả lại
14.510.444.880đ là số tiền phạt vi phạm chất lượng than DIC đã trả vượt quá
8% và yêu cầu phản tố của bị đơn EVN về phạt DIC mức 8% do vi phạm về
chất lượng than, nhận thấy: Trước đây, tại Biên bản họp ngày 29/11/2017 và
ngày 13/12/2017, tổng số tiền EVN giảm trừ của 26 chuyến có vi phạm chất
lượng than vào số tiền EVN phải thanh toán cho DIC là 84.803.868.229đ nên số
tiền EVN chưa thanh toán cho DIC còn 48.303.665.456đ. Đồng thời, tại Biên
bản họp ngày 19/12/2018, DIC và EVN đã thống nhất tỷ lệ phạt cho từng
chuyến than, tổng cộng số tiền phạt hai bên đã chấp nhận là 40.245.165.652đ. Vì
vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn DIC về việc EVN phải trả lại 14.510.444.880đ; chấp nhận một phần yêu cầu
phản tố của bị đơn EVN, phạt DIC mức 8% do vi phạm về chất lượng than với
số tiền 40.245.165.652đ, theo như sự thống nhất của 02 (hai) bên tại các biên
bản họp nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Đơn kháng cáo của nguyên đơn DIC và đơn kháng cáo của bị đơn EVN
nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định pháp luật; Quyết định kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh là đúng thẩm quyền và thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
nên hợp lệ.
23
Xét việc thay đổi một phần nội dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn
DIC và một phần nội dung yêu cầu Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, tại phiên tòa phúc thẩm, nằm
trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, phù hợp với quy định tại khoản 2
Điều 284 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kháng cáo của nguyên đơn DIC và Kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh (sau khi đã được thay đổi tại phiên tòa phúc thẩm) được Hội đồng xét xử
phúc thẩm chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm cùng với kháng cáo của bị
đơn EVN (sau đây gọi là kháng cáo của nguyên đơn hoặc kháng cáo của
nguyên đơn DIC, kháng cáo của bị đơn hoặc kháng cáo của bị đơn EVN, Quyết
định kháng nghị hoặc Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh).
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật
tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền và thủ tục theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung, trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự thống
nhất xác định:
Liên danh Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC (DIC) + Công ty
PT.Summer Global Energy + Công ty Cổ phần VL Hà Nội, đại diện là DIC và
Tập đoàn ĐL Việt Nam (EVN), đại diện là Ban Quản lý nhiệt điện VT – Chi
nhánh Công ty TNHH Một thành viên – Tổng Công ty Phát điện 3 đã ký Hợp
đồng số 04/2017/HĐMB ngày 28/3/2017 kèm theo 14 Phụ lục hợp đồng và Hợp
đồng ngày 01/02/2018 để sửa đổi, bổ sung Hợp đồng số 04, kèm theo 1 phụ lục
hợp đồng ngày 26/3/2018 về việc DIC bán cho EVN than nhập khẩu phục vụ
chạy thử, nghiệm thu Nhà máy nhiệt điện VT 4. Theo đó, DIC cung cấp 922.450
tấn than cho EVN tại Cảng VT 4 – BT và số than này được giao thành 02 đợt,
trong đó Đợt 1: 645.715 tấn than Sub-Bitum; Đợt 2: 276.735 tấn than Bitum;
tổng giá trị hợp đồng là 1.084.672.057.000 đồng, (các BL 429 - 585 tập 3). Tòa
án cấp sơ thẩm xác định, nội dung hợp đồng các bên đã ký là trên cơ sở tự
nguyện, hợp đồng do người đại diện hợp pháp của các bên ký và hình thức hợp
đồng phù hợp với quy định tại Điều 24, 25 Luật Thương mại, là đúng.
Thực tế, Hợp đồng số 04 đã được DIC thực hiện, DIC đã cung cấp cho
EVN tổng khối lượng than qua 37 chuyến hàng được vận chuyển bằng tàu biển,
giao hàng tại Cảng VT 4 – BT và đã được 02 (hai) bên nghiệm thu là 924.914,73
tấn, tổng giá trị tiền EVN phải thanh toán là 1.201.690.550.410đ (đã khấu trừ số
24
tiền 84.803.868.229đ bên mua phạt bên bán vi phạm chất lượng than). Trong
quá trình giải quyết vụ án, DIC và EVN đều thống nhất EVN đã thanh toán cho
DIC với số tiền 1.153.386.884.954đ, số tiền EVN chưa thanh toán còn lại là
48.303.665.456đ. Tuy nhiên, cho đến nay, có một số điều khoản của hợp đồng
đang có tranh chấp nhưng các bên không tự giải quyết được nên DIC đã có đơn
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp đối với EVN và EVN cũng có
yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp đối với DIC. Tòa án cấp
sơ thẩm đã căn cứ vào các quy định pháp luật liên quan để xem xét giải quyết
các yêu cầu của các đương sự có tranh chấp theo các chứng từ cấu thành nên
hợp đồng và thứ tự pháp lý mà hai bên ưu tiên áp dụng là: Hợp đồng và các Phụ
lục hợp đồng, Biên bản thương thảo hợp đồng, Bản điều kiện cụ thể của hợp
đồng, Thông báo kết quả lựa chọn nhà thầu, Quyết định phê duyệt kết quả lựa
chọn nhà thầu, Bản điều kiện chung của hợp đồng, Hồ sơ mời thầu, Hồ sơ dự
thầu, theo đúng như sự thống nhất của DIC và EVN tại Điều 2 của Hợp đồng số
04 (BL 547-549 tập 3).
[3] Về nội dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn DIC, yêu cầu kháng
cáo của bị đơn EVN và Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy;
[3.1] Xét kháng cáo của bị đơn EVN cho rằng, độ sâu luồng thực tế của
Cảng VT 4 trong suốt quá trình thực hiện Hợp đồng số 04 có đạt như Hợp đồng
và phụ lục của Hợp đồng số 04 hay không là trách nhiệm thuộc về DIC, EVN
không có trách nhiệm gì trong việc này, như sau;
[3.1a] Hồ sơ vụ án thể hiện, trước khi DIC và EVN ký Hợp đồng số 04,
EVN đã phát hành Hồ sơ mời thầu, tại Phần 2 về yêu cầu phạm vi cung cấp và
Phần 5 về Phụ lục Hợp đồng của Bản yêu cầu đề xuất ký ngày 26/12/2016, EVN
đã nêu thông tin về độ sâu của dòng chảy đến bến, tương tự độ sâu của luồng
Cảng VT (Cảng dỡ hàng) theo từng thời điểm được thể hiện tại Phụ lục 09 Hợp
đồng số 04 về Điều kiện dỡ hàng, cụ thể: Từ tháng 3-2017: -7,9m; từ tháng 6-
2017: -11,7m; từ tháng 10-2017: -13,5m; từ tháng 3-2018: -15,7m (BL 157, 183,
225 tập 02). Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định, độ sâu của luồng Cảng VT (Cảng
dỡ hàng) theo từng thời điểm là một trong những dữ liệu, điều kiện do EVN đưa
ra để 02 (hai) bên lấy làm một trong những căn cứ để xác lập giá cước vận
chuyển than bằng tàu biển và đã được thể hiện tại Phụ lục 09 Hợp đồng số 04 về
Điều kiện dỡ hàng, nên đây là một trong những yếu tố, nội dung không thể tách
rời của Hợp đồng số 04. Đồng thời, tại Điều 3 của Hợp đồng số 04 có nội dung
thỏa thuận về trách nhiệm của bên mua (EVN) là phải “Hoàn thành các trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình được đề cập tại Điều kiện chung và Điều kiện cụ
thể của Hợp đồng”. Trong khi đó, tại Mục 1 của Phụ lục 09 Hợp đồng số 04 về
25
Điều kiện dỡ hàng, ngoài việc EVN nêu độ sâu của luồng Cảng VT (Cảng dỡ
hàng) từng thời điểm thì EVN còn yêu cầu nguyên đơn phải tuân thủ về mớn
nước được chỉ dẫn tại Hợp đồng 04 và phải “Sử dụng tàu có trọng tải phù hợp
để vận chuyển than tới cảng tiếp nhận” (BL 481, 547 tập 3). Do đó, Tòa án cấp
sơ thẩm đã đối chiếu với các Thông báo hàng hải từng thời điểm của Tổng công
ty Bảo đảm an toàn hàng hải miền Nam để xác định độ sâu thực tế của luồng
vào cảng trong khoảng thời gian DIC cung cấp than cho EVN qua 37 chuyến
hàng được vận chuyển bằng tàu biển, giao hàng tại Cảng VT 4 – BT, so với độ
sâu được chỉ dẫn của Hợp đồng số 04 và Phụ lục hợp đồng này, là cần thiết.
Thông qua đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định, độ sâu thực tế của luồng Cảng
VT 4 so với độ sâu được chỉ dẫn tại Hợp đồng số 04 và Phụ lục hợp đồng này có
kết quả cụ thể: Từ tháng 6/2017 – tháng 9/2017, thiếu 3,8m đến 3,9m; từ tháng
10/2017 – tháng 02/2018, thiếu 3m; từ tháng 3/2018 đến khi thực hiện xong hợp
đồng, thiếu 3,5m. Như vậy, đã có đủ cơ sở nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác
định, độ sâu luồng Cảng VT 4 từ tháng 6/2017 đến tháng 4/2018 thực tế luôn
thiếu so với chỉ dẫn tại Hợp đồng số 04, là đúng.
[3.1b] Thực tế, trong quá trình thực hiện Hợp đồng số 04, ngay trước khi
thực hiện chuyến hàng đầu tiên, DIC đã có văn bản trao đối ý kiến với EVN về
việc độ sâu luồng vào cảng chỉ là 7,9m, không thể đảm bảo cho tàu có tải trọng
30.000 tấn vào làm hàng, phải thuê tàu nhỏ từ 20.000–23.000 tấn dẫn đến chi
phí giá than cao hơn khoảng 5USD/tấn. Theo đó, ngày 17/5/2017, hai bên đã có
Biên bản làm việc về vấn đề này, bị đơn EVN cũng đã xác nhận độ sâu luồng tại
Cảng VT 4 thời điểm đó là 7,9m, chỉ tương đương với tàu 20.000–21.000 tấn ±
10% vào được cảng, EVN ghi nhận trọng tải tàu như DIC nêu và đề nghị DIC
thuê tàu nhỏ giao hàng 02-03 chuyến đầu, EVN đang đẩy nhanh tiến độ nạo vét
luồng, EVN sẽ báo cáo cấp trên và cùng nhau tháo gỡ khó khăn của DIC nếu có.
Sau đó, tại cuộc họp ngày 07/9/2017, EVN cũng thống nhất với DIC là EVN sẽ
nỗ lực đẩy nhanh tiến độ nạo vét để sớm công bố cảng cho tàu 30.000DWT vào
được Cảng VT 4 trong tháng 9/2017. Điều này phù hợp với việc, trước khi ký
Hợp đồng số 04, EVN cũng đã nêu tại Mục 7 Biên bản thương thảo hợp đồng
ngày 01/3/2017 đến 05/3/2017 về trách nhiệm công bố cảng là của chủ đầu tư
(EVN) và chủ đầu tư dự kiến sẽ công bố cảng 30.000DWT trong tháng 6/2017
(các BL 1439-1446, 1462 tập 14). Tại phiên toà sơ thẩm, bị đơn EVN cũng xác
định trách nhiệm nạo vét độ sâu luồng cảng là thuộc về EVN.
