Bản án số 85/2024/KDTM-PT ngày 02/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về mua bán hàng hóa

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 85/2024/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 85/2024/KDTM-PT ngày 02/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về mua bán hàng hóa
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 85/2024/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 02/10/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC; chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn Tập đoàn ĐL Việt Nam và chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 85/2024/KDTM-PT
Ngày 02 10 2024
V/v Tranh chp hợp đồng mua bán hàng hóa
yêu cu pht vi phm và bi thưng
thit hi do vi phm hợp đồng.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Đình Thanh
Các thẩm phán: Ông Phạm Văn Công
Ông Nguyễn Văn Minh
- Thư ký phiên toà: Nguyễn Thị Hồng Nhung Thư Toà án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh tham gia phiên toà: Ông Nguyễn Văn Đức – Kiểm sát viên.
Trong c ngày 15 tháng 8, ngày 10, 16 tháng 9 ngày 02 tháng 10
năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử
phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại phúc thẩm thụ lý số:
36/2024/TLPT-KDTM ngày 02 tháng 5 năm 2024 về vụ án “Tranh chấp hợp
đồng mua bán hàng hóa, yêu cầu phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 01/2024/KDTM-ST ngày
04 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Rịa Vũng Tàu bị kháng
cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số: 2972/2024/QĐ-PT
ngày 16 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cphần Đầu Thương mại DIC (DIC); địa
chỉ: Số 82 THL, Phường 15, quận PN, Thành phố H Chí Minh;
Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức H
Tổng Giám đốc DIC, (có mặt);
2
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (theo các Giấy ủy quyền
ngày 23/4/2019 và ngày 26/10/2020):
1- Ông Hồ Hoàng H1, sinh năm 1978, (có mặt);
2- Ông Lưu Trường H2, sinh năm 1974, (mặt ngày 15/8/2024, có mặt
ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
3- Ông Hoàng Văn Th, sinh năm 1976, (có mặt);
4- Ông Nguyễn Anh K, sinh năm 1977, (có mặt);
Cùng địa: Số 82 THL, Phường 15, quận PN, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Tập đoàn ĐL Việt Nam (EVN); địa chỉ: Số 11, CB, quận BĐ,
thành phố Hà Nội;
Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông Nguyễn Anh T Tổng
Giám đốc EVN, (có mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (theo Giấy ủy quyền số:
3801/UQ-EVN ngày 08/7/2024);
1- Ông Võ Minh Th1, sinh năm 1977, (có mặt);
2- Trần Phương Th2, sinh năm 1982, (có mặt ngày 15/8/2024, có
mặt ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
3- Ông Nguyễn Mạnh L, sinh năm 1993, (có mặt ngày 15/8/2024, có mặt
ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
Ông Th1, bà Th2 và ông L cùng địa chỉ: Số 11, CB, quận BĐ, thành phố
Hà Nội.
4- Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) PLTM Việt Nam
(Lexcomm); địa chỉ: Tầng M, Tòa nhà HH Center, S25 LTK, phường PCT,
quận HK, thành phố Hà Nội;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Việt H3 Giám đốc
Lexcomm, (có mặt ngày 15/8/2024, mặt ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày
16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
Người đại diện theo ủy quyền của Lexcomm (theo Giấy ủy quyền ngày
09/7/2024):
4.1- Ông Nguyễn Thăng T1, sinh năm 2000, (có mặt ngày 15/8/2024,
mặt ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
4.2- Ông Nguyễn Anh H4, sinh năm 1999, (có mặt ngày 15/8/2024,
mặt ngày 10/9/2024, vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
3
Ông T1 ông Anh H4 cùng địa chỉ: Tầng M, Tòa nhà HH Center, S
25 LTK, phường PCT, quận HK, thành phố Hà Nội.
4.3- Ông Nguyễn Huy H5, sinh năm 1999; địa chỉ: Phòng 2106-07, Tầng
21, Tòa nhà ST Center, S37 TĐT, phường BN, Quận 1, Thành phố HChí
Minh, (vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:
1- Ông Nguyễn Việt H3 Luật làm việc tại Lexcomm, thuộc Đoàn
Luật thành phố Nội, (có mặt ngày 15/8/2024, mặt ngày 10/9/2024,
vắng mặt ngày 16/9/2024 và có mặt ngày 02/10/2024);
2- Ông Nguyễn Hoàng Đ Luật làm việc tại Lexcomm, thuộc Đoàn
Luật Thành phố Hồ Chí Minh, ( mặt ngày 15/8/2024, mặt ngày
10/9/2024, vắng mt các ngày 16/9 và 02/10/2024);
3- Ông Xuân N Luật thuộc Đoàn Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, (có mặt ngày 15/8/2024, vắng mặt các ngày 10, 16/9 và 02/10/2024);
4- Ông Phạm Anh V - Luật thuộc Đoàn Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, (có mặt);
Ông N và ông V cùng làm việc tại Công ty Luật TNHH HK; địa chỉ: Số
48 HNP, phường LH, quận ĐĐ, thành phố Hà Ni.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty PT.S.G.E. (SGE); địa chỉ: Tầng 10, Tòa nhà P., Tp. S., JI.
Asia, Lô 9, J.S 10270, Indonesia.
Người đại diện theo pháp luật của SGE: Ông Welly T.mas Giám đốc
SGE, (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền (theo Giấy ủy quyền ngày 25/12/2018):
Công ty C phần Đầu tư và Thương mại DIC.
Người đại diện theo pháp luật của DIC: Ông Nguyễn Đức H Tổng
Giám đốc DIC; địa chỉ: Số 82 THL, Phường 15, quận PN, Thành phố HChí
Minh, (có mặt).
2. Công ty Cphần VL Nội (VLHN); địa chỉ: Số 587 HHT, quận
BĐ, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật của VLHN: Ông Nguyễn Đức C Giám
đốc VLHN (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của VLHN (theo Giấy ủy quyền ngày
25/12/2018): Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC.
4
Người đại diện theo pháp luật của DIC: Ông Nguyễn Đức H Tổng
Giám đốc DIC; địa chỉ: Số 82 THL, Phường 15, quận PN, Thành phố H Chí
Minh, (có mặt).
3. Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Đầu tư Phát triển Việt
Nam (BIDV); địa chỉ: 194 TQK, quận HK, thành phố Hà Nội;
Người đại diện theo pháp luật của BIDV: Ông Phan Đức T2 Chủ tịch
Hội đồng quản trị, (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của BIDV (theo Quyết định ủy quyền tham
gia tố tụng số 963/QĐ-BIDV ngày 25/10/2021 Giấy ủy quyền ngày
19/7/2022):
+ Bà Đinh Thị Thu Ng, sinh năm 1981, (có mt);
+ Bà Lê Minh H6, sinh năm 1985, (có mặt);
Nga Huệ cùng địa chỉ: Số 134 NCT, phường NTB, Quận 1,
Thành phố Hồ C Minh.
- Người kháng cáo:
+ Nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC;
+ Bị đơn Tập đoàn ĐL Việt Nam;
- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ C Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo Đơn khởi kiện ngày 15/8/2019, các Đơn khởi kiện bổ sung ngày
25/8/2020, ngày 26/12/2022 các lời khai trong quá trình tham gia giải quyết
vụ án, nguyên đơn Công ty C phần Đầu Thương mại DIC thông qua
người đại diện hợp pháp trình bày:
Liên danh Công ty C phần Đầu Thương mại DIC + PT.S.G.E. +
Công ty Cphần VL Nội, đại diện là Công ty Cphần Đầu Thương
mại DIC (gọi tắt DIC) và Tập đoàn ĐL Việt Nam, đại diện Ban Quản
nhiệt điện VT Chi nhánh Công ty TNHH Một thành viên Tổng Công ty Phát
điện 3 (gọi tắt là EVN) đã ký hợp đồng cung cấp than phục vụ chạy thử, nghiệm
thu Nhà máy nhiệt điện VT 4, Hợp đồng giữa hai bên bao gm:
1. Hợp đồng số 04/2017/HĐMB ngày 28/3/2017 giữa DIC EVN
(gọi tắt là Hợp đồng số 04) với các nội dung cơ bản sau đây:
5
Khối lượng than DIC sẽ cung cấp cho EVN tại Cảng VT 4 BT
922.450 tấn; trong đó đợt 1 Than Sub-Bitum là 645.715 tấn, đợt 2 Than Bitum là
276.735 tấn; tổng giá trị hợp đồng là 1.084.672.057.000 đồng (đ).
Thời gian thực hiện hợp đồng 16 tháng ktừ ngày hợp đồng có hiệu lực
và tùy thuộc vào tiến độ chạy thử, nghiệm thu Nhà máy nhiệt điện VT 4.
Khối lượng cụ thể thời gian giao hàng cho từng chuyến hàng sẽ được
bên mua thông báo trước ngày 20 hàng tháng bằng văn bản để bên bán sự
chuẩn bị kế hoạch nhận hàng phù hợp. Riêng chuyến hàng cho đợt 2 Than
Bitum, bên mua sẽ thông báo trước thời gian yêu cầu giao hàng là 30 ngày.
Việc thanh toán chia thành 2 đợt: Đợt 1, bên mua sthanh toán 90% giá
trị Hoá đơn cho bên bán trong vòng 15 ngày làm việc sau khi nhận được bộ hồ
thanh toán hợp lệ tbên bán. Đợt 2, n mua sthanh toán cho đủ 100% giá
trị thanh toán cuối cùng của mỗi chuyến hàng trong vòng 15 ngày làm việc sau
khi nhận được bhồ thanh toán hợp lệ tbên bán. Tiền thanh toán Việt
Nam đồng theo tỷ giá bán USD tại thời điểm phát hành hoá đơn thanh toán của
Ngân hàng bên mua mở tài khoản.
2. Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 01/02/2018, thay đổi một số nội
dung của Hợp đồng 04, trong đó liên quan đến giá hợp đồng, điều khoản thanh
toán, thuế, phạt vi phạm đối với than không đạt tiêu chuẩn, điều kiện dỡ hàng,
phạt vi phạm hợp đồng.
3. Phụ lục Hợp đồng ký ngày 26/3/2018 về việc thay đổi một số nội dung
của Bộ chứng từ thanh toán lần 1.
Quá trình thực hiện hợp đồng, dù gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại nhưng
DIC đã cố gắng thực hiện nghiêm túc, đúng tiến độ hợp đồng, đảm bảo việc
chạy thử Nhà máy nhiệt điện VT 4 vượt kế hoạch đra. Tuy nhiên, việc thanh
toán tiền của EVN cho DIC chậm trễ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh
của DIC. Bên cạnh đó, EVN đã không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng
vđộ sâu luồng (sau đây gọi tắt là mớn nước) Cảng VT 4 và chậm trễ trong vấn
đề dỡ hàng, nên đã gây thiệt hại rất lớn về kinh tế cho DIC. Do thương thảo
nhiều lần không được nên DIC (sau đây gọi tắt nguyên đơn) khởi kiện EVN
(sau đây gọi tắt là bị đơn) với các yêu cầu sau:
Tại Đơn khởi kiện ngày 15/8/2019, nguyên đơn yêu cầu EVN phải trả
tiền hàng còn nợ: 54.303.665.456đ + tiền phạt dôi ngày tàu (dôi nhật):
35.500.627.376đ + tiền phạt do vi phạm mớn nước: 118.365.317.002đ. Sau đó
thống nhất với bị đơn số tiền hàng còn nợ chỉ là 48.303.665.456đ nên tổng s
tiền yêu cầu là 202.169.609.834đ.
6
Ngày 25/8/2020, nguyên đơn bổ sung yêu cầu đòi tiền lãi chậm thanh
toán 31.859.161.664đ phạt vi phạm 8% nghĩa vụ thanh toán
37.291.271.213đ. Tổng số tiền yêu cầu là 271.320.042.709đ.
Ngày 26/12/2022, nguyên đơn bổ sung yêu cầu đòi tiền phạt chất lượng
than vượt quá 8% phần bị vi phạm 14.510.444.880đ. Tng số tiền yêu cầu
285.830.487.589đ.
Ngày 28/11/2023, nguyên đơn thay đổi, rút một phần yêu cầu đối với
tiền phạt vi phạm 8% nghĩa v thanh toán, giảm xuống còn yêu cầu
26.080.656.308đ tiền lãi chậm thanh toán giảm còn 22.143.740.267đ. Tổng
số tiền yêu cầu là 265.247.208.799đ.
Tại phiên tòa thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu về tiền phạt vi
phạm 8% nghĩa vụ thanh toán, giảm còn 17.682.530.054đ. Tổng số tiền yêu cầu
là 256.849.082.547đ.
Căn cứ để DIC khởi kiện c thể như sau:
+ Đối với số tiền hàng 48.303.665.456đ còn nợ: DIC đã cung cấp cho
EVN tổng khối lượng than của 37 chuyến hàng thực tế là 925.925,6 tấn nhưng
khối lượng sau khi trừ độ ẩm và được EVN nghiệm thu là 924.914,73 tấn, thành
tiền 1.201.690.550.410đ (đã trừ giá trị EVN cho rằng DIC vi phạm chất
lượng than). EVN đã thanh toán 1.153.386.884.954đ, nên số tiền chưa thanh
toán là 48.303.665.456đ. EVN ng đã thống nhất khoản tiền này tại Biên bản
làm việc ngày 19/5/2020 các Biên bản ng khai chứng cứ tại Tòa án nhân
dân tỉnh Bà Ra – Vũng Tàu.
+ Đối với yêu cầu tiền phạt dôi nhật 35.500.627.376đ: Tiền phạt dôi nhật
khoản tiền phạt chậm dỡ hàng. EVN cũng đã thống nhất khoản tiền này tại
Biên bản họp giữa 2 bên ngày 18/12/2018, Biên bản làm việc ngày 19/5/2020 tại
Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và các Biên bản công khai chứng cứ.
+ Đối với yêu cầu tiền phạt do vi phạm độ sâu luồng 118.365.317.002đ:
Theo Ph lục 09 về Điều kiện dỡ hàng của Hợp đồng số 04; Phần 5 của
Hồ sơ mời thầu theo Quyết định số 1274/QĐ-EVN ngày 10/12/2016 thì EVN đã
cam kết độ sâu luồng từng thời điểm: Từ tháng 3-2017: -7,9m; ttháng 6-2017:
-11,7m; từ tháng 10-2017: -13,5m; từ tháng 3-2018: -15,7m.
Căn cứ vào độ sâu luồng như trên, DIC đã chào thầu giá cước vận
chuyển cố định từ thời điểm đóng thầu vào tháng 02-2017 nhưng đến khi tiến
hành giao hàng thì độ sâu luồng không đảm bảo nên DIC không thể thuê tàu lớn
chở hàng vào cảng phải thuê tàu nhỏ, tàu đúng tải trọng phù hợp với độ u
luồng thực tế để vào cảng dẫn đến giá thuê tàu bị cao hơn. Mặt khác, khi thuê
7
tàu nhỏ thì phải chịu phát sinh tiền cước tàu tăng thêm; tàu nhỏ thì không
gầu, ngoạm nên phải thuê thêm gầu, ngoạm để xếp dỡ hàng và còn chịu tiền
hàng tăng thêm vì chi phí trên một đầu tấn than tăng lên.
