Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 10/01/2024 của TAND huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh về tội cướp giật tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 02/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 02/2024/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 10/01/2024 của TAND huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh về tội cướp giật tài sản |
---|---|
Tội danh: | 136.Tội cướp giật tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Dương Minh Châu (TAND tỉnh Tây Ninh) |
Số hiệu: | 02/2024/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/01/2024 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bị cáo Nguyễn Anh T |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 10/01/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện D, tỉnh Tây Ninh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 86/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo: Nguyễn Anh T, sinh ngày 19 tháng 01 năm 1992 tại H; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh B; nơi ở hiện nay: ấp P, xã B, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hoá: 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn A (sinh năm 1965) và bà Nguyễn Thị L (đã chết); vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 10/8/2017 bị Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưua vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 15 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 29/8/2019 bị Tòa án nhân dân Quận Y, Thành phố H áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 18 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 31/7/2021 bị Công an xã B, Huyện D xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27-9-2023, chuyển sang tạm giam từ ngày 03-10-2023 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên toà.
* Bị hại: Chị Huỳnh Thị Kim T, sinh năm 1989; địa chỉ: khu phố S, phường L, thị xã H, tỉnh Tây Ninh (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 23-9-2023, bị cáo Nguyễn Anh T điều khiển xe mô tô không rõ biển số của Phạm Đình Q, sinh ngày 09/10/2009, để chở Q đi tìm việc làm. Khi đi đến khu vực ấp N, xã B, Huyện D thì T nhìn thấy chị Huỳnh Thị Kim T bị té ngã trên đường khi đang điều khiển xe mô tô biển số 70G1-xxxxx. Bị cáo T dừng xe bước xuống để dựng xe chị T lên và hỏi thăm chị T. Lúc này, T nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của chị T để đem bán lấy tiền tiêu xài. T ngồi lên xe của chị T, giả vờ đề nghị đưa chị T đi cấp cứu. Khi chị T không đồng ý thì T điều khiển xe nhanh chóng chạy đi. T điều khiển xe đến khu vực quận Z, Thành phố H bán cho người thanh niên không rõ lý lịch được 3.600.000 (ba triệu sáu trăm nghìn) đồng rồi tiêu xài hết. Đến ngày 27- 9-2023, T bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp.
* Kết luận định giá tài sản số 29 ngày 29/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản thuộc UBND Huyện D kết luận: Xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 70G1-xxxxx trị giá 9.000.000 (chín triệu) đồng.
* Về thu giữ và xử lý vật chứng: Không có
* Về trách nhiệm dân sự: Chị Huỳnh Thị Kim T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 9.000.000 (chín triệu) đồng
* Kê biên tài sản: Nguyễn Anh T không có tài sản riêng có giá trị nên không tiến hành kê biên
* Đối với hành vi của Phạm Đình Q, Q không có bàn bạc, tham gia cùng T thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không xử lý
* Tại Cáo trạng số 02/CT-VKSDMC ngày 13 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện D tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa, Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện D, tỉnh Tây Ninh giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Cướp giật tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.
Bị cáo không tham gia tranh luận Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức thấp nhất nhất, để bị cáo sớm được trở về làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Bị hại có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu bồi thường, đề nghị mức hình phạt nên căn cứ quy định tại Điều 290, 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân Huyện D đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Để có tiền tiêu xài cá nhân, khoảng 17 giờ ngày 23-9-2023, tại khu vực ấp Ninh Hiệp, xã B, Huyện D, Nguyễn Anh T đã thực hiện hành vi cướp giật 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 70G1-xxxxx của chị Huỳnh Thị Kim T, trị giá 9.000.000 đồng. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Huyện D truy tố Nguyễn Anh T về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[4] Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo Nguyễn Anh T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng do ý thức coi thường pháp luật mà thực hiện hành vi phạm tội nên cần xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội
[5] Bị cáo T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị đưa vào cơ sở cai nghiên bắt buộc và xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, buộc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong tình hình hiện nay.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Huỳnh Thị Kim T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn trình bày ý kiến, giữ nguyên yêu cầu bồi thường, yêu cầu bị cáo bồi thường cho chị số tiền 9.000.000 đồng giá trị xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 70G1-xxxxx. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu bồi thường của chị T là có căn cứ, do đó, buộc bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho chị Huỳnh Thị Kim T số tiền 9.000.000 (chín triệu) đồng
[7] Đối với hành vi của Phạm Đình Q, Q không có bàn bạc, tham gia cùng T thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không xử lý [8] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
[9] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 450.000 (bốn trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Cướp giật tài sản” Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27-9-2023
2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự Buộc bị cáo Nguyễn Anh T bồi thường cho chị Huỳnh Thị Kim T số tiền 9.000.000 (chín triệu) đồng Kể từ ngày bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không trả số tiền nêu trên thì hàng tháng, bị cáo còn phải trả cho bị hại số tiền lãi theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015
3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; bị cáo Nguyễn Anh T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 450.000 (bốn trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
5. Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!