[3.1c] Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định, EVN và DIC ký Hợp đồng số
04 trong khi cả 02 (hai) bên đều biết rõ Cảng VT 4 vẫn còn đang trong quá trình
nạo vét nên độ sâu luồng ghi trong Hợp đồng này là độ sâu theo dự kiến của
EVN đưa ra. Sau đó, trong suốt quá trình thực hiện Hợp đồng số 04, độ sâu
26
luồng thực tế của Cảng VT 4 đều không đạt như Hợp đồng và phụ lục của Hợp
đồng số 04 nhưng 02 (bên) đã chấp nhận thực hiện Hợp đồng này theo độ sâu
thực tế của Cảng VT 4 nên DIC phải thuê tàu nhỏ cho phù hợp dẫn đến chi phí
giá than cao hơn. Kết quả, tổng khối lượng than DIC đã cung cấp cho EVN qua
37 chuyến hàng được vận chuyển bằng tàu biển, giao hàng tại Cảng VT 4 – BT,
diễn ra trong khoảng thời gian từ ngày 17/6/2017 đến ngày 16/4/2018, là nằm
trong khung thời hạn của Hợp đồng 04 đã được 02 (hai) bên lập các biên bản
nghiệm thu đối với các chuyến than này (BL 586-665 tập 4) và được EVN và
DIC thống nhất xác nhận trong quá trình giải quyết vụ án.
[3.1d] Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ nêu trên nhận thấy, về độ sâu
luồng thực tế của Cảng VT 4 trong suốt quá trình thực hiện Hợp đồng số 04 đều
không đạt như Hợp đồng và phụ lục của Hợp đồng số 04 nhưng cả 02 (hai) bên
EVN và DIC không xác định rõ trách nhiệm hoàn toàn thuộc về bên nào nên có
đủ cơ sở quy kết trách nhiệm này thuộc về cả 02 (hai) bên. Kháng cáo của bị
đơn EVN cho rằng, độ sâu luồng thực tế của Cảng VT 4 trong suốt quá trình
thực hiện Hợp đồng số 04 có đạt như Hợp đồng và phụ lục của Hợp đồng số 04
hay không là trách nhiệm thuộc về DIC, EVN không có trách nhiệm gì trong
việc này, là không có cơ sở.
[3.2] Xét kháng cáo của bị đơn EVN về việc EVN phải bồi thường thiệt
hại cho DIC do không đảm bảo về độ sâu luồng của Cảng VT 4 mà EVN đã cam
kết tại Hợp đồng số 04, dẫn đến việc DIC phải thuê tàu nhỏ cho phù hợp với độ
sâu thực tế của luồng hoặc thuê tàu lớn nhưng phải chở non tải thì mới vào được
luồng của Cảng VT 4, làm cho giá than tăng thêm, gây thiệt hại cho DIC, như
sau;
Thực tế cho thấy, trong vận chuyển hàng hải, độ sâu của luồng là một
trong những điều kiện của cảng, độ sâu của luồng có ảnh hưởng đến cấu thành
giá cả hàng hóa vì liên quan đến trọng tải của tàu và thiết bị phục vụ bốc xếp
hàng hóa phải phù hợp với điều kiện của cảng. Do đó, tàu lớn, tàu nhỏ có giá
cước khác nhau. Vì vậy, với độ sâu của luồng Cảng VT (Cảng dỡ hàng) theo
từng thời điểm đã được thể hiện tại Phụ lục 09 Hợp đồng số 04 về Điều kiện dỡ
hàng, cụ thể: Từ tháng 3-2017: -7,9m; từ tháng 6-2017: -11,7m; từ tháng 10-
2017: -13,5m; từ tháng 3-2018: -15,7m. Nên tại Điều 5 Hợp đồng số 04 đã quy
định về giá hợp đồng, cùng Điều 3.2.1 và Điều 3.2.2 Phụ lục 03 của Hợp đồng
số 04 quy định về Bảng giá chi tiết thì cơ cấu hình thành nên giá than để DIC
bán cho EVN bao gồm toàn bộ các chi phí gồm giá than, chi phí vận chuyển và
bảo hiểm, trong đó cước vận chuyển đường biển đến cảng dỡ được 02 (hai) bên
xác định là 6,2USD/tấn.
27
Qua xem xét cụ thể các hợp đồng vận chuyển than mà DIC đã ký với các
doanh nghiệp vận tải để thực hiện Hợp đồng số 04 nhận thấy: Các hợp đồng có
giá cước khác nhau giữa tàu lớn (HANDYMAX 40.000-50.000 TẤN hoặc
SUPRAMAX 50.000-60.000 TẤN) với tàu nhỏ (HANDYSIZE 20.000-40.000
TẤN), cụ thể là 6,2USD/tấn cho tàu 45.000 tấn và 5,5USD/tấn cho tàu 55.000
tấn; đối với tàu Handymax và Handysize nếu chở dưới 40.000 tấn (non tải) thì
giá cước là 8,50USD/tấn (BL 1550, 1554 tập 16). Các hợp đồng vận chuyển này
đều đã thực hiện xong, đã xuất hoá đơn VAT. Xét các hợp đồng vận chuyển
than mà DIC đã ký với các doanh nghiệp vận tải để thực hiện Hợp đồng số 04 là
phù hợp với độ sâu thực tế của luồng Cảng VT (Cảng dỡ hàng) theo từng thời
điểm vận chuyển, phù hợp với các Văn bản báo giá cước vận chuyển bằng tàu
biển của các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển tại Việt Nam và phù hợp với
Thông lệ hàng hải: Mức mớn nước 11,7m tương ứng với tàu có trọng tải khoảng
47.000 tấn; mức mớn nước 13,5m tương ứng với tàu có trọng tải khoảng 60.000
tấn; mức mớn nước 15,7m tương ứng với tàu có trọng tải khoảng 80.000 tấn,
(BL 5644, 5646 tập 56). Đồng thời, các hợp đồng vận chuyển than mà DIC đã
ký với các doanh nghiệp vận tải để thực hiện Hợp đồng số 04 thể hiện, trong
trường hợp sử dụng tàu từ 45.000-55.000 tấn thì trách nhiệm lo gàu xúc để bốc
hàng thuộc về chủ tàu, trong trường hợp tàu tải trọng dưới 40.000 tấn thì chi phí
gàu xúc sẽ do bên thuê tàu chịu. Thực tế, DIC đã thuê phần lớn các chuyến tàu
tải trọng dưới 30.000 tấn, chỉ có một số chuyến tàu tải trọng trên 30.000 tấn và
hợp đồng với đơn vị vận chuyển này đều quy định cước chở sẽ theo điều kiện
Fiost, bên vận chuyển không chịu chi phí xếp hàng lên tàu và dỡ hàng khỏi tàu.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện của EVN cũng xác nhận các chuyến tàu chở than
do DIC thuê để thực hiện Hợp đồng số 04 đều không có gàu xúc kèm theo.
Qua xem xét các vấn đề nêu trên nhận thấy, lời trình bày của DIC trong
quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án với nội dung cho rằng, trước tình
trạng mớn nước của Cảng VT 4 không đảm bảo, DIC đã liên tục đề nghị EVN
xử lý vấn đề này nhưng không được đáp ứng. Vì vậy, DIC chọn phương án thuê
tàu có trọng tải phù hợp với mớn nước thực tế của cảng ngay từ đầu mà không
thực hiện việc thuê các tàu cỡ lớn đúng theo mớn nước được chỉ dẫn tại Hợp
đồng số 04, sau đó san tải hàng ra các phương tiện vận tải nhỏ để đưa vào cảng
dỡ, vì như vậy chi phí giá cước vận chuyển phải thêm 01 lần bốc dỡ và việc thuê
thêm các phương tiện nhỏ vào cảng sẽ cao hơn nhiều lần; như vậy, DIC đã áp
dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất theo quy định của Điều 305 Luật
Thương mại, là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định, bồi thường thiệt hại là
hình thức chế tài được áp dụng nhằm khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị
mất của bên bị vi phạm hợp đồng; theo đó, trong vụ án này, mặc dù Hợp đồng
số 04 không quy định về bồi thường thiệt hại đối với giá cước vận chuyển và chi
28
phí thuê gàu xúc, nhưng thiệt hại này xuất phát từ hợp đồng đã ký, nên bên bị
thiệt hại (nguyên đơn DIC) vẫn có quyền yêu cầu bồi thường, là đúng. Xét các
yêu cầu này của DIC như sau:
[3.2a] Đối với yêu cầu của DIC về giá cước vận chuyển;
Thực tế, Hợp đồng số 04 đã được DIC thực hiện, DIC đã cung cấp cho
EVN tổng khối lượng than qua 37 chuyến hàng được vận chuyển bằng tàu biển,
giao hàng tại Cảng VT 4 – BT và đã được 02 (hai) bên nghiệm thu; DIC cũng đã
trả cho chủ tàu số tiền cước thực tế theo các Hợp đồng thuê tàu vận chuyển than
theo các hoá đơn VAT.
Tuy nhiên, trong đó có một số chuyến hàng DIC được hưởng tiền hoa
hồng mức 1,50% trên cước phí nên được giảm trừ; các hóa đơn VAT thể hiện tỷ
giá USD áp dụng theo từng thời điểm thanh toán cước cho các chủ tàu. Vì vậy,
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét số tiền chênh lệch cước tàu DIC phải trả thêm
cho chủ tàu cụ thể từng chuyến hàng với kết quả, tổng số tiền cước tăng thêm
80.959.941.175đ (tám mươi tỷ, chín trăm năm mươi chín triệu, chín trăm bốn
mươi mốt nghìn, một trăm bảy mươi lăm đồng).
[3.2b] Đối với yêu cầu của DIC về chi phí thuê gàu xúc;
Qua xem xét các hợp đồng mua bán than của DIC với các nhà cung cấp
than của Indonesia nhận thấy, có các chuyến 4, 6, 9, 12, 15, 20 quy định rõ chi
phí gàu xúc do bên mua (bị đơn) chịu, các chuyến còn lại quy định chung chi
phí bốc xếp do bên mua chịu. Vì vậy, trình bày của nguyên đơn DIC về việc
DIC không có chứng từ thanh toán riêng cho chi phí thuê gàu xúc, vì chi phí này
do người bán thực hiện và DIC phải chịu chi phí nên đã thanh toán chung trong
tiền mua than, là có cơ sở. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng theo Thông lệ hàng hải
về thuê gàu xúc từ 01-02USD/tấn, mức giá do nguyên đơn DIC yêu cầu
1,5USD/tấn là phù hợp nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định tổng cộng số tiền chi
phí tăng thêm cho gàu xúc 31.597.211.475đ (ba mươi mốt tỷ, năm trăm chín
mươi bảy triệu, hai trăm mười một nghìn, bốn trăm bảy mươi lăm đồng).
[3.2c] Xét trách nhiệm của các bên đối với các chi phí nêu trên, Hội
đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy;
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo pháp luật của bị đơn EVN
xác định, các khoản chi phí về giá cước vận chuyển và thuê gàu xúc tăng thêm
do độ sâu luồng của Cảng VT 4 không đảm bảo mà nguyên đơn DIC đưa ra và
được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận nêu trên là hợp lý, tính toán đúng về số liệu,
EVN chỉ không đồng ý về trách nhiệm bồi thường. Mặc dù, Hội đồng xét xử
phúc thẩm đã giải thích và yêu cầu các bên có ý kiến về việc có yêu cầu trưng
cầu cơ quan chuyên môn xác định lại 02 (hai) khoản chi phí tăng thêm nêu trên
29
hay không, nhưng cả EVN và DIC đều không có yêu cầu vì cho rằng điều này là
không cần thiết. Vì vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận số
tiền cước tăng thêm là 80.959.941.175đ và số tiền gàu xúc tăng thêm là
31.597.211.475đ để làm cơ sở giải quyết vụ án.
Về trách nhiệm của các bên đối với các chi phí tăng thêm nêu trên: Do
đã xác định được trách nhiệm này là thuộc về cả 02 bên, xuất phát từ việc ký kết
hợp đồng về độ sâu mớn nước không phù hợp với thực tế, trong quá trình thực
hiện hợp đồng 02 bên cũng không có sửa đổi, bổ sung, vẫn cùng nhau chấp nhận
các chi phí tăng thêm nhưng cũng không có quy định rõ bên nào phải chịu đối
với các khoản chi phí tăng thêm này. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp
nhận quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, chấp nhận một phần
kháng cáo của EVN đối với khoản tiền này, buộc DIC và EVN, mỗi bên phải
chịu một nửa, cụ thể với số tiền được bồi thường thiệt hại do không đảm bảo
mớn nước theo hợp đồng gồm cước vận chuyển là 40.479.970.587đ và chi phí
tăng thêm cho gàu xúc là 15.798.605.738đ; tổng cộng là 56.278.576.325đ.
[3.3] Xét kháng cáo của nguyên đơn DIC, Kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu EVN phải
bồi thường một nửa (50%) thiệt hại cho DIC do không đảm bảo về độ sâu luồng
của Cảng VT 4 mà EVN đã cam kết tại Hợp đồng số 04, dẫn đến việc DIC phải
thuê tàu nhỏ cho phù hợp với độ sâu thực tế của luồng hoặc thuê tàu lớn nhưng
phải chở non tải thì mới vào được luồng của Cảng VT 4, làm cho giá than tăng
thêm, gây thiệt hại cho DIC, như sau;
[3.3a] Trong vụ án này, phần thiệt hại do giá than tăng thêm theo yêu cầu
của nguyên đơn DIC là 42.129.615.301đ, với lý do cho rằng, khi mua than
chuyên chở bằng tàu cỡ lớn luôn được mua với giá thấp hơn vì mua số lượng lớn
sẽ được chiết khấu nhiều hơn. Để chứng minh, trong quá trình giải quyết vụ án ở
giai đoạn phúc thẩm, DIC đã có cung cấp các Thư báo giá than của nhà thầu
cung cấp than nước ngoài trong khoảng thời gian từ tháng 3-2017 đến tháng 4-
2018, thể hiện đơn giá của lô hàng cho tàu 20.000-30.000 tấn cao hơn 2USD/tấn
so với tàu 35.000-50.000 tấn và các tài liệu này đã có hợp pháp hóa lãnh sự.
[3.3b] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, việc mua than
chuyên chở bằng tàu cỡ lớn luôn được mua với giá thấp hơn vì mua số lượng lớn
sẽ được chiết khấu nhiều hơn, như trình bày của nguyên đơn, là sự thỏa thuận
giữa DIC và bên các nhà cung cấp than, không thuộc phạm vi điều chỉnh của
Hợp đồng số 04, EVN không có trách nhiệm đối với giá than trong các hợp đồng
mua bán than giữa DIC và nhà cung cấp than đã thỏa thuận và ký kết thực hiện.
30
[3.3c] Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn DIC đã có
trình bày, DIC chọn phương án thuê tàu có trọng tải phù hợp với mớn nước thực
tế của cảng ngay từ đầu mà không thực hiện việc thuê các tàu cỡ lớn đúng theo
mớn nước được chỉ dẫn trong Hợp đồng số 04, rồi sau đó san tải hàng ra các
phương tiện vận tải nhỏ để đưa vào cảng dỡ, vì như vậy giá cước vận chuyển
cần phải chi phí thêm 01 lần bốc dỡ và việc thuê thêm các phương tiện nhỏ vào
cảng sẽ cao hơn nhiều lần, nên DIC đã áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế
tổn thất theo quy định của Điều 305 Luật Thương mại. Theo đó, thiệt hại của
DIC do độ sâu luồng (còn gọi là mớn nước) của Cảng VT 4 không đúng như
Hợp đồng số 04 gây ra, đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định, EVN phải
bồi thường một nửa các chi phí tăng thêm về giá cước vận chuyển và thuê gàu
xúc theo như phân tích và nhận định nêu trên, là đã bảm bảo được quyền và lợi
ích hợp pháp của DIC.
[3.3d] Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, yêu cầu của
nguyên đơn DIC về phần thiệt hại do giá than tăng thêm số tiền 42.129.615.301đ
là không phù hợp với thực tế vụ án này. Kháng cáo của nguyên đơn DIC và
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh về phần này là không có cơ sở.
[3.4] Xét kháng cáo của bị đơn EVN đối với quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn DIC về việc bị đơn EVN phải trả lại
14.510.444.880đ là số tiền phạt vi phạm chất lượng than DIC đã trả vượt quá
8%; không chấp nhận giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn EVN về phạt
nguyên đơn mức 8% do vi phạm về chất lượng than, như sau;
[3.4a] Hợp đồng mua bán than chạy thử nhà máy nhiện điện VT 4 được
ký kết trên cơ sở tự nguyện của các bên, trong đó tại Mục 2 Phụ lục 3 của Hợp
đồng số 04 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung ký ngày 01/02/2018 ở phần Bảng giá
và điều chỉnh giá quy định về trường hợp than không đúng quy cách, không phù
hợp, thì EVN có quyền phạt DIC 8% giá trị chuyến hàng theo giá trị hóa đơn
trước thuế của lô hàng tương ứng và lựa chọn một trong các giải pháp như từ
chối nhận lô hàng hoặc chấp nhận lô hàng nhưng thanh toán giá hóa đơn chiết
khấu, trừ theo công thức tính cho từng chỉ số của than không được đảm bảo theo
hợp đồng (BL 513-518, 571 tập 3).
Trong quá trình thực hiện Hợp đồng số 04, EVN và DIC đã cùng thống
nhất xác nhận, EVN đã nhận các lô hàng có chất lượng than không đúng quy
cách, không phù hợp, với giá tương ứng với thực tế chất lượng than và đã được
ghi vào hóa đơn. Theo như hai bên đã thống nhất cách tính tại Biên bản họp
ngày 29/11/2017 và ngày 13/12/2017 (BL 3555, 3568 tập 32) thì tổng số tiền
EVN giảm trừ của 26 chuyến có vi phạm vào số tiền phải thanh toán cho DIC là
31
84.803.868.229đ nên số tiền EVN chưa thanh toán cho DIC chỉ còn
48.303.665.456đ như sự thừa nhận của hai bên. Vì vậy, yêu cầu của nguyên đơn
DIC về việc bị đơn EVN phải trả lại 14.510.444.880đ với lý do đây là số tiền
phạt vi phạm chất lượng than DIC đã trả vượt quá 8%, là không có cơ sở. Kháng
cáo của bị đơn EVN về khoản tiền này là có cơ sở chấp nhận.
[3.4b] Đối với điều khoản phạt 8% giá trị chuyến hàng than có chất
lượng không phù hợp theo Hợp đồng số 04, nguyên đơn không đồng ý với yêu
cầu phản tố của bị đơn EVN yêu cầu DIC phải thanh toán cho EVN số tiền
70.293.423.349đ; thêm nữa, nguyên đơn DIC còn yêu cầu bị đơn EVN phải trả
lại 14.510.444.880đ là số tiền phạt vi phạm chất lượng than DIC đã trả vượt quá
8% (84.803.868.229đ - 70.293.423.349đ). Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng, nội
dung tại Mục 2 Phụ lục 3 của Hợp đồng số 04 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung ký
ngày 01/02/2018 như trên đã chứa đựng việc một lô than vi phạm chất lượng bị
xử lý hai lần, vừa bị phạt 8%, vừa bị giảm trừ giá, vượt quá mức phạt quy định
tại Điều 301 Luật Thương mại: mức phạt cho các vi phạm hợp đồng của một
bên không vượt quá 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Thực tế, bị đơn
nhận lô hàng với giá chiết khấu tức là giá đã bị giảm tương ứng với mức độ vi
phạm và trừ thẳng vào hóa đơn đã là 1 khoản phạt vi phạm đối với nguyên đơn
nên phần điều khoản quy định phạt 8% giá trị chuyến hàng than có chất lượng
không phù hợp với hợp đồng nên không có hiệu lực, là không đúng. Hơn nữa,
trong quá trình giải quyết vụ án, các bên ký hợp đồng không yêu cầu Tòa án
tuyên vô hiệu điều khoản này. Đối với điều khoản phạt 8% giá trị chuyến hàng
than có chất lượng không phù hợp theo Hợp đồng 04 Hội đồng xét xử nhận thấy,
tại Biên bản họp ngày 19/12/2018, nguyên đơn và bị đơn đã thống nhất tỷ lệ
phạt cho từng chuyến than, tổng cộng số tiền phạt hai bên đã chấp nhận là
40.245.165.652đ. Sau đó, tại các Biên bản họp ngày 11/6/2019 và ngày
10/9/2019, bị đơn thay đổi yêu cầu nguyên đơn phải chịu phạt đủ 8% như hợp
đồng đã ký với trị giá phạt là 70.293.423.349đ (BL 3531, 3521, 3515 tập 32) thì
nguyên đơn mới thay đổi không đồng ý chịu khoản phạt 8% này nữa. Như vậy,
cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn EVN, sửa bản án sơ thẩm về phần
này theo hướng, chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn EVN về phạt
nguyên đơn mức 8% do vi phạm về chất lượng than, buộc DIC phải thanh toán
cho EVN khoản tiền phạt vi phạm chất lượng than với số tiền là
40.245.165.625đ theo như sự thống nhất tỷ lệ phạt cho từng chuyến than của cả
02 (hai) bên tại Biên bản họp ngày 19/12/2018 là phù hợp, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự.
[3.5] Xét kháng cáo của nguyên đơn DIC, kháng cáo của bị đơn EVN và
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
32
Chí Minh đối với việc giải quyết tranh chấp khoản tiền phạt vi phạm nghĩa vụ
thanh toán và lãi chậm thanh toán của Tòa án cấp sơ thẩm, như sau;
[3.5a] Theo Hợp đồng đã ký giữa hai bên thì EVN phải thanh toán cho
DIC Đợt 1 là 90% và Đợt 2 phải thanh toán cho đủ 100% giá trị hóa đơn trong
vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày EVN nhận đủ các hồ sơ thanh toán hợp lệ bao
gồm các thành phần hồ sơ như quy định tại hợp đồng do DIC nộp. Tại Mục 3
của Phụ lục 11 Hợp đồng số 04 thể hiện: Trường hợp chậm thanh toán, bên có
lỗi sẽ phải thanh toán cho bên còn lại một khoản phạt chậm thanh toán tính từ
ngày làm việc sau ngày đến hạn thanh toán, tỷ lệ phạt chậm thanh toán tương
ứng với lãi suất huy động vốn ngắn hạn của VCB tại thời điểm thanh toán, mức
phạt tối đa là 8% giá trị hợp đồng. Thêm nữa, tại khoản 2 Điều 307 Luật
Thương mại quy định, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu cả phạt vi phạm và yêu
cầu bồi thường thiệt hại. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào quy định tại
Hợp đồng số 04 nêu trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại xác
định nguyên đơn DIC có quyền yêu cầu bị đơn EVN phải chịu phạt vi phạm
nghĩa vụ thanh toán và chịu lãi chậm thanh toán, là đúng.
[3.5b] Do nguyên đơn DIC không yêu cầu EVN phải chịu phạt vi phạm
nghĩa vụ thanh toán và chịu lãi chậm thanh toán đối với toàn bộ 37 chuyến hàng,
mà chỉ yêu cầu đối với một số chuyến hàng cụ thể trên số tiền bị đơn chậm
thanh toán, đồng thời có chuyến nguyên đơn chỉ yêu cầu phạt vi phạm 8%, có
chuyến chỉ yêu cầu chịu lãi chậm trả, có chuyến yêu cầu cả phạt vi phạm 8%, cả
lãi chậm trả. Trong khi đó, Hợp đồng số 04 được thực hiện thành 37 chuyến
hàng và mỗi chuyến lại có các đợt thanh toán theo các mốc thời gian khác nhau,
nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét việc thanh toán đối với tất cả 37 chuyến để
lấy đó làm cơ sở giải quyết yêu cầu của nguyên đơn. Đồng thời, đối với lãi suất
chậm thanh toán, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận định, mức lãi 9,25% cho tất cả
các kỳ hạn mà nguyên đơn DIC yêu cầu đối với EVN vì mức lãi này thấp hơn lãi
ngắn hạn quá hạn của ngân hàng, là có căn cứ.
[3.5c] Xét nguyên nhân dẫn đến việc EVN chậm thanh toán cho DIC là
do lỗi ngang nhau của cả 02 (hai) bên trong quá trình ký kết và thực hiện Hợp
đồng số 04 nên Tòa án cấp sơ thẩm quyết định mỗi bên phải chịu một nửa (50%)
tổng số tiền phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán và chịu lãi chậm thanh toán, là
phù hợp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Kháng cáo của
nguyên đơn DIC và kháng cáo của bị đơn EVN đối với các khoản tiền này là
không có cơ sở.
[3.5d] Xét Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, tại mục [7.8] của Bản án sơ thẩm về việc
33
xem xét các chuyến tàu của nguyên đơn cũng như việc thanh toán của bị đơn đã
có sự sai sót như sau:
+ Đối với chuyến 5 – tàu MV.ZHONGYU 89: Nguyên đơn bàn giao
chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 01/9/2017, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày
25/9/2017. Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 là 34.779.635.762đ. Bị đơn
thanh toán thành số tiền 17.304.844.802đ sau cùng ngày 27/9/2017 (quá hạn 02
ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 17.304.844.802đ
= 1.384.387.584đ là có căn cứ chấp nhận.
Bản án sơ thẩm cho rằng bị đơn thanh toán đúng hạn nên không chấp
nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng là không đúng.
+ Chuyến 6 MV. VINALINES FORTUNA:
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 11/9/2017, ngày đến hết hạn thanh toán là
ngày 02/10/2017. Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 là 13.384.160.396đ. Bị
đơn thanh toán số tiền 3.318.477.239đ sau cùng (ngày 14/9/2017 – trễ 05 ngày).
Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 3.318.477.239đ =
265.478.179đ là có căn cứ chấp nhận.
Đợt 2: Nguyên đơn yêu cầu tính lãi chậm thanh toán. Nguyên đơn cho
rằng bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 23/7/2018, tuy nhiên tại thời
điểm này hai bên đã ký hợp đồng sửa đổi bổ sung yêu cầu Hóa đơn Thuế giá trị
gia tăng 10% khi thanh toán, đến ngày 25/12/2018 (Công văn số 856 ngày
25/12/2018 của DIC) thì nguyên đơn mới bổ sung Hóa đơn Thuế giá trị gia tăng
10% nên thời điểm bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ xác định là ngày
25/12/2018, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 16/01/2019. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 2 là: 1.487.128.932đ.
Bị đơn thanh toán 297.426.466đ (ngày 27/12/2018 – quá hạn 136 ngày),
60.241.045 đồng (ngày 22/5/2019 – quá hạn thanh toán), số tiền còn lại chưa
thanh toán 1.129.461.421đ.
Do đó, yêu cầu tính lãi chậm thanh toán đối với số tiền còn lại chưa
thanh toán 1.129.461.421đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận, thời gian
tính từ ngày 17/01/2019 theo lãi suất quy định tại Điều 306 Luật Thương mại
2005.
Bản án sơ thẩm cho rằng bị đơn thanh toán đúng hạn nên không chấp
nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng là không đúng.
+ Chuyến 10 MV.PAZEH WISDOM:
34
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 10/10/2017 (biên bản bàn giao chứng từ có
xác nhận hai bên và Công văn 1155/DUC-KDT ngày 10/10/2017), ngày đến hết
hạn thanh toán là ngày 01/11/2017. Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 là
15.810.888.416đ. Bị đơn thanh toán 69.993.848đ (ngày 13/7/2018 – quá hạn 254
ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 69.993.848đ =
5.599.508đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 11 MV. AUTAI:
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 13/10/2017 (Công văn 1177/CA-AVT
ngày 13/10/2017), ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 06/11/2017. Số tiền bị
đơn phải thanh toán Đợt 1 là 18.416.365.548đ. Bị đơn thanh toán
9.197.113.232đ sau cùng (ngày 13/11/2017 – ngày quá hạn 10 ngày). Do đó, yêu
cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 9.197.113.232đ = 735.769.059đ
của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 13 MV. EAST AYUTTHAYA:
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 10/10/2017 (Công văn 1153/CA-AVT
ngày 10/10/2017), ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 01/11/2017. Số tiền bị
đơn phải thanh toán Đợt 1 là 26.684.517.042đ. Bị đơn thanh toán số tiền
924.676.847đ sau cùng (ngày 13/7/2018, quá hạn 254 ngày). Do đó, yêu cầu
phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 924.676.847đ = 73.974.148đ của
nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 15 MV. LUCKY PIONEER:
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 13/10/2017, ngày đến hết hạn thanh toán
là ngày 06/11/2017. Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 là 22.902.048.398đ. Bị
đơn thanh toán số tiền 11.223.616.203đ (ngày 13/11/2017 quá hạn 07 ngày). Do
đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 11.223.616.203đ =
897.889.296đ của nguyên đơn là có căn cứ.
+ Chuyến 16 MV. PHƯƠNG ĐỒNG 06:
Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm của nguyên đơn là
đúng. Tuy nhiên, tính toán sai đối với số tiền phạt vi phạm. Theo đó, số tiền 8%
x 1.457.966.358đ = 116.637.309đ, nhưng Bản án lại tính toán với số tiền
145.796.636đ là không đúng.
+ Chuyến 17 MV. SOUTHERN SPIRIT:
35
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 15/11/2017, ngày đến hết hạn thanh toán
là ngày 07/12/2017. Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 là 28.377.498.711đ. Bị
đơn thanh toán 550.499.511đ sau cùng (ngày 13/7/2018 – quá hạn 218 ngày).
Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 550.499.511đ =
44.039.961đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 19 MV. HARMONY SOURCE:
Đợt 2: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 23/7/2018,
ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 14/8/2018. Số tiền bị đơn phải thanh toán
Đợt 2 là 2.643.727.407đ. Bị đơn thanh toán số tiền 528.745.482đ (ngày
27/12/2018 – quá hạn 135 ngày); số tiền 2.114.981.925đ (ngày 22/5/2019 – quá
hạn 281 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x
2.643.727.407đ = 211.498.192,56đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 20 MV. OUPULAI 18:
Đợt 1: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
15/11/2017, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 07/12/2017. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 1 là 21.737.876.640đ. Ngày 20/12/2017, bị đơn thanh toán số
tiền 21.737.876.640đ. Ngày 20/12/2017, bị đơn thanh toán số tiền
21.737.876.640đ (quá hạn 13 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%,
số tiền 8% x 21.737.876.640đ = 1.739.030.131đ của nguyên đơn là có căn cứ
chấp nhận.
+ Chuyến 23 MV. ASAHI MARU:
Đợt 2: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
25/12/2018, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 16/01/2019. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 2 là 7.056.302.974đ. Bị đơn chưa thanh toán. Do đó, yêu cầu
phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 7.056.302.974đ = 564.504.238đ và yêu
cầu tính lãi chậm thanh toán đối với số tiền còn lại chưa thanh toán
7.056.302.974đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận, thời gian tính từ ngày
17/01/2019 theo lãi suất quy định tại Điều 306 Luật Thương mại.
+ Chuyến 24 MV. HUAYOU 2:
Đợt 2: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
25/12/2018, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 16/01/2019. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 2 là 3.962.696.332đ. Bị đơn chưa thanh toán. Do đó, yêu cầu
phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 3.962.696.332đ = 317.015.707đ và yêu
cầu tính lãi chậm thanh toán đối với số tiền còn lại chưa thanh toán
36
3.962.696.332đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận, thời gian tính từ ngày
17/01/2019 theo lãi suất quy định tại Điều 306 Luật Thương mại.
+ Chuyến 26b MV. NING AN CHENG - 12.100 MT:
Đợt 1: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
05/01/2018, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 29/01/2018. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 1 là 19.941.456.354đ. Bị đơn thanh toán số tiền 17.725.738.982đ
(ngày 09/02/2018 – quá hạn 11 ngày), số tiền 2.215.717.372đ (ngày 06/7/2018 –
quá hạn 158 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x
19.941.456.354đ = 1.595.316.508đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
Đợt 2: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
25/12/2018, ngày đến hạn thanh toán là ngày 16/01/2019. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 2 là 2.215.717.373đ. Bị đơn chưa thanh toán. Do đó, yêu cầu tính
lãi chậm thanh toán đối với số tiền còn lại chưa thanh toán 2.215.717.373đ của
nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận, thời gian tính từ ngày 17/01/2019 theo lãi
suất quy định tại Điều 306 Luật Thương mại.
+ Chuyến 27 MV. HARMONY SOURCE:
Đợt 1: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
29/12/2017, ngày đến hạn thanh toán là ngày 22/01/2018. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 1 là 28.007.817.392đ. Bị đơn thanh toán số tiền 3.974.589.992đ
sau cùng (ngày 06/7/2018 – quá hạn 165 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm
hợp đồng 8%, số tiền 8% x 3.974.589.992đ = 317.967.199đ của nguyên đơn là
có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 30 MV. NEW GENERAL:
Đợt 1: Nguyên đơn cho rằng bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
02/3/2018, tuy nhiên tại thời điểm này hai bên đã ký hợp đồng sửa đổi bổ sung
yêu cầu Hóa đơn Thuế giá trị gia tăng 10% khi thanh toán, đến ngày 25/12/2018
(Công văn số 856 ngày 25/12/2018 của DIC) thì nguyên đơn mới bổ sung Hóa
đơn Thuế giá trị gia tăng 10% nên thời điểm bàn giao chứng từ thanh toán hợp
lệ xác định là ngày 25/12/2018, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 16/01/2019.
Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 là 34.530.319.533đ.
Bị đơn thanh toán như sau: Ngày 13/3/2018, là 30.693.617.362đ; ngày
22/6/2018, là 3.836.702.171đ, không quá hạn. Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp
đồng 8%, số tiền 8% x 3.836.702.171đ = 306.936.174đ của nguyên đơn là
không có căn cứ chấp nhận. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm
hợp đồng của nguyên đơn là không chính xác.
+ Chuyến 34a MV. EFFICIENCY OL – 21.450 MT:
37
Đợt 1: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 05/4/2018,
ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 27/4/2018. Số tiền bị đơn phải thanh toán
Đợt 1 là 45.758.011.135đ. Bị đơn thanh toán số tiền 4.159.819.195đ (ngày
13/6/2018 – quá hạn 47 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số
tiền 8% x 4.159.819.195đ = 179.223.986đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp
nhận.
+ Chuyến 34b MV. EFFICIENCY OL –11.552 MT:
Đợt 1: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 05/4/2018,
ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 27/4/2018. Số tiền bị đơn phải thanh toán
Đợt 1 là 24.643.298.045đ. Ngày 13/6/2018, bị đơn thanh toán số tiền
2.240.299.823đ sau cùng (quá hạn 47 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp
đồng 8%, số tiền 8% x 2.240.299.823đ = 179.223.986đ của nguyên đơn là có
căn cứ chấp nhận.
Tổng kết lại, số tiền phạt vi phạm