Khi độ sâu luồng không đảm bảo thì trước khi giao hàng DIC đã làm
việc với bị đơn và bị đơn cam kết đẩy nhanh công tác nạo vét luồng để phấn đấu
đạt được độ sâu của luồng theo dự kiến được thể hiện tại Biên bản làm việc ngày
17/5/2017. Tuy nhiên, theo các Thông báo hàng hải hiệu lực trong suốt thời
gian thực hiện hợp đồng thì độ sâu luồng thực tế của cảng vẫn luôn không đảm
bảo như quy định của hợp đồng.
DIC đã nộp các hợp đồng thuê tàu, vận đơn thanh toán cước tàu, chứng
từ thanh toán tiền hàng cho Tòa án nhân dân tỉnh Rịa Vũng Tàu. Tuy
nhiên, việc thuê gầu ngoạm do đơn vị cung cấp than tại nước ngoài đứng ra thuê
gầu ngoạm thay cho DIC nên việc thanh toán tiền ng tiền thuê gầu ngoạm
là thanh toán chung, không tách ra thanh toán riêng.
Thực tế chi phí chênh lệch giữa giá cước tàu chào thầu của EVN giá
cước DIC thực trả chủ tàu 80.959.941.175đ; chi phí thuê gầu ngoạm (xúc) tại
cảng xếp là 31.597.211.475đ; chi phí giá than tăng thêm do thuê cỡ tàu nhỏ
42.129.615.301đ. Tổng chi phí DIC bị thiệt hại khi độ sâu luồng không đảm bảo
154.686.767.950đ, nhưng đthể hiện thiện chí hợp tác lâu dài với EVN nên
DIC chỉ yêu cầu EVN thanh toán tiền tăng thêm do độ sâu của luồng không đảm
bảo là 118.365.317.002đ.
+ Đối với yêu cầu phạt EVN 8% giá trị vi phạm về thời hạn thanh toán.
Căn cứ Mục 3 Phụ lc 4, Mục 3 Phụ lục 11 của Hợp đồng số 04 quy
định bên mua sẽ thanh toán 90% giá trị hóa đơn cho bên bán trong vòng 15 ngày
làm việc sau khi nhận được bộ hồ thanh toán hợp ltừ bên bán gồm các
chứng từ theo quy định tại Hợp đồng số 04. Căn cứ Hợp đồng số 04 thì DIC
xuất hóa đơn Thuế giá trị gia tăng (GTGT) không bao gồm thuế, tuy nhiên trong
quá trình thực hiện hợp đồng thì EVN yêu cầu DIC xuất lại hóa đơn Thuế
GTGT 10% thì mới làm thủ tục thanh toán.
Thực tế thì DIC đã xuất hóa đơn không bao gồm thuế cho 02 chuyến đầu
tàu Neptune Star, Genco Challenger. Sau đó, n cứ Công văn số 7646/CT-
TTHT ngày 10/8/2018 của Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh thì DIC đã xuất
hóa đơn với thuế suất 0% cho 30 chuyến hàng (từ chuyến 03 đến chuyến 32)
nhưng EVN vẫn không chấp nhận và yêu cầu DIC xuất lại hóa đơn Thuế GTGT
10%. Sau đó, DIC đã xuất lại hóa đơn Thuế GTGT 10% theo yêu cầu của EVN.
Do đó, bộ hồ thanh toán đầy đủ DIC đã gửi cho EVN từ khi xuất hóa
đơn lần đầu tiên, việc EVN yêu cầu DIC xuất lại hóa đơn căn cứ vào ngày
8
xuất hóa đơn lại để tính thời hạn thanh toán không hợp lý. Thực tế thì EVN
cũng Văn bản s 1728/QNĐVT-KTKH-TCKT ngày 13/9/2017 xác nhận
ngày nhận đủ hồ sơ thanh toán của một số chuyến và tạm ứng tiền hàng của một
số chuyến đó cho DIC.
Theo Mục 3 Phụ lục 11 Hợp đồng số 04 quy định tỷ lệ chậm thanh toán
tương ứng với lãi suất huy động vốn ngắn hạn của Ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam (VCB). Tại phiên tòa thẩm, nguyên đơn đề
nghị Hội đồng xét xthẩm áp dụng lãi suất theo quy định của Điều 306 Luật
Thương mại, nguyên đơn yêu cầu mức lãi suất là 9,25%/năm, thấp hơn lãi thực
của Ngân hàng.
+ Đối với yêu cầu phản tố của EVN về việc phạt 8% giá trị chuyến hàng
của than không đạt chuẩn:
Căn cứ Mục 2 Phụ lục 3 Hợp đồng số 04 Hợp đồng sửa đổi bổ sung
ngày 01/02/2018 thì: “Trong trường hợp than không phù hợp, bên mua có quyền
phạt bên bán 8% giá trị chuyến hàng theo giá trị hóa đơn phát hành cho lần
thanh toán Đợt 1 của hàng tương ứng than không đạt chuẩn lựa chọn
các giải pháp sau:
a. Từ chối nhận hàng, trả lại cho Bên bán và tất cả các chi phí phát sinh
liên quan đến việc trả lại hàng sẽ do Bên bán chịu
b. Hoặc chấp nhận lô hàng thanh toán giá hóa đơn chiết khấu...”
Tổng schuyến than không đạt chuẩn 26 chuyến mà EVN đã phạt
DIC với tổng số tiền 84.803.868.229đ hiện nay EVN yêu cầu phản tố
phạt 8% theo thỏa thuận tại Hợp đồng số 04 với số tiền 70.293.423.349đ
không căn cứ EVN không thể vừa khấu trừ số tiền than không đạt chuẩn,
vừa phạt 8% giá tr chuyến hàng của than không đạt chuẩn, việc phạt này là trái
với quy định tại Điều 301 Luật Thương mại 2005 không quá 8% giá trị phn
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Như vậy, EVN đã phạt vi phạm chất lượng vượt
quá 8% giá trị phần nghĩa vhợp đồng bị vi phạm; do đó, DIC không đồng ý
với yêu cầu này đề nghị EVN phải trả lại số tin EVN đã phạt vượt
14.510.444.880đ.
Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của DIC thì đề nghị
Tòa án tuyên toàn bộ số tiền EVN phải thanh toán cho DIC chuyển về số tài
khoản 31010002388002 của Công ty C phần Đầu và Thương mại DIC tại
Ngân hàng TMCP Đầu Phát triển Việt Nam Chi nhánh Thành phố H
Chí Minh.
9
- Bđơn Tập đoàn ĐL Việt Nam (EVN) thông qua người đại diện hợp
pháp trình bày:
EVN thống nhất với trình bày của DIC về việc kết Hợp đồng số 04,
Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 01/02/2018 và Phụ lục Hợp đồng ngày
26/3/2018.
+ Đối với các nội dung khởi kiện của nguyên đơn DIC, EVN ý kiến
và có yêu cầu phản tố như sau:
Tại Mục 1 Phụ lục 1, Mục 2 Phụ lục 3, Mục C.2 Phụ lục 5 của Hợp đồng
số 04 Mục 8 Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 01/02/2018 thì trường hợp than
không đạt tiêu chuẩn, bên mua quyền phạt bên bán 8% giá trị chuyến hàng
theo giá trị hóa đơn phát hành cho lần thanh toán Đợt 1 của hàng tương ứng
với than không đạt tiêu chuẩn.
Qua tổng hợp thực tế theo chứng tgiám định tại Cảng dỡ VT, 26
chuyến hàng vi phạm tiêu chuẩn chất lượng các chuyến hàng số 1, 3, 4, 5, 6,
7, 8, 9, 12, 14, 16, 18, 19, 20, 21, 23, 24, 26, 28, 29, 30, 31, 32, 34, 35, 37.
Trong quá trình thanh toán, EVN đã cân đối, thông báo cho DIC và giữ lại số
tiền 70.293.423.349đ để đảm bảo đủ tỷ lệ phạt 8% theo quy định hợp đồng.
Ngày 20/8/2019, EVN đã tổ chức hp với đại diện DIC đề nghị DIC tuân
thủ các quy định của hợp đồng về tỷ lệ phạt vi phạm chất lượng do than không
đúng tiêu chuẩn. Tuy nhiên, DIC không chấp nhận áp dụng mức phạt 8% cho tất
cả các chuyến hàng vi phạm và kiến nghị EVN xem xét giá trị phạt chỉ
40.245.165.652đ, trong đó 13 chuyến ng than vi phạm thông số lớn phạt
8%, còn 13 chuyến chỉ vi phạm nhỏ thì áp dụng tỷ lệ phạt 0.5-5%.
Tại Báo cáo kiểm toán hoạt động xây dựng quản lý, sử dụng vốn đầu
Dự án Nhà máy nhiệt điện VT, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị EVN tính
toán, thống nhất với ncung cấp về gtrị các khoản phạt, bao gồm cả khoản
phạt 8% giá trị chuyến hàng sai quy cách để quyết toán hợp đồng theo quy định.
vậy, việc phạt chất lượng do than không đúng tiêu chuẩn đã được
DIC EVN thỏa thuận, thống nhất vào thời điểm kết hợp đồng với tỷ lệ
phạt 8%, DIC đã thừa nhận ở các Biên bản họp ngày 11/6/2019 và ngày
10/9/2019 nên không có cơ sở để chấp thuận tỷ lệ phạt thấp hơn 8% như đề nghị
của DIC.
Căn cứ vào quy định của Hợp đồng, tổng khoản phạt vi phạm mà Liên
danh phải thanh toán cho EVN liên quan đến 26 chuyến hàng than không đạt
tiêu chuẩn là 70.293.423.349đ.
10
Do đó, EVN có yêu cầu phản tố, đề nghị Tòa án yêu cầu Liên danh thanh
toán cho EVN số tiền phạt vi phạm Hợp đồng là 70.293.423.349đ.
+ Về tiền mua than EVN còn nợ DIC 48.303.665.456đ tiền dôi nhật
ngày tàu 35.500.627.376đ là đúng, không tranh chấp, nhưng EVN gi lại để
khấu trừ với khoản phạt chất lượng do than không đạt tiêu chuẩn Liên danh
DIC-INI SGE-VLHN nghĩa vụ chi trả cho EVN theo Hợp đồng s04 như
yêu cầu phản t nêu trên.
+ Về chi phí mớn nước 118.365.317.002đ:
Tại Điều 5, Mục 5.1 Phụ lục 2, Phlục 09 của Hợp đồng số 04 cho thấy
các chỉ dẫn về mớn nước dự kiến tại Cảng dỡ đã được EVN cung cấp trong hợp
đồng, tuy nhiên nhà thầu được yêu cầu khảo sát kỹ các thông tin cần thiết tại khu
vực Cảng dỡ (bao gồm thông tin mớn nước) để bố trí tàu tải trọng phù hợp
cho vận chuyển than.
Hợp đồng quy định trách nhiệm xin phép cho tàu o cảng của nhà
thầu. Theo đó, để được phép vào cảng dỡ, tàu vận chuyển than của nhà thầu sẽ
phải đảm bảo các yêu cầu về tải trọng, mớn nước theo thực tế luồng vào tại
Cảng dỡ. Trường hợp nhà thầu bố trí tàu quá tải so với khả năng đáp ng tại
Cảng dỡ thì các chi phí phát sinh do phải san tải tàu sẽ do nhà thầu chi trả.
Hợp đồng không quy định về trách nhiệm của Bên mua phải chịu phạt do
không đảm bảo mớn nước theo các thông tin đã được chỉ dẫn trong hợp đồng.
Hiện nay, DIC đang đề nghị EVN hỗ trợ chi phí vận chuyển để đắp
các chi phí chênh lệch cước, cước khống, chi phí thuê gầu ngoạm tại cảng xếp,
chênh lệch giá hàng tương đương 118.365.317.00. Đề nghị này không căn
cứ theo các quy định của Hợp đồng quy định của pháp luật. EVN một
doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, mọi khoản chi đều phải thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật nên EVN không chấp thuận đề nghị hỗ trợ chi pmớn
nước do Hợp đng số 04 không có quy định về vấn đề này.
+ Về phạt 8% giá trị hợp đồng do chậm thời hạn thanh toán:
Tại Mục 3 Phụ lục 11 Hợp đồng số 04 quy định trong trường hợp chậm
thanh toán, bên lỗi phải thanh toán cho bên còn lại một khoản chậm thanh
toán. Tuy nhiên, EVN hoàn toàn không lỗi, việc giữ lại tiền hàng đây là
hợp đồng song vụ căn cứ theo Điều 346 412 Bộ luật Dân sự, EVN quyền
cầm giữ khoản tiền hàng phí dôi nhật ngày tàu để trừ với các nghĩa vụ
khác của DIC, không phải một khoản chậm thanh toán. Do đó, DIC yêu cầu
áp dụng chế tài phạt chậm thanh toán là không có cơ sở.
11
Đồng thời, DIC cũng xác định sai thời điểm hình thành hồ sơ thanh toán
hợp lệ. EVN đã thanh toán đúng hạn cho hu hết các chuyến hàng, thậm chí còn
ứng trước nhiều đợt cho DIC. Do đó, DIC yêu cầu tính lãi chậm thanh toán cho
tiền hàng là không có căn cứ.
+ V tiền lãi chậm thanh toán theo mức lãi suất 9,25%/năm:
DIC yêu cầu áp dụng mức lãi suất 9,25%/năm nhưng không đưa ra
chứng cứ chứng minh để áp dụng mức lãi suất trên, EVN nhận thấy mức lãi suất
trên không có cơ sở để áp dụng. Như đã nêu, EVN không có lỗi trong việc chậm
thanh toán. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu này của DIC. Nếu giả
sử cho rằng EVN chuyến nào chậm thanh toán thì mức lãi suất cũng chỉ áp
dụng theo tiền gửi ngắn hạn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, kỳ hạn 01
tháng hoặc ch là 1,9%/năm.
EVN đề nghị Tòa án bác bỏ toàn b yêu cu ca DIC, tr yêu cu v tin
hàng 48.303.665.456đ và tin pht dôi nht ngày tàu 35.500.627.376đ; buộc
Liên danh phải thanh toán cho EVN s tin pht vi phm hợp đồng tr giá
70.293.423.349đ. Sau khi khấu trừ s tin pht vi phạm hợp đồng với tin pht
dôi nht ngày tàu, EVN s thanh toán s tin còn lại là 13.510.869.483đ.
- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty PT. S.G.E. thông qua người đại diện hợp pháp trình bày:
Công ty PT. S.G.E. (viết tắt là SGE) thống nhất với trình bày của DIC về
việc ký kết Hợp đồng số 04, Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 01/02/2018 và Phụ
lục Hợp đồng ký ngày 26/3/2018. SGE đã ủy quyền cho DIC đứng ra khởi kiện,
SGE thống nhất với trình bày của DIC, không yêu cầu trong vụ án này; đề
nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca DIC.
2. Công ty C phần VL Nội thông qua người đại diện hợp pháp trình
bày:
Công ty Cphần VL Nội thống nhất với trình bày của DIC vviệc
kết Hợp đồng số 04, Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 01/02/2018 Phụ lục
Hợp đồng ngày 26/3/2018. Công ty Cphần VL Nội đã y quyền cho
DIC đứng ra khởi kiện, Công ty Cphần VL Nội thống nhất với trình bày
của DIC, không yêu cầu trong vụ án này; đề nghị Tòa án chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của DIC.
3. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu và Phát triển Việt Nam
(BIDV) thông qua người đại diện hợp pháp trình bày:
DIC có vay vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - Chi nhánh Thành phố H Chí Minh theo các Hợp đồng tín dụng số
12
01/2014/1596656/HĐTD ngày 14/5/2014 số 01/2019/1596656/HĐTD ngày
08/8/2019. DIC đã thế chấp cho BIDV các khoản phải thu của DIC phát sinh từ
Thỏa thuận giữa DIC PT. S.G.E. Công ty Cổ phần VL Nội Hợp đồng
số 04/2017/HĐMB ngày 28/3/2017 giữa DIC PT. S.G.E. Công ty Cổ
phần VL Hà Nội với EVN.
Tính đến ngày 15/10/2022, DIC còn nợ BIDV stiền 736.261.810.338đ,
trong đó bao gồm 584.020.623.436đ nợ gốc, 152.225.736.252đ nợ lãi quá hạn
và 15.450.650đ lãi phạt.
DIC đã khởi kiện EVN do EVN vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Hợp
đồng số 04/2017/HĐMB ngày 28/3/2017 tại Tòa án nhân dân tỉnh Rịa
Vũng Tàu. BIDV đồng ý với yêu cầu khởi kiện của DIC, không yêu cầu độc
lập đối với ai trong v án này. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
DIC. Trong trường hợp phát sinh tranh chấp liên quan đến các hợp đồng tín
dụng nêu trên thì BIDV sẽ khởi kiện bằng mt vụ án khác.
Tại phiên toà thẩm: Nguyên đơn rút một phần đối với yêu cầu phạt
8% vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số: 01/2024/KDTM-ST ngày
04/01/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã quyết định:
1. Đình chỉ giải quyết phần yêu cầu của nguyên đơn Công ty Cphần
Đầu Thương mại DIC về số tiền phạt 8% vi phạm nghĩa vụ thanh toán
19.608.741.159đ (mười chín tỷ, sáu trăm lẻ tám triệu, bảy trăm bốn mốt nghìn,
một trăm năm mươi chín đồng).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Công ty C
phần Đầu tư và Thương mại DIC đối với bị đơn là Tập đoàn ĐL Việt Nam:
2.1. Tập đoàn ĐL Việt Nam phải thanh toán cho Công ty Cphần Đầu
Thương mại DIC - đại diện cho Liên danh Công ty Cphần Đầu tư
Thương mại DIC, PT.S.G.E., Công ty C phần VL Nội số tiền
220.348.098.290đ (hai trăm hai mươi tỷ, ba trăm bốn mươi tám triệu, không
trăm chín mươi tám nghìn, hai trăm chín mươi đồng), gồm các khoản sau đây:
+ Tiền hàng bị đơn chưa thanh toán 48.303.665.456đ (bốn mươi tám
tỷ, ba trăm lẻ ba triệu, sáu trăm sáu mươi lăm nghìn, bốn trăm năm mươi sáu
đồng),
+ Tiền dôi nhật 35.500.627.376đ (ba mươi lăm tỷ, năm trăm triệu, sáu
trăm hai mươi bảy nghìn, ba trăm bảy mươi sáu đồng),
13
+ Tiền được hoàn lại 14.510.444.880đ (mười bốn tỷ, năm trăm mười
triệu, bốn trăm bốn mươi bốn nghìn, tám trăm tám mươi đồng) do bị phạt than
không đảm bảo chất lượng vượt quá 8%,
+ Tiền được bồi thường thiệt hại do bị đơn không đảm bảo mớn nước
theo hợp đồng gồm cước vận chuyển 80.959.941.175đ (tám mươi tỷ, chín trăm
năm mươi chín triệu, chín trăm bốn mươi mốt nghìn, mt trăm bảy mươi lăm
đồng) chi phí tăng thêm cho gàu xúc 31.597.211.475đ (ba mươi mốt tỷ,
năm trăm chín mươi bảy triệu, hai trăm mười một nghìn, bốn trăm bảy mươi
lăm đồng). Tổng cộng 112.557.152.650đ (mt trăm mười hai tỷ, năm trăm năm
mươi bảy triệu, một trăm năm mươi hai nghìn, sáu trăm năm mươi đng),
+ Tiền phạt bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền lãi chậm trả
9.476.207.92 (chín tỷ, bốn trăm bảy mươi sáu triệu, hai trăm lẻ bảy nghìn,
chín trăm hai mươi tám đồng).
2.2. Kể tngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu
bên phải thi hành án không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải trả
cho bên được thi hành án số tiền lãi 10%/năm của khoản tiền chậm thi nh án,
tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
3. Toàn bộ số tiền tại Mục 2.1 nêu trên được thanh toán vào tài khoản số
31010002388002 của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC tại Ngân
hàng TMCP Đầu Phát triển Việt Nam Chi nhánh Thành phố H Chí
Minh.
4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
Công ty cổ phần Đầu Thương mại DIC đối với số tiền 36.500.979.256đ
(ba mươi sáu tỷ, năm trăm triệu, chín trăm bảy mươi chín nghìn, hai trăm năm
mươi sáu đồng).
5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Tập đoàn ĐL Việt
Nam về khoản tiền phạt vi phạm chất lượng than 8% 70.293.423.349đ (bảy
mươi tỷ, hai trăm chín mươi ba triệu, bốn trăm hai mươi ba nghìn, ba trăm bốn
mươi chín đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm n quyết định về án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của
pháp luật.
Ngày 17/01/2024, nguyên đơn DIC đơn kháng cáo một phần Bản án
thẩm với nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm, sửa một phần Bản án
thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị
đơn EVN phải trả toàn bộ các khoản tiền bồi thường thiệt hại, bao gồm cả các
14
khoản tiền bồi thường thiệt hại nguyên đơn đã yêu cầu nhưng không được
Tòa án cấp thẩm chấp nhận với tổng số tiền 72.822.435.206đ (bảy mươi
hai tỷ, tám trăm hai mươi hai triệu, bốn trăm ba mươi lăm nghìn, hai trăm lẻ
sáu đồng), cụ thể: Phần bồi thường thiệt do mớn nước không đúng như trong
hợp đồng đã dẫn đến giá than tăng gây thiệt hại với số tiền
42.129.615.301đ + tiền phạt 8% vi phạm hợp đồng về nghĩa vụ thanh toán
tiền lãi chậm trả với số tiền không được Tòa án cấp thẩm chấp nhận
30.692.819.905đ, trong đó khoản phạt 8% do vi phạm hợp đồng vnghĩa vụ
thanh toán với số tiền 12.581.631.785đ, khoản lãi chậm trả (9,25%) với số
tiền là 8.634.980.192đkhoản tiền bị chia đôi, do Tòa án cấp sơ thẩm xác định
lỗi của cả 2 (hai) bên, với số tiền là 9.476.207.928đ.
Ngày 15/01/2024 ngảy 18/01/2024, bđơn EVN đơn kháng cáo
toàn bộ Bản án thẩm với nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án
thẩm theo hướng, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận
toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn về yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng với số
tiền 70.293.423.349 đồng.
Ngày 01/02/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 06/QĐ-VKS-
KDTM đối với một phần Bản án kinh doanh thương mại thẩm số:
01/2024/KDTM-ST ngày 04/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Rịa Vũng
Tàu với nội dung cho rằng:
Số tiền phạt vi phạm hợp đồng về thời hạn thanh toán với mức 8% giá tr
hợp đồng vi phạm mà nguyên đơn được chấp nhận phải là các chuyến: 2, 5, 6, 7,
8, 10, 11, 13, 15, 17, 22, 26a, 26b, 27, 28, 29a, 29b, 30, 34a, 34b, 35, 36, 37
(Đợt 1); Đợt 2 gồm các chuyến: 16, 19, 20; tổng cộng s tiền vi phạm
13.496.350.333đ. Tuy nhiên, tại mục [7.8] của Bản án thẩm về việc xem xét
các chuyến tàu của nguyên đơn cũng như việc thanh toán của bị đơn đã có sự sai
sót đối với các chuyến 5, 6, 10, 11, 13, 15, 17, 23, 24, 26b, 27, 30, 34a, 34b (Đợt
1) và các chuyến: 16, 19, 20 (Đợt 2). Theo đó nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ
chấp nhận đối với số tiền phạt vi phạm 5.100.898.270đ đối với các chuyến,
tàu Đợt 1 gồm: 2, 7, 8, 11, 22, 26a, 26b, 28, 29a, 29b, 30, 32, 35, 36, 37 tính
sai số đối với chuyến 16 không chính xác, gây thiệt hại cho nguyên đơn
8.395.452.063đ.
Đối với yêu cầu buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn
do không đảm bảo về độ sâu luồng (còn gọi mớn nước) của Cảng VT 4 mà bị
đơn đã cam kết tại Hợp đồng số 04, dẫn đến việc nguyên đơn phải thuê tàu nh
cho phù hợp với độ sâu thực tế của luồng hoặc thuê tàu nhưng phải chở non tải
thì mới vào được luồng của Cng VT 4, làm cho giá than, cước phí vận chuyển,
15
bốc xếp than tăng lên, gây thiệt hại cho nguyên đơn. Tòa án cấp thẩm xác
định về các yếu tố lỗi, thiệt hại, hậu quả mối quan hệ nhân quả để chấp nhận
yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn đúng. Tuy nhiên, đối với tiền
chênh lệch giá mua than khi chuyên chở bằng tàu lớn tàu nhỏ (mục [8.7] của
Bản án sơ thẩm) thấy rằng: Quá trình giải quyết sơ thẩm vụ án, nguyên đơn cung
cấp chứng cứ các thư báo gthan của Nhà cung cấp than nước ngoài chưa
được hợp pháp hóa lãnh sự để chứng minh tiền chênh lệch giá mua than khi
chuyên chở bằng tàu lớn và tàu nhỏ. Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng
về việc không tiến hành ủy thác thu thập xác minh tài liệu chứng cứ, cũng như
không yêu cầu nguyên đơn cung cấp bảng giá than của Nhà cung cấp than nước
ngoài được hợp pháp hóa lãnh sự, nhưng lại nhận định các thư báo giá than
của Nhà cung cấp than nước ngoài chưa được hợp pháp hóa lãnh sự nên không
được coi là chứng cứ hợp pháp, từ đó không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
đối với phần thiệt hại do giá than tăng với stiền 42.129.615.301đ gây thiệt hại
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Tuy nhiên, các thư báo giá than Nhà
cung cấp than nước ngoài báo giá than, trong khoảng thời gian từ tháng 3/2017
đến tháng 4/2018, thể hiện đơn giá của hàng cho tàu 20.000 30.000 tấn cao
hơn 2 USD/tấn so với tàu 35.000 50.000 tấn. Do đó, có cơ sở xác định lời trình
bày của nguyên đơn về việc khi mua than chuyên chở bằng tàu cỡ lớn sẽ được
mua với giá thấp hơn, nên đây cũng được coi thiệt hại căn cứ để chấp
nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
các lẽ trên, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghTòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng sửa một phần
Bản án thẩm nđã phân tích nêu trên. (sau đây gọi tắt Quyết định kháng
nghị hoặc Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh).
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn DIC thay đổi một phần yêu cầu kháng cáo, cụ thể DIC yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng buộc bị đơn
EVN phải trả thêm các khoản tiền bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là
51.757.627.555đ (năm mươi mốt tỷ, bảy trăm năm mươi bảy triệu, sáu trăm hai
mươi bảy nghìn, năm trăm năm mươi lăm đồng), trong đó: Phần bồi thường thiệt
do mớn nước không đúng như trong hợp đồng đã ký dẫn đến giá than tăng gây
thiệt hại với số tiền 42.129.615.301đ, nhưng DIC thay đổi kháng o chỉ yêu
cầu EVN phải bồi thường mt nửa với số tiền là 21.064.807.650đ + tiền phạt 8%
vi phạm hợp đồng về nghĩa vụ thanh toán tiền lãi chậm trả với stiền không
được Tòa án cấp thẩm chấp nhận 30.692.819.905đ, trong đó khoản phạt
16
8% do vi phạm hợp đồng về nghĩa vụ thanh toán với số tiền là 12.581.631.785đ,
khoản lãi chậm trả (9,25%) với số tiền 8.634.980.192đ khoản tiền bị chia
đôi do Tòa án cấp thẩm xác định lỗi của cả 2 (hai) với số tiền
9.476.207.928đ.
Bị đơn EVN xác định, ngày 15/01/2024 ngày 18/01/2024, EVN
đơn kháng cáo Bản án thẩm là kháng cáo các quyết định mà Tòa cấp sơ thẩm
đã giải quyết tranh chấp giữa các đương sự trong vụ án nhưng EVN không đồng
ý. Trong quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm, EVN đã đồng ý với khoản
tiền dôi nhật 35.500.627.376đ Bản án thẩm đã quyết định EVN phải thanh
toán cho DIC khoản tiền dôi nhật đúng, EVN không kháng cáo đối với khoản
tiền này.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
đã có Quyết định kháng nghị đối với quyết định của Bản án sơ thẩm không chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn đối với phần thiệt hại do gthan tăng với số tiền
42.129.615.301đ, đề nghị Tòa án nhân n cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
xét xphúc thẩm vụ án theo hướng chấp nhận nhận yêu cầu của nguyên đơn,
buộc bị đơn EVN phải thanh toán cho nguyên đơn DIC toàn bộ số tiền này. Tuy
nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm
trình bày, do nguyên đơn DIC thay đổi kháng cáo đối với số tiền thiệt hại do
giá than tăng nên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh cũng có sự thay đổi một phần Quyết định kháng nghị cho phù hợp, cụ
thể: Kháng nghị đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên
đơn, buộc bị đơn EVN phải thanh toán cho nguyên đơn DIC một nửa phần thiệt
hại do giá than tăng với s tiền cụ thể là 21.064.807.650đ.
- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn DIC trình bày tranh luận với
nội dung:
Toàn bộ nội dung yêu cầu kháng o của bị đơn EVN không sở
nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của EVN.
Kháng cáo của nguyên đơn DIC Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (sau khi đã được thay đổi) phù
hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án phù hợp với quy định pháp luật nên
đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận để bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn.
- Người đại diện hợp pháp của bị đơn EVN các Luật bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của EVN đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận ý
kiến chi tiết tóm tắt bảng tính đã trình các thành viên Hội đồng xét xử, do
17
phía bị đơn vẫn ginguyên không thay đổi ý kiến, tại phiên tòa phúc thẩm xin
trình bày các quan điểm chính kháng cáo của bị đơn đối với Bản án sơ thẩm, cụ
thể như sau:
+ Đối với quyết định của Bản án thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn DIC về việc bị đơn EVN phải trả lại 14.510.444.880đ số tiền phạt vi
phạm chất lượng than DIC đã trả vượt quá 8%; không chấp nhận giải quyết yêu
cầu phản tố của bị đơn EVN về phạt nguyên đơn mức 8% do vi phạm về chất
lượng than, bị đơn tranh luận với nội dung như sau;
Nguyên đơn và Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng, quy định tại Mục 2 Phụ lục
3 của Hợp đồng số 04 Hợp đồng sửa đổi bổ sung ký ngày 01/02/2018 phần
Bảng giá điều chỉnh giá quy định về trường hợp than không đúng quy cách,
không phù hợp, nội dung chứa đựng việc một than vi phạm chất lượng bị
xử lý hai lần, vừa bị phạt 8%, vừa bị giảm trừ giá, là đánh tráo khái niệm, không
đáp ứng được các tiêu chí của Luật Thương mại. đối chiếu quy định tại điều,
khoản này thì số tiền phạt 8% về chất lượng than là khoản độc lập, riêng biệt với
khoản điều chỉnh giá than theo chất lượng thực tế. Khi Hợp đồng, các bên
đều nhận thức là trong trường hợp than không đạt chất lượng thì bên mua
quyền phạt 8% giá tr chuyến hàng do giao không đạt chất lượng quyền
lựa chọn 01 (một) trong 02 (hai) giải pháp không nhận hàng hoặc nhận
hàng nhưng tính lại giá trị than và thanh toán tiền theo chất lượng than thực tế.
Quy định này đã được DIC áp dụng y nguyên thành các điều, khoản tương tự
quy định trong Hợp đồng mua bán than với bên nước ngoài Indonesia. Thực tế,
trong vụ án này, đối với 26/37 chuyến than các bên xác định không đạt chất
lượng, nguyên đơn đã chđộng ttính toán giảm trừ 84.803.868.229đ so với
than đảm bảo chất lượng theo Hợp đồng; đồng thời, về khoản phạt 8% giá tr
chuyến hàng không đạt chất lượng, nguyên đơn cũng tự nguyện chịu phạt với
tổng số 40.245.165.652đ (không đủ 8%) với do những chuyến vi phạm
chất lượng than ít nên xin được phạt t1-2%. Tại phiên tòa phúc thẩm, người
đại diện hợp pháp của nguyên đơn cho rằng, EVN ép DIC đồng ý chịu phạt
số tiền 40.245.165.652đ như trên không đúng. Bị đơn không đồng ý stiền
40.245.165.652đ cho khoản phạt 8% giá trị chuyến hàng không đạt chất lượng
do cấp trên không đồng ý, trong khi đó quy định về khoản phạt này đã được 02
(hai) bên thỏa thuận và ghi trong Hợp đồng là 8%, đến nay không có cơ chế nào
để thay đổi; thêm nữa, Dự án Nhà máy nhiệt điện VT dự án 100% vốn Nhà
nước, tại Báo cáo kiểm toán hoạt động xây dựng và quản lý, sử dụng vốn đầu tư
Dự án này, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị EVN tính toán, thống nhất với nhà
cung cấp về giá trị các khoản phạt, bao gồm cả khoản phạt 8% giá trị chuyến
hàng sai quy cách để quyết toán hợp đồng theo quy định. Do đó, bị đơn yêu cầu
18
nguyên đơn phải chịu phạt với số tiền 70.293.423.349đ (đủ 8% giá trị chuyến
hàng do giao không đạt chất lượng) là đúng theo quy định.
Thêm nữa, trong vụ án này, không đương sự nào yêu cầu Tòa án
tuyên nội dung quy định tại Mục 2 Phụ lục 3 của Hợp đồng số 04 Hợp đồng
sửa đổi bổ sung ký ngày 01/02/2018 phần Bảng giá và điều chỉnh giá quy định
về trường hợp than không đúng quy cách, không phù hợp, không hiệu lực.
Thế nhưng, Tòa án cấp thẩm lại tuyên điều khoản này không hiệu lực
vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự, không đúng quy định pháp luật về tố
tụng, vi phạm khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do stiền phạt 8% vchất lượng than một khoản độc lập, riêng biệt
với khoản điều chỉnh gthan theo chất lượng thực tế, nên yêu cầu của nguyên
đơn DIC về việc bị đơn EVN phải trả lại 14.510.444.880đ (nằm trong số tiền
84.803.868.229đ giảm trừ do điều chỉnh giá than theo chất lượng thực tế 26
chuyến không đảm bảo chất lượng) là không có s.
Với các tài liệu, chứng cứ như trên đủ sở khẳng định, quyết định
của Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn DIC về việc bị đơn
EVN phải trả lại 14.510.444.880đ với do đây số tiền phạt vi phạm chất
lượng than DIC đã trả vượt quá 8%; không chấp nhận giải quyết yêu cầu phản tố
của bị đơn EVN về phạt nguyên đơn mức 8% do vi phạm về chất lượng than với
số tiền 70.293.423.349đ, là không đúng quy định pháp luật.
+ Đối với yêu cầu của nguyên đơn DIC về việc bị đơn EVN phải chịu
phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán chịu lãi chậm thanh toán, bị đơn tranh luận
với nội dung như sau;
DIC đã cung cấp cho EVN tổng khối ợng than qua 37 chuyến hàng
được vận chuyển bằng tàu biển đã nhận của EVN tổng số tiền
1.153.386.884.954đ. Vì DIC là nhà thầu duy nhất được chọn cung cấp than chạy
thử Nhà máy nhiệt điện VT 4 nên EVN luôn phải bố trí dòng tiền đảm bảo DIC
đủ để cung cấp than nên 37 chuyến hàng này đều được EVN thanh toán gối đầu
nhau. Theo bảng tính toán thì trong các lần thanh toán, EVN chưa bao giờ thanh
toán thiếu. Đối chiếu hồ thanh toán của 37 chuyến hàng thhiện, chính DIC
là bên đã lập toàn bộ các hồ sơ thanh toán của 37 chuyến hàng này, không hề có
sự ép buộc nào, hồ sơ đều đã được người đại diện theo pháp luật của DIC rồi
chuyển EVN thanh toán theo các ủy nhiệm chi cộng dồn 1.153.386.884.954đ.
Thực tế, từ 16/01/2019 tới 22/01/2019 xuất hiện một số yêu cầu chậm thanh
toán, nhưng EVN đã thanh toán trừ vào tháng 5/2019 (phần màu hồng
trong biểu đồ EVN đã nộp). Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng: “Ngoài ra, trong quá
trình thực hiện Hợp đồng số 04, nguyên đơn có lúc sai sót trên tài liệu của hồ sơ
19
thanh toán nên phải chỉnh sửa, đồng thời đã thống nhất với bị đơn về vấn đề giá
trị thanh toán phải giảm trừ chất lượng than nên cũng những căn cứ để xác
định mốc thời gian hồ thanh toán được coi là hợp lệ (các BL 3511-3641 tập
32; 3790, 3794 - 3798, 3817, 3822 tập 34)”, sai quy định pháp luật. Như vậy,
EVN không chậm thanh toán thì không thể việc phát sinh lãi chậm trả. Thiệt
hại này do DIC tự tính toán sai t chưa kinh nghiệm. Các cáo buộc về
phần này của nguyên đơn hoàn toàn sai lệch so với hthanh toán, EVN
không thể thanh toán những DIC không yêu cầu EVN không vi phạm.
Tính đúng ra thì DIC phải chịu phạt 8% do vi phạm về chất lượng than với số
tiền 70.293.423.349đ bù trừ đi số tiền EVN chưa thanh toán 48.303.665.456đ thì
DIC vẫn còn nợ EVN.
Thêm nữa, theo quy định của Luật Thương mại thì mức phạt vi phạm
hợp đồng phải được các bên thỏa thuận trong Hợp đồng, nhưng Tòa án cấp
thẩm không chấp nhận tỷ lệ phạt chậm thanh toán tương ứng với lãi suất huy
động vốn ngắn hạn của VCB đã được 02 (hai) bên thỏa thuận trong Hợp đồng số
04, không đúng quy định pháp luật. Tòa án cấp thẩm còn cho rằng, phần
cam kết của hai n về tỷ lệ phạt chậm thanh toán tương ứng với lãi suất huy
động vốn ngắn hạn của VCB tại thời điểm thanh toán trong Hợp đồng số 04
không hiệu lực, cũng vi phạm pháp luật về tố tụng dân sự trong vụ án
này không có đương sự nào yêu cầu Tòa án tuyên phần này không có hiệu lực.
Mặt khác, Tòa án cấp thẩm còn cho rằng: “Đối với việc nguyên đơn
yêu cầu bị đơn phải chịu lãi chậm trả ngoài mức phạt vi phạm nêu trên đối với
một số chuyến hàng cũng được xem xét bởi theo quy định của khoản 2 Điều
307 Luật Thương mại, bên bị vi phạm quyền yêu cầu c phạt vi phạm yêu
cầu bồi thường thiệt hại sai lầm. Tòa án cấp thẩm đã đồng nhất yêu
cầu lãi chậm trả (quyền bên bvi phạm) với bồi thường thiệt hại (bồi thường tổn
thất thực tế), nhưng đây 02 (hai) chế định pháp luật khác nhau, độc lập với
nhau. Hơn nữa, EVN không chậm thanh toán thì không việc phát sinh lãi
chậm trả và cũng không có việc đền bù thiệt hại do chậm thanh toán được.
Vtố tụng, Tòa án cấp thẩm giải quyết yêu cầu của nguyên đơn DIC
về việc bị đơn EVN phải chịu phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán và chịu lãi chậm
thanh toán mà nguyên đơn tính 9,25%, trong khi hồ không có thông báo thụ
đóng tạm ứng án phí đối với yêu cầu này của nguyên đơn, đây cũng thuộc
trường hợp xét xử vụ án nằm ngoài phạm vi yêu cầu của nguyên đơn, vi phạm
thủ tục tố tụng quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Với các tài liệu, chứng cứ như trên đủ skhẳng định, Tòa án cấp
thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, quyết định bị
đơn phải thanh toán cho nguyên đơn khoản tiền phạt bị đơn vi phạm nghĩa v
20
thanh toán tiền lãi chậm trả với tổng số tiền 9.476.207.928đ, không đúng
quy định pháp luật.
+ Đối với cáo buộc của nguyên đơn về thiệt hại liên quan đến mớn nước,
bị đơn tranh luận với nội dung như sau;
Từ lúc mời thầu cho tới khi đàm phán và ký Hợp đồng số 04, EVN có đề
cấp đến độ sâu của luồng vào Cảng VT, nhưng đây không phải cam kết,
không phải nghĩa vụ của EVN như Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định. Trong Hợp
đồng số 04 ghi quy định phía nguyên đơn nghĩa vụ phải bố trí các
phương tiện vận chuyển phù hợp với tình hình mực nước tại cảng và nhu cầu đặt
hàng của EVN; tuân thủ các điều kiện bốc dỡ theo hồ mời thầu hoặc bằng
một văn bản chính thức khác. Ngày 17/5/2017, hai bên Biên bản làm việc về
vấn đề này, bị đơn cũng xác nhận độ sâu luồng tại Cảng VT 4 thời điểm đó
7,9m. Toàn bộ Hợp đồng số 04, không dòng nào nói nguyên đơn phải dùng
tàu to hay tàu nhỏ, chỉ Phụ lục 03 nói chi phí vận chuyển chi phí cố định
6,2USD/tấn, chỉ điều chỉnh giá theo chỉ sthan của thị trường quốc tế. Theo
quy định của Luật Đấu thầu thì Doanh nghiệp Nnước rất e ngại việc điều
chỉnh chi phí cố định. Vì đấu thầu trong trường hợp này là đấu thầu rộng rãi, nếu
chi phí cố định điều chỉnh các nhà thầu khác không trúng thầu thời điểm đó
sau này thể sẽ kiện bị đơn. Về việc sắp xếp tàu thì nguyên đơn phải khảo sát,
xem xét toàn bộ chi phí nguyên đơn phải chịu. Nguyên đơn cố tình chào giá
6,2USD/tấn thấp xuống để trúng thầu, đây là chi phí cố định và không được thay
đổi suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Trong hồ mời thầu sut quá trình
đàm phán kết hợp đồng, EVN đều nói khi tàu không vào được cảng, phải tổ
chức san tải, toàn bộ chi phí này nhà thầu DIC phải chịu. Và thực tế DIC đã chịu
nên đã tự ý đổi qua tàu nhỏ, nhưng do họ tính toán sai, tàu nhỏ phải đi thuê gàu
xúc, làm cho chi phí tăng thêm thì đây là việc của nguyên đơn.
Đối với cước phí vận chuyển, DIC mời giá 6,2USD/tấn giá để thắng
thầu, lựa chọn của DIC, nên chi ptăng thêm 2,5USD/tấn hay bao nhiêu thì
cũng không phải là thiệt hại, nên DIC phải chịu.
Đối với giá than, DIC cho rằng tàu nhỏ nên phát sinh thêm tiền do
phải mua than với giá cao không đúng, vì giá than điều chỉnh theo chỉ số
biến động của thị trường than thế giới. Trong quá trình giải quyết ván giai
đoạn phúc thẩm, nguyên đơn bổ sung hồ sơ, tài liệu hợp thức hóa lãnh sự
chứng minh cho yêu cầu này thì cũng chỉ là hồ sơ, tài liệu của 11 chuyến, không
thể đại diện cho toàn bộ 37 chuyến hàng EVN đều đã thông báo điều kiện
cảng trước khi giao hàng.
Tóm lại, toàn bộ các chí phí tăng thêm về tiền vận chuyển, tiền gàu xúc
21
tiền mua than đều nằm trong chi phí của DIC trong việc thực hiện Hợp đồng
số 04 chứ không phải thiệt hại. Quá trình thực hiện Hợp đồng số 04, DIC chưa
bao giờ cho rằng các khoản chi phí nêu trên thiệt hại chxin hỗ trợ, tại
phiên tòa thẩm thì DIC mới thay đổi cho thiệt hại yêu cầu EVN bồi
thường các khoản tiền này. Tòa án cấp thẩm xác định đây bồi thường thiệt
hại, nhưng nội dung này cũng không có thông báo thụ lý và đóng tạm ứng án phí
của nguyên đơn vi phạm thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp
pháp của bị đơn.
Với các tài liệu, chứng cứ như trên đủ sở khẳng định, Tòa án cấp
thẩm quyết định, bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn khoản tiền bồi
thường thiệt hại do bị đơn không đảm bảo mớn nước theo hợp đồng gồm cước
vận chuyển 80.959.941.175đ và chi phí tăng thêm cho gàu xúc 31.597.211.475đ;
tổng cộng 112.557.152.650đ, là không đúng quy định pháp luật.
Cũng với các tài liệu, chứng cứ như trên đủ skhẳng định, kháng
cáo của nguyên đơn DIC Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh với nội dung cho rằng, do bị đơn không
đảm bảo về mớn nước nên khi mua than DIC phải chuyên chở bằng tàu cỡ nhỏ
phải mua với giá cao phát sinh thêm 42.129.615.301đ, đây cũng được coi
thiệt hại cho DIC, không đúng. vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm
không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn DIC không chấp nhận Kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh đối với nội dung này.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm của
Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xcác
đương sự mặt tại phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật T
tụng dân sự.
Về kháng cáo của nguyên đơn DIC, kháng cáo của bị đơn EVN
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành ph Hồ
Chí Minh;
Sau khi phân tích, đánh giá các i liệu, chứng cứ trong Hồ vụ án,
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm
chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (sau khi đã được thay đổi), chấp nhận một phn
kháng cáo của nguyên đơn DIC (sau khi đã được thay đổi) chấp nhận một
phần kháng cáo của bị đơn EVN, sửa bản án sơ thẩm theo hướng:
22
Ngoài khoản tiền dôi nhật 35.500.627.376đ được các bên thống nhất
thừa nhận và EVN phải thanh toán cho DIC, đối với khoản tiền hàng EVN chưa
thanh toán cho DIC được 02 (hai) bên đã thống nhất xác nhận với số tiền
48.303.665.456đ do phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm buộc EVN phải thanh toán khoản tiền này cho DIC.
Đối với các khoản tiền nguyên đơn DIC yêu cầu EVN bồi thường thiệt
hại, gồm: Tiền bồi thường thiệt hại do EVN không đảm bảo mớn nước theo hợp
đồng được xác định 112.557.152.650đ (trong đó, cước vận chuyển
80.959.941.175đ chi phí tăng thêm cho gàu xúc là 31.597.211.475đ); tiền
phạt EVN vi phạm nghĩa vụ thanh toán và tiền lãi chậm trả được xác định
27.347.867.920đ; tiền bồi thường thiệt hại, do EVN không đảm bảo mớn nước,
DIC phải tàu cỡ nhỏ chuyên chở nên phải mua than với giá cao phát sinh thêm
được xác định là 42.129.615.301đ. Nhận thấy các bên xác định chưa trách
nhiệm về mớn nước trong quá trình ký kết và thực hiện Hợp đồng số 04 là do lỗi
ngang nhau của 02 (hai) bên DIC EVN nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm quyết định, nguyên đơn DIC bị đơn EVN, mỗi bên đương sự phải chịu
một nửa các khoản tiền nguyên đơn DIC yêu cầu bị đơn EVN bồi thường thiệt
hại các khoản tiền nêu trên.
Đối với yêu cầu của nguyên đơn DIC về việc EVN phải trả lại
14.510.444.880đ số tiền phạt vi phạm chất lượng than DIC đã trả vượt quá
8% và yêu cầu phản tố của bị đơn EVN vphạt DIC mức 8% do vi phạm v
chất lượng than, nhận thấy: Trước đây, tại Biên bản họp ngày 29/11/2017
ngày 13/12/2017, tổng số tiền EVN giảm trừ của 26 chuyến vi phạm chất
lượng than vào số tiền EVN phải thanh toán cho DIC là 84.803.868.229đ nên số
tiền EVN chưa thanh toán cho DIC còn 48.303.665.456đ. Đồng thời, tại Biên
bản họp ngày 19/12/2018, DIC EVN đã thống nhất tỷ lệ phạt cho từng
chuyến than, tổng cộng số tiền phạt hai bên đã chấp nhận là 40.245.165.652đ. Vì
vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn DIC về việc EVN phải trả lại 14.510.444.880đ; chấp nhận một phần yêu cầu
phản tố của bị đơn EVN, phạt DIC mức 8% do vi phạm vchất lượng than với
số tiền 40.245.165.652đ, theo như sự thống nhất ca 02 (hai) bên tại các biên
bản họp nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Đơn kháng cáo của nguyên đơn DIC đơn kháng o của bị đơn EVN
nộp trong thời hạn đúng thủ tục theo quy định pháp luật; Quyết định kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H Chí
Minh đúng thẩm quyền thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
nên hợp lệ.
23
Xét việc thay đổi một phần nội dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn
DIC một phần nội dung yêu cầu Kháng nghị ca Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, tại phiên tòa phúc thẩm, nằm
trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, phù hợp với quy định tại khoản 2
Điều 284 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kháng cáo của nguyên đơn DIC và Kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H Chí
Minh (sau khi đã được thay đổi tại phiên a phúc thẩm) được Hội đồng xét xử
phúc thẩm chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm cùng với kháng cáo của bị
đơn EVN (sau đây gọi kháng cáo của nguyên đơn hoặc kháng cáo của
nguyên đơn DIC, kháng cáo ca bị đơn hoặc kháng cáo của bị đơn EVN, Quyết
định kháng nghị hoặc Kháng nghcủa Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh).
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ ván đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án cấp thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật
tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền và thủ tục theo quy định
của Bộ luật T tụng dân sự.
[2] Về nội dung, trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự thống
nhất xác định:
Liên danh Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC (DIC) + Công ty
PT.Summer Global Energy + Công ty Cổ phần VL Nội, đại diện DIC
Tập đoàn ĐL Việt Nam (EVN), đại diện Ban Quản nhiệt điện VT Chi
nhánh Công ty TNHH Một thành viên Tổng Công ty Phát điện 3 đã Hợp
đồng số 04/2017/HĐMB ngày 28/3/2017 kèm theo 14 Phụ lục hợp đồng và Hợp
đồng ngày 01/02/2018 để sửa đổi, bổ sung Hợp đồng số 04, kèm theo 1 phụ lục
hợp đồng ngày 26/3/2018 về việc DIC bán cho EVN than nhập khẩu phục v
chạy thử, nghiệm thu Nhà máy nhiệt điện VT 4. Theo đó, DIC cung cấp 922.450
tấn than cho EVN tại Cảng VT 4 BT số than này được giao thành 02 đợt,
trong đó Đợt 1: 645.715 tấn than Sub-Bitum; Đợt 2: 276.735 tấn than Bitum;
tổng giá trị hợp đồng 1.084.672.057.000 đồng, (các BL 429 - 585 tập 3). Tòa
án cấp thẩm xác định, nội dung hợp đồng các bên đã trên sở tự
nguyện, hợp đồng do người đại diện hợp pháp của các n hình thức hợp
đồng phù hợp với quy định tại Điều 24, 25 Luật Thương mại, là đúng.
Thực tế, Hợp đồng số 04 đã được DIC thực hiện, DIC đã cung cấp cho
EVN tổng khi lượng than qua 37 chuyến hàng được vận chuyển bằng tàu biển,
giao hàng tại Cảng VT 4 BT và đã được 02 (hai) bên nghiệm thu là 924.914,73
tấn, tổng giá trị tiền EVN phải thanh toán là 1.201.690.550.410đ (đã khấu trừ số
24
tiền 84.803.868.229đ bên mua phạt bên bán vi phạm chất lượng than). Trong
quá trình giải quyết vụ án, DIC và EVN đều thống nhất EVN đã thanh toán cho
DIC với số tiền 1.153.386.884.954đ, số tiền EVN chưa thanh toán còn lại
48.303.665.456đ. Tuy nhiên, cho đến nay, một số điều khoản của hợp đồng
đang tranh chấp nhưng các bên không tự giải quyết được nên DIC đã đơn
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp đối với EVN EVN ng
yêu cầu phản tố yêu cầu a án giải quyết tranh chấp đối với DIC. Tòa án cấp
thẩm đã căn cứ vào các quy định pháp luật liên quan để xem xét giải quyết
các yêu cầu của các đương sự tranh chấp theo các chứng từ cấu thành nên
hợp đồng và thứ tự pháp mà hai bên ưu tiên áp dụng là: Hợp đồng và các Phụ
lục hợp đồng, Biên bản thương thảo hợp đồng, Bản điều kiện cụ thể của hợp
đồng, Thông báo kết quả lựa chọn nhà thầu, Quyết định phê duyệt kết quả lựa
chọn nhà thầu, Bản điều kiện chung của hợp đng, Hồ mời thầu, Hồ dự
thầu, theo đúng như sự thống nhất của DIC và EVN tại Điều 2 của Hợp đồng số
04 (BL 547-549 tập 3).
[3] Về nội dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn DIC, yêu cầu kháng
cáo của bị đơn EVN và Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử phúc thm nhận thấy;
[3.1] Xét kháng cáo của bị đơn EVN cho rằng, độ sâu luồng thực tế ca
Cảng VT 4 trong suốt quá trình thực hiện Hợp đồng s 04 đạt như Hợp đồng
phụ lục của Hợp đồng số 04 hay không trách nhiệm thuộc về DIC, EVN
không có trách nhiệm gì trong việc này, như sau;
[3.1a] Hồ vụ án thể hiện, trước khi DIC EVN Hợp đồng số 04,
EVN đã phát nh Hồ mời thầu, tại Phần 2 về yêu cầu phạm vi cung cấp
Phần 5 về Phụ lục Hợp đồng của Bản yêu cầu đề xuất ký ngày 26/12/2016, EVN
đã nêu thông tin về độ sâu của dòng chảy đến bến, tương tự độ sâu ca luồng
Cảng VT (Cảng dỡ hàng) theo từng thời điểm được thể hiện tại Phụ lục 09 Hợp
đồng số 04 về Điều kiện dỡ hàng, cụ thể: Từ tháng 3-2017: -7,9m; từ tháng 6-
2017: -11,7m; từ tháng 10-2017: -13,5m; từ tháng 3-2018: -15,7m (BL 157, 183,
225 tập 02). Như vậy, đã có đủ cơ sở xác đnh, độ sâu của luồng Cảng VT (Cảng
dỡ hàng) theo từng thời điểm một trong những dữ liệu, điều kiện do EVN đưa
ra để 02 (hai) bên lấy làm một trong những căn cứ để xác lập giá cước vận
chuyển than bằng tàu biển và đã được thể hiện tại Phụ lục 09 Hợp đồng s 04 về
Điều kiện dỡ hàng, nên đây mt trong những yếu tố, nội dung không thtách
rời ca Hợp đồng số 04. Đồng thời, tại Điều 3 của Hợp đồng số 04 nội dung
thỏa thuận về trách nhiệm của bên mua (EVN) phải “Hoàn thành các trách
nhiệm nghĩa vụ của mình được đề cập tại Điều kiện chung Điều kiện cụ
thể của Hợp đồng”. Trong khi đó, tại Mục 1 của Phụ lục 09 Hợp đồng số 04 về
25
Điều kiện dhàng, ngoài việc EVN nêu đsâu của luồng Cảng VT (Cảng dỡ
hàng) từng thời điểm thì EVN còn yêu cầu nguyên đơn phải tuân thvề mớn
nước được chỉ dẫn tại Hợp đồng 04 phải Sdụng tàu trọng tải phù hợp
để vận chuyển than tới cảng tiếp nhận” (BL 481, 547 tập 3). Do đó, Tòa án cấp
thẩm đã đối chiếu với các Thông báo hàng hải từng thời điểm của Tổng công
ty Bảo đảm an toàn ng hải miền Nam để xác định độ sâu thực tế của luồng
vào cảng trong khoảng thời gian DIC cung cấp than cho EVN qua 37 chuyến
hàng được vận chuyển bằng tàu biển, giao hàng tại Cảng VT 4 BT, so với độ
sâu được chỉ dẫn của Hợp đồng số 04 Phlục hợp đồng này, cần thiết.
Thông qua đó, Tòa án cấp thẩm đã xác định, độ sâu thực tế ca luồng Cảng
VT 4 so với độ sâu được chỉ dẫn tại Hợp đồng số 04 và Phụ lục hợp đồng này
kết quả c thể: Ttháng 6/2017 tháng 9/2017, thiếu 3,8m đến 3,9m; ttháng
10/2017 tháng 02/2018, thiếu 3m; ttháng 3/2018 đến khi thực hiện xong hợp
đồng, thiếu 3,5m. Như vậy, đã có đủ cơ sở nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác
định, độ sâu luồng Cảng VT 4 ttháng 6/2017 đến tháng 4/2018 thực tế luôn
thiếu so với chỉ dẫn tại Hợp đồng số 04, là đúng.
[3.1b] Thực tế, trong quá trình thực hiện Hợp đồng số 04, ngay trước khi
thực hiện chuyến hàng đầu tiên, DIC đã n bản trao đối ý kiến với EVN về
việc độ sâu luồng vào cảng chỉ 7,9m, không thể đảm bảo cho tàu tải trọng
30.000 tấn vào làm hàng, phải thuê tàu nhỏ từ 20.000–23.000 tấn dẫn đến chi
phí giá than cao hơn khoảng 5USD/tấn. Theo đó, ngày 17/5/2017, hai bên đã
Biên bản làm việc về vấn đề này, bị đơn EVN cũng đã xác nhận độ sâu luồng tại
Cảng VT 4 thời điểm đó 7,9m, chỉ tương đương với tàu 20.000–21.000 tấn ±
10% vào được cảng, EVN ghi nhận trọng tải tàu như DIC nêu đnghị DIC
thuê tàu nhỏ giao hàng 02-03 chuyến đầu, EVN đang đẩy nhanh tiến độ nạo vét
luồng, EVN sẽ báo cáo cấp trên và cùng nhau tháo gỡ khó khăn của DIC nếu có.
Sau đó, tại cuc họp ngày 07/9/2017, EVN cũng thống nhất với DIC EVN sẽ
nỗ lực đẩy nhanh tiến độ nạo vét để sớm công bố cảng cho tàu 30.000DWT vào
được Cảng VT 4 trong tháng 9/2017. Điều này phù hợp với việc, trước khi
Hợp đồng số 04, EVN cũng đã nêu tại Mục 7 Biên bản thương thảo hợp đồng
ngày 01/3/2017 đến 05/3/2017 về trách nhiệm công bố cảng của chủ đầu tư
(EVN) chủ đầu dự kiến sẽ công bố cảng 30.000DWT trong tháng 6/2017
(các BL 1439-1446, 1462 tập 14). Tại phiên toà thẩm, bị đơn EVN ng xác
định trách nhiệm nạo vét độ sâu luồng cảng là thuộc về EVN.
[3.1c] Như vậy, đã đủ sở xác định, EVN DIC Hợp đồng số
04 trong khi cả 02 (hai) bên đều biết rõ Cng VT 4 vẫn còn đang trong quá trình
nạo vét nên độ sâu luồng ghi trong Hợp đồng này độ sâu theo dự kiến của
EVN đưa ra. Sau đó, trong suốt quá trình thực hiện Hợp đồng số 04, độ sâu
26
luồng thực tế của Cảng VT 4 đều không đạt như Hợp đồng phụ lục của Hợp
đồng số 04 nhưng 02 (bên) đã chấp nhận thực hiện Hợp đồng này theo độ sâu
thực tế của Cảng VT 4 nên DIC phải thuê tàu nhỏ cho phù hợp dẫn đến chi phí
giá than cao hơn. Kết quả, tổng khối lượng than DIC đã cung cấp cho EVN qua
37 chuyến hàng được vận chuyển bằng tàu biển, giao hàng tại Cảng VT 4 BT,
diễn ra trong khoảng thời gian từ ngày 17/6/2017 đến ngày 16/4/2018, nằm
trong khung thời hạn của Hợp đồng 04 đã được 02 (hai) bên lập các biên bản
nghiệm thu đối với các chuyến than này (BL 586-665 tập 4) được EVN
DIC thống nhất xác nhận trong quá trình giải quyết vụ án.
[3.1d] Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ nêu trên nhận thấy, về độ u
luồng thực tế của Cảng VT 4 trong suốt quá trình thực hiện Hợp đồng số 04 đều
không đạt như Hợp đồng phụ lục của Hợp đồng số 04 nhưng cả 02 (hai) bên
EVN DIC không xác định trách nhiệm hoàn toàn thuộc về bên nào nên
đủ cơ sở quy kết trách nhiệm y thuộc về cả 02 (hai) bên. Kháng cáo của bị
đơn EVN cho rằng, đsâu luồng thực tế của Cảng VT 4 trong suốt quá trình
thực hiện Hợp đồng số 04 có đạt như Hợp đồng phụ lục của Hợp đồng số 04
hay không trách nhiệm thuộc về DIC, EVN không trách nhiệm trong
việc này, là không có cơ sở.
[3.2] Xét kháng cáo của bị đơn EVN về việc EVN phải bồi thường thiệt
hại cho DIC do không đảm bảo về độ sâu luồng của Cảng VT 4 mà EVN đã cam
kết tại Hợp đồng s 04, dẫn đến việc DIC phải thuê tàu nhỏ cho phù hợp với độ
sâu thực tế của luồng hoặc thuê tàu lớn nhưng phải chở non tải thì mới vào được
luồng của Cảng VT 4, làm cho giá than tăng thêm, gây thiệt hại cho DIC, như
sau;
Thực tế cho thấy, trong vận chuyển hàng hải, độ sâu của luồng là một
trong những điều kiện của cảng, độ sâu của luồng ảnh hưởng đến cấu thành
giá cả ng hóa vì liên quan đến trọng tải của tàu thiết bị phục vụ bốc xếp
hàng hóa phải phù hợp với điều kiện của cảng. Do đó, tàu lớn, tàu nhỏ giá
cước khác nhau. vậy, với độ sâu của luồng Cảng VT (Cảng dỡ hàng) theo
từng thời điểm đã được thể hiện tại Phụ lục 09 Hợp đồng số 04 vĐiều kiện dỡ
hàng, cụ thể: Từ tháng 3-2017: -7,9m; từ tháng 6-2017: -11,7m; từ tháng 10-
2017: -13,5m; từ tháng 3-2018: -15,7m. Nên tại Điều 5 Hợp đồng số 04 đã quy
định về giá hợp đồng, ng Điều 3.2.1 Điều 3.2.2 Phụ lục 03 của Hợp đồng
số 04 quy định về Bảng giá chi tiết thì cấu hình thành nên giá than đDIC
bán cho EVN bao gồm toàn bộ các chi phí gồm giá than, chi phí vn chuyển và
bảo hiểm, trong đó cước vận chuyển đường biển đến cảng dỡ được 02 (hai) bên
xác định là 6,2USD/tấn.
27
Qua xem xét cụ thể các hợp đồng vận chuyển than mà DIC đã ký với các
doanh nghiệp vận tải để thực hiện Hợp đồng số 04 nhận thấy: Các hợp đồng
giá cước khác nhau giữa tàu lớn (HANDYMAX 40.000-50.000 TẤN hoặc
SUPRAMAX 50.000-60.000 TẤN) với tàu nhỏ (HANDYSIZE 20.000-40.000
TẤN), cụ thể 6,2USD/tấn cho tàu 45.000 tấn 5,5USD/tấn cho tàu 55.000
tấn; đối với tàu Handymax Handysize nếu chở dưới 40.000 tấn (non tải) thì
giá cước là 8,50USD/tấn (BL 1550, 1554 tập 16). Các hợp đồng vận chuyển này
đều đã thực hiện xong, đã xuất hoá đơn VAT. Xét các hợp đồng vận chuyển
than mà DIC đã ký với các doanh nghiệp vận tải để thực hiện Hợp đồng s 04 là
phù hợp với độ sâu thực tế của luồng Cảng VT (Cảng dỡ hàng) theo từng thời
điểm vận chuyển, phù hợp với các Văn bản báo giá cước vận chuyển bằng tàu
biển của các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển tại Việt Nam phù hợp với
Thông lệ hàng hải: Mức mớn nước 11,7m tương ứng với tàu có trọng tải khoảng
47.000 tấn; mức mớn nước 13,5m tương ứng với tàu có trọng tải khoảng 60.000
tấn; mức mớn nước 15,7m tương ng với u trọng tải khoảng 80.000 tấn,
(BL 5644, 5646 tập 56). Đồng thời, các hợp đồng vận chuyển than DIC đã
với các doanh nghiệp vận tải để thực hiện Hợp đng số 04 thể hiện, trong
trường hợp sử dụng tàu t45.000-55.000 tấn ttrách nhiệm lo gàu xúc đbốc
hàng thuộc về chủ tàu, trong trường hợp tàu tải trọng dưới 40.000 tấn thì chi phí
gàu xúc sẽ do bên thuê tàu chịu. Thực tế, DIC đã thuê phần lớn các chuyến tàu
tải trọng dưới 30.000 tấn, chỉ mt số chuyến tàu tải trọng trên 30.000 tấn
hợp đồng với đơn vị vận chuyển này đều quy định cước chở sẽ theo điều kiện
Fiost, bên vận chuyển không chịu chi phí xếp hàng lên tàu dhàng khỏi tàu.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện của EVN cũng xác nhận các chuyến tàu chở than
do DIC thuê để thực hiện Hợp đồng số 04 đều không có gàu xúc kèm theo.
Qua xem xét các vấn đề nêu trên nhận thấy, lời trình bày của DIC trong
quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án với nội dung cho rằng, trước tình
trạng mớn nước của Cảng VT 4 không đảm bảo, DIC đã liên tục đề nghị EVN
xử lý vấn đề này nhưng không được đáp ứng. Vì vậy, DIC chọn phương án thuê
tàu trọng tải phù hợp với mớn nước thực tế của cảng ngay từ đầu mà không
thực hiện việc thuê các tàu cỡ lớn đúng theo mớn nước được chỉ dẫn tại Hợp
đồng số 04, sau đó san tải hàng ra các phương tiện vận tải nhỏ để đưa vào cảng
dỡ, vì như vậy chi phí giá cước vận chuyển phải thêm 01 lần bốc dỡ và việc thuê
thêm các phương tiện nhỏ vào cảng sẽ cao hơn nhiều lần; như vậy, DIC đã áp
dụng các biện pháp hợp đhạn chế tổn thất theo quy định của Điều 305 Lut
Thương mại, n cứ. Tòa án cấp thẩm xác định, bồi thường thiệt hại
hình thức chế tài được áp dụng nhằm khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị
mất của bên bị vi phạm hợp đồng; theo đó, trong vụ án này, mặc dù Hợp đồng
số 04 không quy định về bồi thường thiệt hại đối với giá cước vận chuyển và chi
28
phí thuê gàu xúc, nhưng thiệt hại này xuất phát từ hợp đồng đã ký, nên bên bị
thiệt hại (nguyên đơn DIC) vẫn quyền yêu cầu bồi thường, đúng. Xét các
yêu cầu này của DIC như sau:
[3.2a] Đối với yêu cầu của DIC về giá cước vận chuyển;
Thực tế, Hợp đồng số 04 đã được DIC thực hiện, DIC đã cung cấp cho
EVN tổng khối lượng than qua 37 chuyến hàng được vận chuyển bằng tàu biển,
giao hàng tại Cảng VT 4 BT và đã được 02 (hai) bên nghiệm thu; DIC cũng đã
trả cho chủ tàu số tiền cước thực tế theo các Hợp đồng thuê tàu vận chuyển than
theo các hoá đơn VAT.
Tuy nhiên, trong đó một số chuyến hàng DIC được hưởng tiền hoa
hồng mức 1,50% trên cước phí nên được giảm trừ; các hóa đơn VAT thể hiện tỷ
giá USD áp dụng theo từng thời điểm thanh toán cước cho các chtàu. vậy,
Tòa án cấp thẩm đã xem xét số tiền chênh lệch cước tàu DIC phải trả thêm
cho chủ tàu cụ thể từng chuyến hàng với kết quả, tổng số tiền cước tăng thêm
80.959.941.175đ (tám mươi tỷ, chín trăm năm mươi chín triệu, chín trăm bốn
mươi mốt nghìn, một trăm bảy mươi lăm đng).
[3.2b] Đối với yêu cầu của DIC về chi phí thuê gàu xúc;
Qua xem xét các hợp đồng mua bán than của DIC với c nhà cung cấp
than của Indonesia nhận thấy, các chuyến 4, 6, 9, 12, 15, 20 quy định chi
phí gàu xúc do bên mua (bị đơn) chịu, các chuyến n lại quy định chung chi
phí bốc xếp do bên mua chịu. vậy, trình bày của nguyên đơn DIC về việc
DIC không có chứng từ thanh toán riêng cho chi phí thuê gàu xúc, vì chi phí này
do người bán thực hiện DIC phải chịu chi phí nên đã thanh toán chung trong
tiền mua than, sở. Tòa án cấp thẩm áp dụng theo Thông lệ hàng hải
về thuê gàu xúc từ 01-02USD/tấn, mức giá do nguyên đơn DIC yêu cầu
1,5USD/tấn phù hợp nên Tòa án cấp thẩm xác định tổng cộng số tiền chi
phí tăng thêm cho gàu xúc 31.597.211.475đ (ba mươi mt tỷ, m trăm chín
mươi bảy triệu, hai trăm mười một nghìn, bốn trăm bảy mươi lăm đồng).
[3.2c] Xét trách nhiệm của các bên đối với các chi phí nêu trên, Hội
đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy;
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo pháp luật của bị đơn EVN
xác định, các khoản chi phí về giá cước vận chuyển thuê u xúc tăng thêm
do độ u luồng của Cảng VT 4 không đảm bảo nguyên đơn DIC đưa ra và
được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận nêu trên là hợp lý, tính toán đúng về số liệu,
EVN chỉ không đồng ý về trách nhiệm bồi thường. Mặc dù, Hội đồng xét xử
phúc thẩm đã giải thích yêu cầu các bên ý kiến về việc yêu cầu trưng
cầu quan chuyên môn xác định lại 02 (hai) khoản chi phí tăng thêm nêu trên
29
hay không, nhưng cả EVN và DIC đều không có yêu cầu vì cho rằng điều này là
không cần thiết. Vì vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận số
tiền cước tăng thêm 80.959.941.175đ số tiền gàu xúc tăng thêm là
31.597.211.475đ để làm cơ sở giải quyết vụ án.
Về trách nhiệm của các bên đối với các chi phí tăng thêm nêu trên: Do
đã xác định được trách nhiệm này thuộc về cả 02 bên, xuất phát từ việc ký kết
hợp đồng về độ sâu mớn nước không phù hợp với thực tế, trong quá trình thực
hiện hợp đồng 02 bên cũng không có sửa đổi, bổ sung, vẫn cùng nhau chấp nhận
các chi phí tăng thêm nhưng cũng không quy định bên nào phải chịu đối
với các khoản chi phí tăng thêm này. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp
nhận quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, chấp nhận một phần
kháng cáo của EVN đối với khoản tiền này, buộc DIC EVN, mỗi bên phải
chịu mt nửa, cụ thể với stiền được bồi thường thiệt hại do không đảm bảo
mớn nước theo hợp đồng gồm cước vận chuyển 40.479.970.587đ chi phí
tăng thêm cho gàu xúc là 15.798.605.738đ; tổng cộng 56.278.576.325đ.
[3.3] Xét kháng cáo của nguyên đơn DIC, Kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu EVN phải
bồi thường một nửa (50%) thiệt hại cho DIC do không đảm bảo về độ sâu luồng
của Cảng VT 4 mà EVN đã cam kết tại Hợp đồng số 04, dẫn đến việc DIC phải
thuê u nhỏ cho phù hợp với độ sâu thực tế của luồng hoặc thuê tàu lớn nhưng
phải chở non tải thì mới vào được luồng của Cảng VT 4, làm cho giá than tăng
thêm, gây thiệt hại cho DIC, như sau;
[3.3a] Trong vụ án này, phần thiệt hại do giá than tăng thêm theo yêu cầu
của nguyên đơn DIC 42.129.615.301đ, với do cho rằng, khi mua than
chuyên chở bằng tàu cỡ lớn luôn được mua với giá thấp hơn vì mua số lượng lớn
sẽ được chiết khấu nhiều hơn. Để chứng minh, trong quá trình giải quyết vụ án ở
giai đoạn phúc thẩm, DIC đã cung cấp các Thư báo giá than của nhà thầu
cung cấp than nước ngoài trong khoảng thời gian từ tháng 3-2017 đến tháng 4-
2018, thể hiện đơn giá của lô hàng cho tàu 20.000-30.000 tấn cao hơn 2USD/tấn
so với tàu 35.000-50.000 tấn và các tài liệu này đã có hợp pháp hóa lãnh sự.
[3.3b] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, việc mua than
chuyên chở bằng tàu cỡ lớn luôn được mua với giá thấp hơn vì mua số lượng lớn
sẽ được chiết khấu nhiều hơn, như trình bày của nguyên đơn, sthỏa thuận
giữa DIC bên các nhà cung cấp than, không thuộc phạm vi điều chỉnh của
Hợp đồng số 04, EVN không có trách nhiệm đối với giá than trong các hợp đồng
mua bán than giữa DIC và nhà cung cấp than đã thỏa thuận và ký kết thực hiện.
30
[3.3c] Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn DIC đã
trình bày, DIC chọn phương án thuê tàu có trọng tải phù hợp với mớn nước thực
tế của cảng ngay từ đầu mà không thực hiện việc thuê các tàu cỡ lớn đúng theo
mớn nước được chỉ dẫn trong Hợp đồng số 04, rồi sau đó san tải hàng ra các
phương tiện vận tải nhỏ để đưa vào cảng dỡ, như vậy giá cước vận chuyển
cần phải chi phí thêm 01 lần bốc dỡ việc thuê thêm các phương tiện nhỏ vào
cảng sẽ cao hơn nhiều lần, nên DIC đã áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế
tổn thất theo quy định của Điều 305 Luật Thương mại. Theo đó, thiệt hại của
DIC do độ sâu luồng (còn gọi là mớn nước) của Cảng VT 4 không đúng như
Hợp đồng số 04 gây ra, đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định, EVN phải
bồi thường một nửa các chi phí tăng thêm về gcước vận chuyển thuê gàu
xúc theo như phân tích nhận định nêu trên, đã bảm bảo được quyền lợi
ích hợp pháp của DIC.
[3.3d] Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, yêu cầu của
nguyên đơn DIC về phần thiệt hại do giá than tăng thêm số tiền 42.129.615.301đ
không phù hợp với thực tế vụ án này. Kháng cáo của nguyên đơn DIC
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh về phần này là không có cơ sở.
[3.4] Xét kháng cáo của bị đơn EVN đối với quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn DIC về việc bị đơn EVN phải trả lại
14.510.444.880đ số tiền phạt vi phạm chất lượng than DIC đã trả vượt quá
8%; không chấp nhận giải quyết yêu cầu phản tố của b đơn EVN về phạt
nguyên đơn mức 8% do vi phạm về chất lượng than, như sau;
[3.4a] Hợp đồng mua bán than chạy thử nhà máy nhiện điện VT 4 được
kết trên stự nguyện của các bên, trong đó tại Mục 2 Phụ lục 3 của Hợp
đồng số 04 Hợp đồng sửa đổi bổ sung ngày 01/02/2018 phần Bảng giá
và điều chỉnh giá quy định về trường hợp than không đúng quy cách, không phù
hợp, thì EVN quyền phạt DIC 8% gtrị chuyến hàng theo giá trị hóa đơn
trước thuế của hàng tương ứng lựa chọn mt trong c giải pháp như từ
chối nhận hàng hoặc chấp nhận hàng nhưng thanh toán giá hóa đơn chiết
khấu, trừ theo công thức tính cho từng chỉ số của than không được đảm bảo theo
hợp đồng (BL 513-518, 571 tập 3).
Trong quá trình thực hiện Hợp đồng s04, EVN DIC đã cùng thống
nhất xác nhận, EVN đã nhận các hàng chất lượng than không đúng quy
cách, không phù hợp, với giá tương ứng với thực tế chất lượng than đã được
ghi vào hóa đơn. Theo như hai bên đã thống nhất ch tính tại Biên bản họp
ngày 29/11/2017 ngày 13/12/2017 (BL 3555, 3568 tập 32) thì tổng số tiền
EVN giảm trừ của 26 chuyến có vi phạm vào số tiền phải thanh toán cho DIC là
31
84.803.868.229đ nên số tiền EVN chưa thanh toán cho DIC chỉ còn
48.303.665.456đ như sự thừa nhận của hai bên. vậy, yêu cầu của nguyên đơn
DIC về việc bđơn EVN phải trả lại 14.510.444.880đ với do đây số tiền
phạt vi phạm chất lượng than DIC đã trả vượt quá 8%, là không có cơ sở. Kháng
cáo của bị đơn EVN về khoản tiền này là có cơ sở chấp nhận.
[3.4b] Đối với điều khoản phạt 8% giá trị chuyến hàng than chất
lượng không phù hợp theo Hợp đồng số 04, nguyên đơn không đồng ý với yêu
cầu phản tố của bị đơn EVN yêu cầu DIC phải thanh toán cho EVN số tiền
70.293.423.349đ; thêm nữa, nguyên đơn DIC còn yêu cầu bị đơn EVN phải trả
lại 14.510.444.880đ là số tiền phạt vi phạm chất lượng than DIC đã trả vượt quá
8% (84.803.868.229đ - 70.293.423.349đ). Tòa án cấp thẩm cho rằng, nội
dung tại Mục 2 Phụ lục 3 của Hợp đồng số 04 Hợp đồng sửa đổi bổ sung
ngày 01/02/2018 như trên đã chứa đựng việc một than vi phạm chất lượng bị
xử hai lần, vừa bị phạt 8%, vừa bị giảm trừ giá, vượt quá mức phạt quy định
tại Điều 301 Luật Thương mại: mức phạt cho các vi phạm hợp đồng của một
bên không vượt quá 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Thực tế, bị đơn
nhận hàng với giá chiết khấu tức giá đã bị giảm tương ứng với mức độ vi
phạm trừ thẳng vào hóa đơn đã 1 khoản phạt vi phạm đối với nguyên đơn
nên phần điều khoản quy định phạt 8% giá trị chuyến hàng than chất lượng
không phù hợp với hợp đồng nên không hiệu lực, không đúng. Hơn nữa,
trong quá trình giải quyết vụ án, các bên hợp đồng không yêu cầu Tòa án
tuyên hiệu điều khoản này. Đối với điều khoản phạt 8% gtrị chuyến hàng
than có chất lượng không phù hợp theo Hợp đồng 04 Hội đồng xét xử nhận thấy,
tại Biên bản họp ngày 19/12/2018, nguyên đơn bị đơn đã thống nhất tỷ lệ
phạt cho từng chuyến than, tổng cộng số tiền phạt hai bên đã chấp nhận
40.245.165.652đ. Sau đó, tại các Biên bản họp ngày 11/6/2019 ngày
10/9/2019, bị đơn thay đổi yêu cầu nguyên đơn phải chịu phạt đủ 8% như hợp
đồng đã ký với trị giá phạt là 70.293.423.349đ (BL 3531, 3521, 3515 tập 32) thì
nguyên đơn mới thay đổi không đồng ý chịu khoản phạt 8% này nữa. Như vậy,
cần chấp nhận mt phần kháng cáo của bị đơn EVN, sửa bản án sơ thẩm về phần
này theo hướng, chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn EVN về phạt
nguyên đơn mức 8% do vi phạm về chất lượng than, buộc DIC phải thanh toán
cho EVN khoản tiền phạt vi phạm chất lượng than với số tiền
40.245.165.625đ theo như sthống nhất tlệ phạt cho từng chuyến than của cả
02 (hai) bên tại Biên bản họp ngày 19/12/2018 là phù hợp, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự.
[3.5] Xét kháng cáo của nguyên đơn DIC, kháng cáo của bị đơn EVN và
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
32
Chí Minh đối với việc giải quyết tranh chấp khoản tiền phạt vi phạm nghĩa vụ
thanh toán và lãi chậm thanh toán của Tòa án cấp sơ thẩm, như sau;
[3.5a] Theo Hợp đồng đã giữa hai bên thì EVN phải thanh toán cho
DIC Đợt 1 90% Đợt 2 phải thanh toán cho đủ 100% gtrị hóa đơn trong
vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày EVN nhận đủ các hồ sơ thanh toán hợp lệ bao
gồm các thành phần hồ như quy định tại hợp đồng do DIC nộp. Tại Mục 3
của Phụ lục 11 Hợp đồng số 04 thể hiện: Trường hợp chậm thanh toán, n
lỗi sẽ phải thanh toán cho bên còn lại một khon phạt chậm thanh toán tính từ
ngày làm việc sau ngày đến hạn thanh toán, tỷ lệ phạt chậm thanh toán tương
ứng với lãi suất huy động vốn ngn hạn của VCB tại thi điểm thanh toán, mức
phạt tối đa là 8% giá trị hợp đồng. Thêm nữa, tại khoản 2 Điều 307 Luật
Thương mại quy định, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu cả phạt vi phạm yêu
cầu bồi thường thiệt hại. Vì vậy, Tòa án cấp thẩm đã căn cứ vào quy định tại
Hợp đồng số 04 nêu trên căn cứ vào khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại xác
định nguyên đơn DIC quyền yêu cầu bđơn EVN phải chịu phạt vi phạm
nghĩa vụ thanh toán và chịu lãi chậm thanh toán, là đúng.
[3.5b] Do nguyên đơn DIC không yêu cầu EVN phải chịu phạt vi phạm
nghĩa vụ thanh toán và chịu lãi chậm thanh toán đối với toàn bộ 37 chuyến hàng,
chỉ yêu cầu đối với một số chuyến hàng cụ thể trên số tiền bị đơn chậm
thanh toán, đồng thời chuyến nguyên đơn chỉ yêu cầu phạt vi phạm 8%,
chuyến chỉ yêu cầu chịu lãi chậm trả, có chuyến yêu cầu cả phạt vi phạm 8%, cả
lãi chậm trả. Trong khi đó, Hợp đồng số 04 được thực hiện thành 37 chuyến
hàng và mỗi chuyến lại có các đợt thanh toán theo các mốc thời gian khác nhau,
nên Tòa án cấp thẩm đã xem xét việc thanh toán đối với tất cả 37 chuyến để
lấy đó làm sở giải quyết yêu cầu của nguyên đơn. Đồng thời, đối với lãi suất
chậm thanh toán, Tòa án cấp thẩm chấp nhận định, mức lãi 9,25% cho tất cả
các kỳ hạn mà nguyên đơn DIC yêu cầu đối với EVN vì mức lãi này thấp hơn lãi
ngắn hạn quá hạn của ngân hàng, là có căn cứ.
[3.5c] Xét nguyên nhân dẫn đến việc EVN chậm thanh toán cho DIC
do lỗi ngang nhau của cả 02 (hai) bên trong quá trình kết thực hiện Hợp
đồng số 04 nên Tòa án cấp sơ thẩm quyết định mỗi bên phải chịu mt nửa (50%)
tổng số tiền phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán chịu lãi chậm thanh toán, là
phù hợp, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự. Kháng cáo của
nguyên đơn DIC kháng cáo của bị đơn EVN đối với các khoản tiền này là
không có cơ sở.
[3.5d] Xét Kháng nghcủa Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, tại mc [7.8] của Bản án thẩm về việc
33
xem xét các chuyến tàu của nguyên đơn cũng như việc thanh toán của bị đơn đã
có sự sai sót như sau:
+ Đối với chuyến 5 tàu MV.ZHONGYU 89: Nguyên đơn bàn giao
chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 01/9/2017, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày
25/9/2017. Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 34.779.635.762đ. Bị đơn
thanh toán thành s tiền 17.304.844.802đ sau cùng ngày 27/9/2017 (quá hạn 02
ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 17.304.844.802đ
= 1.384.387.584đ là có căn cứ chấp nhận.
Bản án thẩm cho rằng bị đơn thanh toán đúng hạn nên không chấp
nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng là không đúng.
+ Chuyến 6 MV. VINALINES FORTUNA:
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 11/9/2017, ngày đến hết hạn thanh toán
ngày 02/10/2017. Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 13.384.160.396đ. Bị
đơn thanh toán s tiền 3.318.477.239đ sau cùng (ngày 14/9/2017 trễ 05 ngày).
Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 3.318.477.239đ =
265.478.179đ là có căn cứ chấp nhận.
Đợt 2: Nguyên đơn yêu cầu tính lãi chậm thanh toán. Nguyên đơn cho
rằng bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 23/7/2018, tuy nhiên tại thời
điểm này hai bên đã hợp đồng sửa đổi bổ sung yêu cầu Hóa đơn Thuế giá trị
gia tăng 10% khi thanh toán, đến ngày 25/12/2018 (Công văn số 856 ngày
25/12/2018 của DIC) thì nguyên đơn mới bổ sung Hóa đơn Thuế giá trị gia tăng
10% nên thời điểm bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ xác định ngày
25/12/2018, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 16/01/2019. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 2 là: 1.487.128.932đ.
Bị đơn thanh toán 297.426.466đ (ngày 27/12/2018 quá hạn 136 ngày),
60.241.045 đồng (ngày 22/5/2019 quá hạn thanh toán), số tiền còn lại chưa
thanh toán 1.129.461.421đ.
Do đó, yêu cầu tính lãi chậm thanh toán đối với số tiền còn lại chưa
thanh toán 1.129.461.421đ của nguyên đơn căn cứ chấp nhận, thời gian
tính tngày 17/01/2019 theo i suất quy định tại Điều 306 Luật Thương mại
2005.
Bản án thẩm cho rằng bị đơn thanh toán đúng hạn nên không chấp
nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng là không đúng.
+ Chuyến 10 MV.PAZEH WISDOM:
34
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 10/10/2017 (biên bản bàn giao chứng từ có
xác nhận hai bên Công văn 1155/DUC-KDT ngày 10/10/2017), ngày đến hết
hạn thanh toán ngày 01/11/2017. Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1
15.810.888.416đ. Bị đơn thanh toán 69.993.848đ (ngày 13/7/2018 quá hạn 254
ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 69.993.848đ =
5.599.508đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 11 MV. AUTAI:
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 13/10/2017 (Công văn 1177/CA-AVT
ngày 13/10/2017), ngày đến hết hạn thanh toán ngày 06/11/2017. Số tiền bị
đơn phải thanh toán Đợt 1 18.416.365.548đ. Bị đơn thanh toán
9.197.113.23 sau cùng (ngày 13/11/2017 ngày quá hạn 10 ngày). Do đó, yêu
cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, s tiền 8% x 9.197.113.232đ = 735.769.05
của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 13 MV. EAST AYUTTHAYA:
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 10/10/2017 (Công văn 1153/CA-AVT
ngày 10/10/2017), ngày đến hết hạn thanh toán ngày 01/11/2017. Số tiền bị
đơn phải thanh toán Đợt 1 là 26.684.517.042đ. Bị đơn thanh toán số tiền
924.676.847đ sau cùng (ngày 13/7/2018, quá hạn 254 ngày). Do đó, yêu cầu
phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 924.676.847đ = 73.974.148đ của
nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 15 MV. LUCKY PIONEER:
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 13/10/2017, ngày đến hết hạn thanh toán
là ngày 06/11/2017. Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 là 22.902.048.398đ. B
đơn thanh toán số tiền 11.223.616.203đ (ngày 13/11/2017 quá hạn 07 ngày). Do
đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 11.223.616.203đ =
897.889.296đ của nguyên đơn là có căn cứ.
+ Chuyến 16 MV. PHƯƠNG ĐỒNG 06:
Bản án thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm của nguyên đơn
đúng. Tuy nhiên, tính toán sai đối với số tiền phạt vi phạm. Theo đó, số tiền 8%
x 1.457.966.358đ = 116.637.309đ, nhưng Bản án lại tính toán với số tiền
145.796.636đ là không đúng.
+ Chuyến 17 MV. SOUTHERN SPIRIT:
35
Đợt 1: Nguyên đơn yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%. Nguyên đơn bàn
giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 15/11/2017, ngày đến hết hạn thanh toán
là ngày 07/12/2017. Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 là 28.377.498.711đ. B
đơn thanh toán 550.499.511đ sau ng (ngày 13/7/2018 quá hạn 218 ngày).
Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 550.499.511đ =
44.039.961đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 19 MV. HARMONY SOURCE:
Đợt 2: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 23/7/2018,
ngày đến hết hạn thanh toán ngày 14/8/2018. Số tiền bị đơn phải thanh toán
Đợt 2 2.643.727.407đ. Bị đơn thanh toán số tiền 528.745.482đ (ngày
27/12/2018 quá hạn 135 ngày); số tiền 2.114.981.925đ (ngày 22/5/2019 quá
hạn 281 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, s tiền 8% x
2.643.727.407đ = 211.498.192,56đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 20 MV. OUPULAI 18:
Đợt 1: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
15/11/2017, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 07/12/2017. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 1 21.737.876.640đ. Ngày 20/12/2017, bị đơn thanh toán số
tiền 21.737.876.640đ. Ngày 20/12/2017, b đơn thanh toán số tiền
21.737.876.640đ (quá hạn 13 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%,
số tiền 8% x 21.737.876.640đ = 1.739.030.131đ của nguyên đơn căn cứ
chấp nhận.
+ Chuyến 23 MV. ASAHI MARU:
Đợt 2: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
25/12/2018, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 16/01/2019. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 2 7.056.302.974đ. Bị đơn chưa thanh toán. Do đó, yêu cầu
phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 7.056.302.974đ = 564.504.238đ và yêu
cầu tính lãi chậm thanh toán đối với s tiền còn lại chưa thanh toán
7.056.302.97 của nguyên đơn căn cứ chấp nhận, thời gian tính từ ngày
17/01/2019 theo lãi suất quy định tại Điều 306 Luật Thương mại.
+ Chuyến 24 MV. HUAYOU 2:
Đợt 2: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
25/12/2018, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 16/01/2019. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 2 3.962.696.332đ. Bị đơn chưa thanh toán. Do đó, yêu cầu
phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x 3.962.696.332đ = 317.015.707đ và yêu
cầu tính lãi chậm thanh toán đối với s tiền còn lại chưa thanh toán
36
3.962.696.33của nguyên đơn căn cứ chấp nhận, thời gian tính từ ngày
17/01/2019 theo lãi suất quy định tại Điều 306 Luật Thương mại.
+ Chuyến 26b MV. NING AN CHENG - 12.100 MT:
Đợt 1: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
05/01/2018, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 29/01/2018. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 1 là 19.941.456.354đ. Bị đơn thanh toán số tiền 17.725.738.982đ
(ngày 09/02/2018 quá hạn 11 ngày), số tiền 2.215.717.372đ (ngày 06/7/2018
quá hạn 158 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số tiền 8% x
19.941.456.354đ = 1.595.316.508đ của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
Đợt 2: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
25/12/2018, ngày đến hạn thanh toán ngày 16/01/2019. Số tiền bị đơn phải
thanh toán Đợt 2 là 2.215.717.373đ. Bị đơn chưa thanh toán. Do đó, yêu cầu tính
lãi chậm thanh toán đối với số tiền n lại chưa thanh toán 2.215.717.373đ của
nguyên đơn căn cứ chấp nhận, thời gian tính tngày 17/01/2019 theo lãi
suất quy định tại Điều 306 Luật Thương mại.
+ Chuyến 27 MV. HARMONY SOURCE:
Đợt 1: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp l ngày
29/12/2017, ngày đến hạn thanh toán ngày 22/01/2018. Số tiền b đơn phải
thanh toán Đợt 1 28.007.817.39. Bị đơn thanh toán số tiền 3.974.589.99
sau cùng (ngày 06/7/2018 quá hạn 165 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm
hợp đồng 8%, số tiền 8% x 3.974.589.992đ = 317.967.199đ của nguyên đơn
có căn cứ chấp nhận.
+ Chuyến 30 MV. NEW GENERAL:
Đợt 1: Nguyên đơn cho rằng bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày
02/3/2018, tuy nhiên tại thời điểm này hai bên đã hợp đồng sửa đổi bổ sung
yêu cầu Hóa đơn Thuế giá trị gia tăng 10% khi thanh toán, đến ngày 25/12/2018
(Công văn số 856 ngày 25/12/2018 của DIC) thì nguyên đơn mới bổ sung Hóa
đơn Thuế giá trị gia tăng 10% nên thời điểm bàn giao chứng từ thanh toán hợp
lệ xác định là ngày 25/12/2018, ngày đến hết hạn thanh toán là ngày 16/01/2019.
Số tiền bị đơn phải thanh toán Đợt 1 là 34.530.319.533đ.
Bị đơn thanh toán nsau: Ngày 13/3/2018, 30.693.617.362đ; ngày
22/6/2018, 3.836.702.171đ, không quá hạn. Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp
đồng 8%, số tiền 8% x 3.836.702.171đ = 306.936.17 của nguyên đơn
không có căn cứ chấp nhận. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm
hợp đồng của nguyên đơn là không chính xác.
+ Chuyến 34a MV. EFFICIENCY OL 21.450 MT:
37
Đợt 1: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 05/4/2018,
ngày đến hết hạn thanh toán ngày 27/4/2018. Số tiền bị đơn phải thanh toán
Đợt 1 là 45.758.011.135đ. Bị đơn thanh toán số tiền 4.159.819.195đ (ngày
13/6/2018 quá hạn 47 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8%, số
tiền 8% x 4.159.819.195đ = 179.223.986đ của nguyên đơn là căn cứ chấp
nhận.
+ Chuyến 34b MV. EFFICIENCY OL 11.552 MT:
Đợt 1: Nguyên đơn bàn giao chứng từ thanh toán hợp lệ ngày 05/4/2018,
ngày đến hết hạn thanh toán ngày 27/4/2018. Số tiền bị đơn phải thanh toán
Đợt 1 24.643.298.045đ. Ngày 13/6/2018, bị đơn thanh toán số tiền
2.240.299.82 sau cùng (quá hạn 47 ngày). Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp
đồng 8%, số tiền 8% x 2.240.299.823đ = 179.223.986đ của nguyên đơn là
căn cứ chấp nhận.
Tổng kết lại, số tiền phạt vi phạm hợp đồng về thời hạn thanh toán với
mức 8% giá trị hợp đồng vi phạm nguyên đơn được chấp nhận phải các
chuyến: 2, 5, 6, 7, 8, 10, 11, 13, 15, 17, 22, 26a, 26b, 27, 28, 29a, 29b, 30, 34a,
34b, 35, 36, 37 (Đợt 1); Đợt 2 gồm các chuyến: 16, 19, 20; tổng cộng số tiền vi
phạm là 13.496.350.333 đồng.
Bản án sơ thẩm ch chấp nhận đối với số tiền phạt vi phạm
5.100.898.270 đồng đối với các chuyến, tàu Đợt 1 gồm: 2, 7, 8, 11, 22, 26a, 26b,
28, 29a, 29b, 30, 32, 35, 36, 37 tính sai số đối với chuyến 16 không chính
xác, chênh lệch 8.395.452.063 đồng, gây thiệt hại cho nguyên đơn.
Xét Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh ntrên đúng nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp
nhận, sửa Bản án sơ thẩm về phần này theo hướng như sau: Xác định tổng cộng
số tiền phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán phù hợp với cam kết, được chấp nhận
13.496.350.333 đồng số tiền lãi chậm thanh toán phợp với cam kết,
được chấp nhận 13.851.517.587đ; tổng cộng là 27.347.867.920đ. Do đã xác
định được nguyên nhân dẫn đến việc EVN chậm thanh toán cho DIC do lỗi
ngang nhau của cả 02 (hai) nên mỗi bên phải chịu một nửa (50%) tổng số tiền
phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán chịu lãi chậm thanh toán. vậy, EVN ch
phải thanh toán cho DIC 50% tiền phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán và lãi chậm
trả nêu trên với tổng số tiền là 13.673.933.960đ.
[3.6] Xét kháng o của bị đơn EVN về việc a án cấp thẩm giải
quyết yêu cầu của nguyên đơn DIC đối với khoản tiền hàng nguyên đơn cho
rằng EVN còn nợ chưa thanh toán với số tiền 48.303.665.456đ, như sau;
38
[3.6a] Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn DIC và bị đơn EVN
đều thống nhất số tiền hàng EVN chưa thanh toán n lại 48.303.665.456đ,
phù hợp với các tài liệu, chứng cứ do hai bên cung cấp trong hồ vụ án (BL
5607, 5627, 5633 tập 55). Bị đơn EVN n cứ vào quy định của Bộ luật dân sự
để cầm giữ khoản tiền này để trừ vào tiền EVN phạt DIC 8% do vi phạm về chất
lượng than theo hợp đồng hai bên đã ký. Tòa án cấp sơ thẩm nhận thấy, hai bên
kết thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa đã Luật Thương mại điều
chỉnh nên việc cầm giữ khoản tiền này của EVN không phù hợp với quy định
của Điều 51 Luật Thương mại về ngừng thanh toán tiền mua hàng. Vì vậy, EVN
có nghĩa vụ phải trả cho DIC số tiền hàng EVN còn nợ 48.303.665.456đ là đúng
quy định pháp luật.
[3.6b] Bị đơn EVN kháng cáo không đồng ý với việc giải quyết của Tòa
án cấp thẩm đối với khoản tiền hàng EVN còn nợ chưa thanh toán cho
DIC số tiền 48.303.665.456đ nêu trên, là không có cơ sở.
[4] Từ những nhận định căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm
không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty cổ phần Đầu tư và Thương
mại DIC, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn Tập đoàn ĐL Việt
Nam chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; sửa Bản án kinh doanh
thương mại thẩm số: 01/2024/KDTM-ST ngày 04/01/2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Rịa Vũng Tàu theo như phân tích nhận định nêu trên của Hội
đồng xét xử phúc thẩm.
[5] Trong phần ý kiến, quan điểm trình bày tại phiên tòa phúc thẩm của
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa một phần phù hợp với nhận định nêu trên
của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên phần này được chấp nhận.
[6] Những ý kiến, quan điểm của các Luật sư trình bày tại phiên tòa phúc
thẩm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn EVN một phần phù hợp với
nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên phần này được chấp
nhận.
[7] Về án phí kinh doanh thương mại thẩm, Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận thấy;
Do sửa Bản án thẩm nên theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Ngh
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc
hội, Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định lại nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm
theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự khoản 1 Điều 26,
khoản 1 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội:
39
[7.1] Nguyên đơn DIC phải chịu án phí giá ngạch theo mức
112.000.000đ + 0,1% phần vượt quá 4.000.000.000đ trên stiền nguyên đơn
yêu cầu nhưng không được chấp nhận và số tiền nguyên đơn phải thanh toán cho
bị đơn do bị đơn được chấp nhận một phần yêu cầu phản tố (14.510.444.880đ +
56.278.576.325đ + 13.673.933.960 + 42.129.515.301đ + 40.245.165.652đ =
166.837.636.118đ). Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm DIC phải chịu
274.837.636đ;
[7.2] Bị đơn EVN phải chịu án phí giá ngạch theo mức 112.000.000đ
+ 0,1% phần vượt quá 4.000.000.000đ trên một phần yêu cầu phản tố không
được chấp nhận của phần nghĩa vụ phải thanh toán cho nguyên đơn
(30.048.257.724đ + 113.511.637.465đ = 143.559.895.189đ). Án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm EVN phải chịu 251.559.895đ;
[8] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Đương sự kháng cáo,
theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không phải nộp.
[9] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
1- Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty C phần Đầu tư
Thương mại DIC; chấp nhận một phần kháng cáo của b đơn Tập đoàn ĐL
Việt Nam chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; sửa Bản án kinh doanh
thương mại thẩm số: 01/2024/KDTM-ST ngày 04/01/2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bà Ra – Vũng Tàu:
Căn cứ vào các Điều 30, 37, 39, 40, 147, 217, 227, 266 Bộ luật Tố tụng
dân sự; các Điều 24, 25, 51, 301, 302, 303, 304, 305, 306, 307 Luật Thương mại
2005; Điều 11 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH
của Ủy ban Thường v Quốc hội ngày 30/12/2016;
Tuyên xử:
1.1. Đình chỉ giải quyết phần yêu cầu của nguyên đơn Công ty cổ
phần Đầu Thương mại DIC về số tiền phạt 8% vi phạm nghĩa vụ thanh
toán là 19.608.741.159đ (mười chín tỷ, sáu trăm lẻ tám triệu, bảy trăm bốn mươi
mốt nghìn, một trăm năm mươi chín đồng).
40
1.2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty C
phần Đầu tư và Thương mại DIC đối với bị đơn Tập đoàn ĐL Việt Nam:
Tập đoàn ĐL Việt Nam phải thanh toán cho Công ty C phần Đầu
Thương mại DIC - đại diện cho Liên danh Công ty C phần Đầu và Thương
mại DIC, PT.S.G.E., Công ty C phần VL Nội số tiền 153.756.803.117đ
(một trăm năm mươi ba tỷ, bảy trăm năm mươi sáu triệu, tám trăm lẻ ba nghìn,
một trăm mười by đồng), gồm các khoản sau đây:
+ Tiền hàng bị đơn chưa thanh toán 48.303.665.456đ (bốn mươi tám
tỷ, ba trăm lẻ ba triệu, sáu trăm sáu mươi lăm nghìn, bốn trăm m mươi sáu
đồng).
+ Tiền dôi nhật 35.500.627.376đ (ba mươi lăm tỷ, năm trăm triệu, sáu
trăm hai mươi bảy nghìn, ba trăm bảy mươi sáu đồng),
+ Tiền được bồi thường thiệt hại do bị đơn không đảm bảo mớn nước
theo hợp đồng gồm cước vận chuyển 40.479.970.587đ chi phí tăng thêm
cho gàu xúc 15.798.605.738đ; tổng cộng là 56.278.576.325đ (năm mươi sáu
tỷ, hai trăm bảy mươi tám triệu, năm trăm bảy mươi u nghìn, ba trăm hai
mươi lăm đồng).
+ Tiền phạt bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền lãi chậm trả
13.673.933.960đ (mười ba tỷ, sáu trăm bảy mươi ba triệu, chín trăm ba mươi ba
nghìn, chín trăm sáu mươi đồng).
1.3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Tập đoàn ĐL Việt
Nam về khoản tiền phạt vi phạm chất lượng than 8%;
Công ty Cổ phần Đầu và Thương mại DIC - đại diện cho Liên danh
Công ty Cổ phần Đầu Thương mại DIC, PT.S.G.E., Công ty Cổ phần VL
Nội phải thanh toán cho Tập đoàn ĐL Việt Nam khoản tiền phạt vi phạm
chất lượng than với số tiền 40.245.165.652đ (bốn mươi tỷ, hai trăm bốn mươi
lăm triệu, mt trăm sáu mươi lăm nghìn, sáu trăm năm mươi hai đồng).
1.4. Tập đoàn ĐL Việt Nam (sau khi khấu trừ s tiền 40.245.165.652đ
tại mục 1.3 nêu trên) còn phải thanh toán cho Công ty Cổ phần Đầu
Thương mại DIC - đại diện cho Liên danh Công ty Cổ phần Đầu Thương
mại DIC, PT.S.G.E., Công ty Cổ phần VL Nội số tiền 113.511.637.465đ
(một trăm ời ba tỷ, năm trăm mười một triệu, sáu trăm ba mươi bảy nghìn,
bốn trăm sáu mươi lăm đồng).
Kể từ ngày bên được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên
phải thi hành án không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải trả cho
41
bên được thi hành án số tiền lãi 10%/năm của khoản tiền chậm thi hành án,
tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
1.5. Toàn bộ số tiền tại mục 1.4 nêu trên được thanh toán vào tài khoản
số 31010002388002 của Công ty Cphần Đầu Thương mại DIC tại Ngân
hàng TMCP Đầu Phát triển Việt Nam Chi nhánh Thành phố H Chí
Minh.
1.6. Không chấp nhận mt phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công
ty C phần Đầu Thương mại DIC với số tiền là 126.592.470.466
(14.510.444.880đ + 56.278.576.325đ + 13.673.933.960đ + 42.129.515.301đ).
1.7. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bi đơn Tập đoàn
ĐL Việt Nam với số tiền 30.048.257.724đ (70.293.423.349đ
40.245.165.625đ).
1.8. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
+ Nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC phải chịu án
phí giá ngạch 274.837.636đ; nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã
nộp 307.915.438đ (ba trăm lẻ bảy triệu, chín trăm mười lăm nghìn, bốn trăm
ba mươi tám đồng) theo Biên lai thu số 0000484 ngày 03/10/2019, số 0007055
ngày 26/10/2020 số 0000720 ngày 10/01/2023 của Cc Thi hành án dân s
tỉnh Rịa-Vũng Tàu; Công ty Cổ phần Đầu Thương mại DIC còn được
nhận lại số tiền 33.077.802đ (ba mươi ba triệu, không trăm bảy mươi bảy nghìn,
tám trăm lẻ hai đồng).
+ Bị đơn Tập đoàn ĐL Việt Nam phải chịu án p giá ngạch
251.559.895đ; nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 89.146.712đ
(tám mươi chín triệu, một trăm bốn mươi sáu nghìn, bảy trăm mười hai đồng)
theo Biên lai thu số 0007361 ngày 21/12/2020 của Cục Thi nh án dân sự tỉnh
Bà Rịa-Vũng Tàu; Tập đoàn ĐL Việt Nam còn phải nộp số tiền 162.413.183đ
(một trăm sáu mươi hai triệu, bốn trăm mười ba nghìn, một trăm tám mươi ba
đồng).
2- Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Các đương sự kháng
cáo không phải nộp;
+ Hoàn trả cho Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC số tiền tạm
ứng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm đã nộp 2.000.000đ (hai triệu
đồng) theo Biên lai thu số 0000215 ngày 25/01/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Bà Rịa-ng Tàu.
+ Hoàn trả cho Tập đoàn ĐL Việt Nam (EVN) số tiền tạm ứng án phí
kinh doanh thương mại phúc thẩm đã nộp 2.000.000đ (hai triệu đồng) theo Biên
42
lai thu số 0000203 ngày 19/01/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Rịa-
Vũng Tàu.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi
hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa
đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bn án phúc thm hiu lc k t ngày tuyên án ngày 02 tháng 10
năm 2024./.
Nơi nhận:
Tòa án nhân dân tối cao;
VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu;
VKSND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu;
Cục THADS Bà Rịa-Vũng Tàu;
Các đương sự;
Lưu: HS, VP.
Tải về
Bản án số 85/2024/KDTM-PT Bản án số 85/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 85/2024/KDTM-PT Bản án số 85/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất