Bản án số 31/2023/HS-ST ngày 15/11/2023 của TAND huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu về tội cướp giật tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 31/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 31/2023/HS-ST ngày 15/11/2023 của TAND huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu về tội cướp giật tài sản
Tội danh: 136.Tội cướp giật tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Vĩnh Lợi (TAND tỉnh Bạc Liêu)
Số hiệu: 31/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/11/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Trần Trọng Lượng và đồng phạm phạm tội "Cướp giật tài sản"
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 31/2023/HS-ST NGÀY 15/11/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 11 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 24/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. TRẦN TRỌNG L, sinh ngày 17/7/20XX, tại tỉnh Bạc Liêu; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không. Nơi thường trú: Ấp M, xã VA, huyện V, tỉnh Bạc Liêu; Nơi ở hiện tại: Ấp T, xã VA, huyện V, tỉnh Bạc Liêu. Nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; con ông Trần Minh Đ (sinh năm 1970) và bà Trần Mộng Th (sinh năm 1973); anh, chị, em ruột: 02 người (lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất là bị cáo); tiền án, tiền sự: Không có; Nhân thân: Ngày 09/5/2019 bị Công an xã VA, huyện V, tỉnh Bạc Liêu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/5/2023 đến nay “có mặt”.

2. NGUYỄN TRÍ T, sinh ngày 20/10/20YY, tại tỉnh Bạc Liêu; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không. Nơi cư trú: Ấp Th, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu. Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; con ông Nguyễn Văn K (sinh năm 1970) và bà Phạm Kim P (sinh năm 1970); anh, chị, em ruột: 02 người (lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất là bị cáo); tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/5/2023 đến nay “có mặt”.

- Bị hại: Anh La Văn T, sinh năm 1991 Nơi cư trú: Ấp N, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu “có đơn xin vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 06 tháng 5 năm 2023, Trần Trọng L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại EXCITER, biển kiểm soát 94K2 - 094.MM của Trần Trọng L chở Nguyễn Trí T từ huyện H theo hướng đường Tỉnh lộ ĐT 978 về nhà. Khi qua cầu SL khoảng hơn 100m thuộc ấp T, xã L, huyện V, tỉnh Bạc Liêu (hướng CS - V), Trần Trọng L nhìn thấy anh La Văn T đang ngồi trên xe mô tô nghe điện thoại. Lúc này, Trần Trọng L nảy sinh ý định giật điện thoại để bán lấy tiền tiêu xài nên rủ Nguyễn Trí T thì Nguyễn Trí T đồng ý. Tiếp đó, Trần Trọng L điều khiển xe quay lại hướng LT và chạy qua anh La Văn T một đoạn. Trong lúc chạy ngang qua chỗ anh La Văn T, Trần Trọng L chỉ cho Nguyễn Trí T biết là giật điện thoại của người này và điều khiển xe quay lại về hướng chợ V. Khi đến gần chỗ anh La Văn T, Trần Trọng L điều khiển xe áp sát để Nguyễn Trí T ngồi sau dùng tay giật lấy điện thoại nhãn hiệu Oppo Reno 6Z 5G màu bạc của anh La Văn T đang cầm trên tay. Sau khi giật được tài sản, Trần Trọng L điều khiển xe tăng ga để bỏ chạy, Nguyễn Trí T làm rơi điện thoại di động vừa giật được tại khu vực gần hiện trường.

Ngay khi bị giật điện thoại di động, anh La Văn T điều khiển xe mô tô đuổi theo. Khi đến khu vực ấp N, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu, anh La Văn T nhặt được cái bóp (ví), bên trong có các giấy tờ gồm Căn cước công dân, Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Trí T và số tiền Việt Nam 166.000 đồng.

Sau khi thoát khỏi sự truy đuổi, Trần Trọng L và Nguyễn Trí T đến nhà của Lê Cao Ng (là bạn của Trần Trọng L) tại ấp M, xã VA, huyện V, tỉnh Bạc Liêu. Tại đây, Trần Trọng L kể cho Lê Cao Ng nghe nội dung sự việc cùng Nguyễn Trí T vừa giật điện thoại của người khác, nhưng Lê Cao Ng không nói gì. Một lúc sau, Trần Trọng L chở Nguyễn Trí T đến nhà của Lê Văn Đ tại ấp M, xã VA, huyện V, tỉnh Bạc Liêu để ngủ và đến sáng cả hai về nhà.

Ngày 08 tháng 5 năm 2023, anh La Văn T mang cái bóp nhặt được đến Công an xã L, huyện V, tỉnh Bạc Liêu giao nộp và trình báo sự việc.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐĐGTS ngày 14 tháng 5 năm 2023, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện V, tỉnh Bạc Liêu kết luận 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno 6Z 5G Bạc tại thời điểm ngày 06 tháng 5 năm 2023 trị giá 1.500.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 24/CT-VKS-HS ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu đã truy tố các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T về tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T theo như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị: Tuyên bố các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T phạm tội: “Cướp giật tài sản”. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Trọng L từ 03 năm 03 tháng đến 03 năm 06 tháng tù, xử phạt bị cáo Nguyễn Trí T từ 03 năm đến 03 năm 03 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự, các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T đã khắc phục thiệt hại xong số tiền 1.500.000 đồng và bị hại, anh La Văn T không có yêu cầu gì khác nên không đề cập xử lý. Về xử lý vật chứng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành chụp ảnh, ghi nhận đưa vào hồ sơ vụ án và giao trả cho chủ sở hữu La Văn T 01 (một) hóa đơn bán lẻ ngày 21/8/2021, trên hóa đơn có ghi Oppo Reno 6Z, có đóng dấu màu đỏ của Cửa hàng ĐTDD TK, ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu và 01 (một) cái hộp để điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen; đã giao trả cho chủ sở hữu Nguyễn Trí T 01 (một) cái bóp (ví) màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có 01 (một) giấy Căn cước công dân, 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Trí T và số tiền Việt Nam 166.000 đồng nên không đặt ra xử lý. Đối với xe môtô nhãn hiệu YAMAHA, loại EXCITER, biển kiểm soát 94K2 - 094.MM, là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo Trần Trọng L được các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T dùng làm phương tiện đi cướp giật tài sản; đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước kèm 01 (một) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 94011xxx mang tên Trần Trọng L. Buộc các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến tranh luận với Bản luận tội của Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt khi nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện theo quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại đều không có ý kiến, khiếu nại hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[1.2] Bị hại, anh La Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt và đã có lời khai, yêu cầu cụ thể, rõ ràng trong quá trình điều tra; xét việc vắng mặt của anh La Văn T không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiến hành xét xử vắng mặt anh La Văn T.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Xuất phát từ ý thức xem thường pháp luật, động cơ tư lợi bất chính, vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 06 tháng 5 năm 2023, tại khu vực ấp T, xã L, huyện V, tỉnh Bạc Liêu, bị cáo Trần Trọng L đã điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại EXCITER, biển kiểm soát 94K2 - 094.MM chở bị cáo Nguyễn Trí T ngồi sau, áp sát xe mô tô của anh La Văn T để bị cáo Nguyễn Trí T nhanh chóng giật lấy điện thoại nhãn hiệu Oppo Reno 6Z 5G màu Bạc có giá trị theo định giá là 1.500.000 đồng của anh La Văn T đang cầm trên tay.

[2.2] Hành vi nêu trên của các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T thực hiện hành vi phạm tội là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Đồng thời, hành vi sử dụng xe mô tô, là nguồn nguy hiểm cao độ, áp sát và giật điện thoại của anh La Văn T đang cầm trên tay và ngồi trên xe mô tô của các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T là rất nguy hiểm, có khả năng gây tổn hại tính mạng, sức khỏe cho người khác rất cao nên hành vi của các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T, là thuộc trường hợp “dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Do vậy, các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2.3] Hội đồng xét xử kết luận các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T phạm tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Cáo trạng số 24/CT-VKS- HS ngày 03 tháng 10 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây tác động xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương. Vì thế, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T nghiêm khắc, cách ly các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T với đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ răn đe, cải tạo, giáo dục các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T cũng như phát huy tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội. Xét vai trò, mức độ phạm tội của các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T, thấy rằng các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T phạm tội mang tính chất đồng phạm giản đơn; trong đó, bị cáo Trần Trọng L là người khởi xướng, rủ rê và cũng là người thực hiện hành vi điều khiển xe mô tô áp sát xe mô tô của anh La Văn T để tạo điều kiện cho bị cáo Nguyễn Trí T thực hiện hành vi cướp giật tài sản, còn bị cáo Nguyễn Trí T là người giữ vai trò thực hành, trực tiếp thực hiện hành vi cướp giật tài sản của anh La Văn T. Mặt khác, bị cáo Trần Trọng L có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, nhưng bị cáo Trần Trọng L chưa chấp hành xong mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; điều này cho thấy, ý thức chấp hành pháp luật kém của bị cáo Trần Trọng L. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Trần Trọng L cao hơn mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trí T mới tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo và đảm bảo nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, đảm bảo sự công bằng đối với từng bị cáo. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T đã thành khẩn khai báo, khắc phục toàn bộ thiệt hại cho anh La Văn T thông qua việc vận động gia đình nộp tiền bồi thường thiệt hại cho anh La Văn T; đây là các tình tiết thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” “người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; đồng thời, anh La Văn T có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T; ngoài ra, các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T còn có thân nhân là người có công với cách mạng (ông ngoại của bị cáo Trần Trọng L là ông Trần Văn B được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất và ông nội của bị cáo Nguyễn Trí T là Liệt sĩ Nguyễn Văn Th có Bằng Tổ quốc ghi công); đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì thế, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên để giảm nhẹ một phần hình phạt; đồng thời, căn cứ Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, cho các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T được hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T.

[2.5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, anh La Văn T, đã nhận đủ số tiền 1.500.000 đồng do gia đình các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T khắc phục và không có yêu cầu gì khác về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra xem xét.

[2.6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành chụp ảnh, ghi nhận đưa vào hồ sơ vụ án và giao trả cho chủ sở hữu La Văn T 01 (một) hóa đơn bán lẻ ngày 21/8/2021, trên hóa đơn có ghi Oppo Reno 6Z, có đóng dấu màu đỏ của Cửa hàng ĐTDD TK, ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu và 01 (một) cái hộp để điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen; giao trả cho chủ sở hữu Nguyễn Trí T 01 (một) cái bóp (ví) màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có 01 (một) giấy Căn cước công dân, 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Trí T và số tiền Việt Nam 166.000 đồng; xét việc giao trả tài liệu, đồ vật nêu trên là có căn cứ nên không đặt ra xử lý. Đối với xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại EXCITER, biển kiểm soát 94K2 - 094.MM, là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo Trần Trọng L được các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T dùng làm phương tiện đi cướp giật tài sản; đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước kèm 01 (một) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 94011xxx mang tên Trần Trọng L .

[2.7] Về án phí: Buộc các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[2.8] Các ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu tại phiên tòa, như đã phân tích, có căn cứ nên được chấp nhận.

[2.9] Đối với hành vi của Lê Cao Ng không trình báo sự việc với Công an sau khi nghe Trần Trọng L nói lại sự việc Trần Trọng L và Nguyễn Trí T cướp giật điện thoại di động của người khác, không thuộc trường hợp phạm tội “Không tố giác tội phạm” theo quy định tại Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V không đề cập xử lý là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

2. Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Trọng L 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày 08 tháng 5 năm 2023.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trí T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày 08 tháng 5 năm 2023.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại EXCITER đã qua sử dụng, số máy: G3D4E338162, số khung: RLCUG0610GY322052, biển số đăng ký: 94K2-094.MM (xe không có chìa khóa) kèm theo 01 (một) giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số: 94011xxx mang tên Trần Trọng L – Sinh năm 2001, địa chỉ: ấp M, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

(Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bạc Liêu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16 tháng 10 năm 2023).

4. Về án phí: Ap dung Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Trần Trọng L và Nguyễn Trí T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Tải về
Bản án số 31/2023/HS-ST Bản án số 31/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất