Bản án số 301/2023/HS-ST ngày 13/12/2023 của TAND Q. Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh về tội cướp giật tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 301/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 301/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 301/2023/HS-ST ngày 13/12/2023 của TAND Q. Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh về tội cướp giật tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 136.Tội cướp giật tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND Q. Bình Tân (TAND TP. Hồ Chí Minh) |
| Số hiệu: | 301/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 13/12/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Nguyễn Thái T1 “Tội cướp giật tài sản” |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN BÌNH TÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 301/2023/HS-ST
Ngày 13-12-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Huỳnh Văn Ái;
Các Hội thẩm nhân dân: ông Hoàng Công Hợp và Nguyễn Văn Đâu.
- Thư ký phiên tòa: Ông Chiêm Tiền Quí Nhân – Thư ký Tòa án nhân dân
quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: ông Mã Văn Thuân - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 12 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:
403/2023/TLST-HS, ngày 13 tháng 11 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 418/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Thái T1, sinh năm 1997, tại tỉnh Nam Định. Nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú: Xóm H, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định; nơi ở: không ổn định; nghề
nghiệp: bán trái cây dạo; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn
giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S và bà Đặng Thị P; có
vợ và 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không có; bị bắt tạm giữ ngày 20-6-
2023 (tính theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường B, quận
B lập lúc 13 giờ 35 phút ngày 20-6-2023 và kết thúc lúc 14 giờ 45 phút cùng
ngày), tạm giam ngày 27-6-2023 “có mặt”.
*Bị hại: chị Phạm Thị Mỹ X, sinh năm 1997. Nơi thường trú: nhà số H, ấp H,
xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: nhà số H, đường B, Khu phố A, phường
B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh “vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ 15 phút ngày 20/6/2023, Nguyễn Thái T1 điều khiển xe
môtô biển số 88H1-8243 đến giao lộ giữa Đường Số B và Đường Số E, thuộc
phường B, quận B thì nhìn thấy chị Phạm Thị Mỹ X có cầm chiếc điện thoại di
động bên tay trái đứng trên vỉa hè cạnh chiều đường với xe của T1 nên nảy sinh ý
định giật lấy bán kiếm tiền tiêu xài. Khi đó, T1 điều khiển xe chạy ngược chiều
quay lại áp sát vào người chị X và dùng tay trái giật lấy được điện thoại di động của
chị X rồi tăng ga xe chạy tẩu thoát. Lúc này, chị X truy hô “Cướp, cướp” thì có anh
Lê Văn L nghe thấy nên điều khiển xe môtô đuổi đến trước số A, đường B, phường
B, quận B thì anh L ép xe T1 vào lề đường; cùng lúc này có anh Trương Minh H K
chạy đến hỗ trợ cho anh L bắt giữ T1 cùng với vật chứng là chiếc điện thoại di động
2
hiệu Vivo Y02, màu đen cùng với số tiền 3.500.000 đồng (gồm 07 tờ tiền có mệnh
giá 500.000 đồng) trong ốp lưng điện thoại của chị X nên đưa tất cả đến Công an
phường B xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi sau đó chuyển cho Cơ quan
điều tra giải quyết theo thẩm quyền và tại đây, T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi như
đã nêu trên.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Thái T1 đã khai nhận: Do đang cần có
tiền tiêu xài nên lúc điều khiển xe môtô biển số 88H1-8243 chạy trên đường nhìn
thấy chị Phạm Thị Mỹ X có cầm chiếc điện thoại di động bên tay trái đứng trên vỉa
hè cạnh lòng đường nên nảy sinh ý định giật lấy bán. Khi đó, bị cáo điều khiển xe
chạy ngược chiều quay lại rồi áp sát vào người chị X và dùng tay trái giật lấy được
điện thoại di động của chị X rồi tăng ga xe chạy tẩu thoát. Nhưng sau đó bị bắt giữ
cùng với vật chứng giao cho Công an giải quyết thì mới biết được trong ốp lưng
điện thoại của chị X còn có số tiền 3.500.000 đồng (gồm 07 tờ tiền có mệnh giá
500.000 đồng) nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như
nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về trị giá tài sản đã
chiếm đoạt và trách nhiệm dân sự; riêng về vật chứng, không yêu cầu nhận lại toàn
bộ tài sản còn bị tạm giữ.
Tại Cáo trạng số: 325/CT-VKS, ngày 02 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm
sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thái
T1 ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về
“Tội cướp giật tài sản”, theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và
tranh luận có ý kiến: Bị cáo Nguyễn Thái T1 đã có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt
trái phép tài sản của chị Phạm Thị Mỹ X một cách công khai rồi tẩu thoát, tài sản trị
giá 5.250.000 đồng và đã sử dụng xe môtô làm phương tiện thực hiện hành vi này
nên được coi là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho
xã hội nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm và tương xứng. Tuy nhiên, bị
cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo
một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy
tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1
Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 03 năm
06 tháng đến 04 năm tù về “Tội cướp giật tài sản”. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại
đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì nên không có ý kiến.
Còn về vật chứng, đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe môtô biển số
88H1-8243; tịch thu tiêu hủy gồm: 01 áo thun, 01 quần Jean và 01 mũ bảo hiểm.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau
cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận B, Điều tra
viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố
đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng
3
Hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và bị
hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo
Nguyễn Thái T1 tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào khoảng 11 giờ 15 phút ngày
20/6/2023, bị cáo đã có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt trái phép tài sản là chiếc
điện thoại di động hiệu Vivo Y02, màu đen và trong ốp lưng điện thoại có số tiền
3.500.000 đồng (gồm 07 tờ tiền có mệnh giá 500.000 đồng) của chị Phạm Thị Mỹ X
tại giao lộ giữa Đường Số B và Đường Số E, thuộc phường B, quận B một cách
công khai rồi tẩu thoát. Theo Kết luận định giá tài sản số: 294/KL-HĐĐGTS, ngày
17/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự quận B
thì chiếc điện thoại di động của chị X trị giá 1.750.000 đồng (tổng trị giá tài sản của
chị X là 5.250.000 đồng). Đồng thời, bị cáo đã sử dụng chiếc xe môtô biển số
88H1-8243 làm phương tiện thực hiện hành vi này nên được coi là “Dùng thủ đoạn
nguy hiểm”. Do đó, bị cáo cáo Nguyễn Thái T1 đã phạm “Tội cướp giật tài sản”, tội
phạm và hình phạt được quy định điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm
2015.
[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp
với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại, những người làm chứng,
biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản, bản ảnh diễn lại hành vi tại trường;
vật chứng thu giữ được, kết luận định giá tài sản…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị
cáo và mức án đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận.
[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, khá táo bạo, liều lĩnh
và xem thường pháp luật; đã lợi dụng sự sơ hở của người khác để chiếm đoạt trái
phép tài sản một cách công khai ngay trên đường phố giữa ban ngày là không những
trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn có
thể gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ
và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là
sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích có tiền để thỏa mãn
nhu cầu tiêu xài cá nhân nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm và tương
xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra thì mới có đủ sức
giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra
cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên
cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s
khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Về phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm
2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền 50.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên,
theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo làm
nghề tự do và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp
dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
4
[6] Về trách nhiệm dân sự: Xét tại phiên tòa hôm nay, tuy bị hại là chị Phạm
Thị Mỹ X đã được triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt, nhưng theo các tài liệu chứng
cứ có trong hồ sơ thì: chị X đã được nhận lại đủ số tài sản bị chiếm đoạt và không
có yêu cầu gì thêm nên không xét.
[7] Về vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Vivo Y02, màu đen
và trong ốp lưng điện thoại có số tiền 3.500.000 đồng (gồm 07 tờ tiền có mệnh giá
500.000 đồng) của chị Phạm Thị Mỹ X, Cơ quan điều tra đã thu hồi giao trả lại cho
chị X nên không xét. Còn 01 xe môtô biển số 88H1-8243, số khung RLGM90BAD-
4h223810, số máy VMEM5B-223810 (đã qua sử dụng) của bị cáo khai: thông qua
mạng xã hội, mua xe của người không rõ lai lịch, có giấy đăng ký xe nhưng bị mất;
qua xác minh: xe do anh Tạ Văn M đứng tên sở hữu, đã bán lại cho người thanh
niên cũng không rõ lai lịch vào năm 2014 và không làm giấy tờ mua bán; xe không
nằm trong kho dữ liệu vật chứng truy tìm và Cơ quan điều tra cũng đã tiến hành
đăng B chủ sở hữu thực tế, nhưng đến nay vẫn chưa có ai đến giải quyết nên cần
tịch thu để sung quỹ Nhà nước. Riêng 01 áo thun màu xanh, trên cổ có viền trắng
(đã qua sử dụng); 01 quần dài Jean màu xanh (đã qua sử dụng) và 01 mũ bảo hiểm
màu xám (đã qua sử dụng) của bị cáo sử dụng lúc thực hiện hành vi phạm tội và
không yêu cầu trả lại nên cần tịch thu tất cả để tiêu hủy.
[8] Bị cáo Nguyễn Thái T1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về căn cứ điều luật và xử phạt:
- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình
sự năm 2015.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái T1 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về “Tội cướp
giật tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 20-6-2023.
2. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe môtô biển số 88H1-8243, số khung
RLGM90BAD-4h223810, số máy VMEM5B-223810 (đã qua sử dụng).
- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 áo thun màu xanh, trên cổ có viền trắng (đã qua
sử dụng); 01 quần dài Jean màu xanh (đã qua sử dụng) và 01 mũ bảo hiểm màu xám
(đã qua sử dụng).
(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm
giữ theo Phiếu nhập kho số: NK24/40TAM, ngày 08/11/2023)
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Nguyễn Thái T1 phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình
sự sơ thẩm.

5
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng
Hình sự năm 2015.
Bị cáo Nguyễn Thái T1 có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Bị hại chị Phạm Thị Mỹ X vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15
ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của
pháp luật.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND TP . HCM; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- Sở Tư pháp TP . HCM;
- VKSND QBT;
- CA QBT;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ –Văn phòng.
Huỳnh Văn Ái
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 10/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 22/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Bản án số 123/2023/HS-ST ngày 20/11/2023 của TAND TX. Lagi, tỉnh Bình Thuận về tội cướp giật tài sản
Ban hành: 20/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 15/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 14/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 07/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 31/10/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/10/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 19/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 11/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm