Bản án số 06/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 của TAND Q. Lê Chân, TP. Hải Phòng về tội cướp giật tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2019/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 06/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 của TAND Q. Lê Chân, TP. Hải Phòng về tội cướp giật tài sản
Tội danh: 136.Tội cướp giật tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Lê Chân (TAND TP. Hải Phòng)
Số hiệu: 06/2019/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/01/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 06/2019/HS-ST NGÀY 17/01/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 179/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đỗ Văn N, sinh ngày 20 tháng 5 năm 198A tại Hải Phòng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 4, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số 35/215 M, phường D, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn N và bà Trần Thị N; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 15/9/2018, tạm giam từ ngày 24/9/2018; có mặt.

2. Nguyễn Thế T, sinh ngày 22 tháng 10 năm 199B tại Hải Phòng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 6/66 N, phường N, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số 3/110/229 M, phường D, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế H và bà Đặng Thị T; có vợ là Phạm Thị M và 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại bản án số 114 ngày 12/11/2013, Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền xử phạt 42 tháng tù về tội Cướp giật tài sản; bị tạm giữ ngày 21/9/2018, tạm giam từ ngày 24/9/2018; có mặt.

Bị hại: Chị Ngô Minh H, sinh năm 199C; trú tại: Số 31/66 C, phường H, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 14/9/2018, Đỗ Văn N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15K1-297.08 chở Nguyễn Thế T đi uống thuốc Methadone trên đường Nguyễn Đức Cảnh, Quận Lê Chân, Hải Phòng. Sau khi uống thuốc, cả hai về khu vực chợ Cột Đèn uống nước. Tại đây, cả hai bàn bạc và thống nhất với nhau đi cướp giật tài sản đém bán lấy tiền ăn tiêu. T điều khiển xe mô tô chở Năm đến gần khu vực trước cửa nhà số 103 C, phường H, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Trưởng phát hiện thấy chị Ngô Minh H, sinh năm 199C; trú tại: Số 31/66 C, phường H, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đi xe đạp ngược chiều, tay trái cầm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO loại VIVO7+. T điều khiển xe mô tô quay lại, áp sát bên trái xe chị H còn N ngồi sau dùng tay phải giật chiếc điện thoại của chị H. Thấy N đã lấy được chiếc điện thoại của chị H, trưởng điều khiển xe bỏ chạy về khu vực ngã tư đường Chùa Hàng và đường Tô Hiệu thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông đuổi theo chặn bắt. N bị bắt giữ cùng vật chứng còn T nhảy khỏi xe chạy thoát. Sau đó, lực lượng công an đã dẫn giải N cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Hồ Nam lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Quá trình bắt Năm, cơ quan Công an đã tiến hành thu giữ: 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 15K1-297.08; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO loại VIVO7+; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu trắng đã qua sử dụng.

Ngày 21/9/2018, Nguyễn Thế T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân bắt giữ theo Lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Tại Biên bản và Kết luận định giá tài sản số 94 ngày 17/9/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận Lê Chân kết luận: Giá trị còn lại của chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO loại VIVO7+ của chị Ngô Minh Hồng là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại cơ quan điều tra, Đỗ Văn N, Nguyễn Thế T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án nêu trên.

Chị Ngô Minh H khai: Vào hồi16 giờ 30 phút, ngày 14/9/2018 chị đi xe đạp trên đường từ Hồ Ông Báo về ngã tư Cột Đèn, vừa đi vừa sử dụng điện thoại. Khi đến khu vực trước cửa nhà số 103 đường Chùa Hàng thì bất ngờ bị hai nam giới đi xe mô tô cướp giật tài sản. Hiện tại, chị H đã nhận lại chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO loại VIVO7+ và không yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 05 tháng 12 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã truy tố Đỗ Văn N, Nguyễn Thế T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi cướp giật tài sản như nội dung vụ án đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt: Đỗ Văn N từ 42 đến 48 tháng tù.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt:  Nguyễn Thế T từ 48 đến 54 tháng tù.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Tài sản các bị cáo chiếm đoạt đã được trả lại cho bị hại. Bị hại không có ý kiến về việc bồi thường nên không xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý tang vật: Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 15K1-297.08, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là anh Hoàng Đình N, sinh năm 199D; trú quán: 225C L, phường Đ, Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Anh Hoàng Đình N trình bày bị mất xe trên tại địa bàn phường Thành Tô, quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân đã ra Quyết định chuyển bàn giao cho Công an quận Hải an để điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO loại VIVO7+ của chị Ngô Minh H, cơ quan CSĐT đã trả lại cho chị H nên không xét; Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu trắng đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo Đỗ Văn N không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; lời khai của bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa. Thể hiện: Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 14/9/2018 tại khu vực trước cửa nhà số 103 Chùa Hàng, phường Hồ Nam, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, các bị cáo Đỗ Văn N, Nguyễn Thế T đã có hành vi sử dụng xe mô tô chở nhau áp sát, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản là chiếc điện thoại VIVO loại VIVO7+ của chị Ngô Minh H khi chị H đang cầm trên tay, đi xe đạp cùng chiều rồi phóng xe bỏ chạy, sau đó bị lực lượng công an phường Hồ Nam phát hiện bắt giữ cùng vật chứng, nên đủ cơ sở kết luận các bị cáo đồng phạm tội Cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự 2015.

[3] Các bị cáo sử dụng xe mô tô thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nên phải chịu tình tiết tăng nặng định khung là “dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an ninh xã hội và gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm, bắt cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo.

[5] Về vai trò của các bị cáo: Đây là vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn. Bị cáo N đã giao xe cho bị cáo T cầm lái, N là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, còn bị cáo T là người điều khiển xe máy, phát hiện, hỗ trợ giúp sức để bị cáo N thực hiện hành vi cướp giật tài sản của chị H. Do vậy vai trò của hai bị cáo là ngang nhau. Tuy nhiên, xét về nhân thân, bị cáo T có 1 tiền án đã được xóa: Tại bản án số 114 ngày 12/11/2013, Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền xử phạt 42 tháng tù về tội Cướp giật tài sản. Bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Bị cáo N chưa có tiền án, tiền sự. Do vậy, bị cáo T phải chịu mức án cao hơn mức án của bị cáo N.

[6] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn về hành vi chiếm đoạt tài sản nên xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 thì ngoài hình phạt chính các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét các bị cáo hiện không có việc làm và không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[9] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại Ngô Minh H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 15K1- 297.08, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là anh Hoàng Đình N, sinh năm 199D; trú quán: 225C L, phường Đ, Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Anh Hoàng Đình N trình bày bị mất xe trên tại địa bàn phường Thành Tô, quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân đã ra Quyết định chuyển bàn giao cho Công an quận Hải an để điều tra, xử lý theo thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không xét. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO loại VIVO7+ của chị Ngô Minh H, cơ quan CSĐT đã trả lại cho chị H nên Hội đồng xét xử không xét. Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu trắng đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo Đỗ Văn N không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Thế T 48 (bốn mươi tám) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 21 tháng 9 năm 2018.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Đỗ Văn N 42 (bốn mươi hai) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 15 tháng 9 năm 2018.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại bị cáo Đỗ Văn N 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy On5 màu trắng bị vỡ góc màn hình dưới bên trái (theo biên bản giao nhận tài sản, vật chứng ngày 06/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân).

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc các bị cáo Đỗ Văn N, Nguyễn Thế T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Tải về
Bản án số 06/2019/HS-ST Bản án số 06/2019/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất