Bản án số 20/2024/HS-ST ngày 18/01/2024 của TAND Q. Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh về tội cướp giật tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 20/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 20/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 20/2024/HS-ST ngày 18/01/2024 của TAND Q. Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh về tội cướp giật tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 136.Tội cướp giật tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND Q. Bình Tân (TAND TP. Hồ Chí Minh) |
| Số hiệu: | 20/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 18/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Nguyễn Ảnh S E 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về “Tội cướp giật tài sản” |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN BÌNH TÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 20/2024/HS-ST
Ngày 18-01-2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Huỳnh Văn Ái;
Các Hội thẩm nhân dân: bà Võ Phương Trang và Bùi Diệu Huệ.
- Thư ký phiên tòa: ông Chiêm Tiền Quí Nhân-Thư ký Tòa án nhân dân quận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh tham gia phiên tòa: ông Mã Văn Thuân-Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 01 năm 2024, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:
432/2023/TLST-HS, ngày 07 tháng 12 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 03/2024/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Ảnh S E, sinh ngày 25/12/1990, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi
đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp Đ, xã L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng; nơi ở: Ấp A, xã
L, thị xã L, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 1/12; dân tộc:
Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn
Ảnh H (chết) và bà Hồ Thị P; có vợ và 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự:
không có; nhân thân: ngày 17/9/2008, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
xử phạt 02 năm 06 tháng 25 ngày tù về “Tội cướp giật tài sản (đã chấp hành xong
hình phạt chính ngày 17/9/2008 và bị kết án sau khi thực hiện hành vi phạm tội
trong vụ án này nên không được xem xét án tích); ngày 11/4/2009, bị Tòa án nhân
dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về “Tội cướp giật tài
sản (đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 11/02/2014 và bị kết án sau khi thực
hiện hành vi phạm tội trong vụ án này nên không được xem xét án tích); bị tạm giữ
ngày 14-6-2023 (đầu thú theo quyết định truy nã), tạm giam ngày 23-6-2023 “có
mặt”.
*Bị hại: chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1981. Nơi thường trú và cư trú: nhà số
A, đường P, Phường A, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh “vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
2
Vào khoảng 12 giờ ngày 16/12/2005, tên Nguyễn Thành T điều khiển xe
môtô hiệu Suzuki, loại Sport, biển số 63K4-5371 chạy trên đường gặp Nguyễn Ảnh
S E nên rủ E đi tìm tài sản giật lấy bán kiếm tiền tiêu xài thì Em đồng ý. Lúc khoảng
13 giờ cùng ngày, cả 02 đến trước nhà số G, đường T, phường B, quận B thì tên T
nhìn thấy anh Mai Quốc S1 đang điều khiển xe môtô hiệu Honda, loại Wave, biển
số 66K9-3504 chở chị Nguyễn Thị Đ có ôm 01 túi xách (bên trong có: 01 Giấy
chứng minh nhân dân, 01 Giấy phép lái xe, 01 máy tính hiệu Casio, 01 cuốn sổ ghi
bán hàng và số tiền 200.000 đồng) chạy phía trước cùng chiều nên tên T chỉ cho E
thấy và kêu giật cái túi xách của chị Đ rồi điều khiển xe chạy lên áp sát bên trái xe
anh S1, còn E ngồi sau dùng tay phải giật được cái túi xách của chị Đ thì tên T tăng
ga xe bỏ chạy tẩu thoát. Khi đó, anh S1 và chị Đ vừa tri hô lên, vừa chạy đuổi theo
thì được anh Phan Văn T1 cùng người dân xung quanh hỗ trợ bắt giữ được cả 02
cùng với vật chứng giao cho Công an phường B xử lý người có hành vi phạm tội
quả tang. Sau khi làm việc xong, Công an phường B cho E về để củng cố thêm hồ
sơ, còn tên T bị giữ lại chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền.
Đến ngày 19/12/2005, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án, bị can và
tạm giam đối với tên T; ngày 27/12/2005, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định khởi tố
bị can đối với Em và ra Lệnh bắt bị can để tạm giam ngày 23/01/2006, nhưng do E
đã bỏ trốn nên ngày 03/3/2006, ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can và truy nã
Em.
Đối với tên Nguyễn Thành T, đã bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
xử phạt 01 năm 06 sáu về “Tội cướp giật tài sản” (khi phạm tội đủ 14 tuổi dưới 16
tuổi), theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 1628/2006/HSST, ngày 05/12/2006. Riêng
Nguyễn Ảnh S E đến ngày 14/6/2023 mới ra Công an phường B, quận B đầu thú
chuyển giao cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, Em đã khai
nhận toàn bộ hành vi như vừa mới nêu và tuy trong lúc bỏ trốn, E còn nhiều lần
thực hiện hành vi phạm tội khác và đã bị kết án, nhưng không có khai ra hành vi
này nên chưa bị xử lý. Về định giá tài sản, do phần tài sản của chị Đ là 01 cái túi
xách không rõ đặc điểm, nhãn hiệu; 01 máy tính Casio thì đã qua sử dụng, không rõ
đặc điểm; còn 01 cuốn sổ cũng không rõ đặc điểm nên Hội đồng định giá tài sản
thường xuyên trong tố tụng hình sự quận B có Công văn số: 320/HĐĐGTS, ngày
19/9/2023 từ chối thực hiện định giá tài sản theo yêu cầu của Cơ quan điều tra.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Ảnh Sang E1 đã khai nhận: Do đang
trong lúc cần có tiền tiêu xài mà khi tên Nguyễn Thành T rủ đi tìm tài sản để giật
lấy bán nên bị cáo liền đồng ý. Sau đó, tên T điều khiển chiếc xe môtô chở bị cáo
chạy đi cho đến khi tên T nhìn thấy: anh Mai Quốc S1 đang điều khiển xe môtô chở
chị Nguyễn Thị Đ có ôm 01 túi xách (bên trong có: 01 Giấy chứng minh nhân dân,
01 Giấy phép lái xe, 01 máy tính hiệu Casio, 01 cuốn sổ ghi bán hàng và số tiền
200.000 đồng) chạy phía trước cùng chiều nên tên T chỉ cho bị cáo thấy và kêu giật
túi xách của chị Đ rồi điều khiển xe chạy lên áp sát bên trái xe anh S1, còn bị cáo
dùng tay phải giật được cái túi xách này thì tên T tăng ga xe bỏ chạy tẩu thoát.
3
Nhưng chỉ chạy được khoảng 100 mét do xe bị tắt máy nên cả 02 bị bắt giữ cùng
với vật chứng giao cho Công an giải quyết nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện
hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý
kiến gì về giá trị tài sản đã chiếm đoạt của chị Đ, trách nhiệm dân sự và việc giải
quyết vật chứng.
Tại Cáo trạng số: 02/CT-VKS, ngày 05 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát
nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Ảnh S
E ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về
“Tội cướp giật tài sản”, theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và
tranh luận có ý kiến: Bị cáo Nguyễn Ảnh Sang E1 đã có hành vi nhanh chóng chiếm
đoạt trái phép tài sản là 01 túi xách bên trong có 01 Giấy chứng minh nhân dân, 01
Giấy phép lái xe, 01 máy tính hiệu Casio, 01 cuốn sổ ghi bán hàng và số tiền
200.000 đồng của chị Nguyễn Thị Đ một cách công khai rồi tẩu thoát và đã sử dụng
xe môtô làm phương tiện thực hiện hành vi này nên được coi là “Dùng thủ đoạn
nguy hiểm”. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần phải xử bị cáo với
mức án thật nghiêm và tương xứng. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn
năn hối cải và đã ra đầu thú, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình
phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu; đồng khi phạm tội, bị cáo đủ 14 tuổi dưới 16 tuổi nên
còn phải áp dụng chế định người chưa thành niên phạm tội để xử lý đối với bị cáo.
Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d
khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51,
Điều 38, Điều 91 và khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo
với mức án từ 04 năm đến 05 năm tù về “Tội cướp giật tài sản”. Về trách nhiệm dân
sự và vật chứng, đã được giải quyết xong nên không có ý kiến.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau
cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận B, Điều tra
viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố
đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng
Hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và bị
hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
4
[2] Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Nguyễn
Ảnh S Em tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào khoảng 13 giờ ngày 16/12/2005, bị
cáo đã có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt trái phép tài sản là 01 túi xách bên trong
có 01 Giấy chứng minh nhân dân, 01 Giấy phép lái xe, 01 máy tính hiệu Casio, 01
cuốn sổ ghi bán hàng và số tiền 200.000 đồng của chị Nguyễn Thị Đ tại trước nhà
số G, đường T, phường B, quận B một cách công khai rồi tẩu thoát. Theo Công văn
số: 320/HĐĐGTS, ngày 19/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên
trong tố tụng hình sự quận B trả lời từ chối thực hiện định giá tài sản do không đủ
thông tin và điều kiện cần thiết về tài sản yêu cầu định giá của Cơ quan điều tra và
đồng thời, bị cáo đã sử dụng chiếc xe môtô biển số 63K4-5371 làm phương tiện
thực hiện hành vi này nên được coi là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Xét, do hành vi
của bị cáo xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 và điều khoản quy
định về mức hình phạt của “Tội cướp giật tài sản” được quy định trong Bộ luật Hình
sự năm 2015 so với điều khoản tương ứng của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì không
có lợi gì cho bị cáo nên cần phải áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999 để xét xử bị
cáo theo quy định tại Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội.
Do đó, bị cáo Nguyễn Ảnh Sang E1 đã phạm “Tội cướp giật tài sản”, tội phạm và
hình phạt được quy định điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999.
[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp
với lời khai của bị cáo và tên Nguyễn Thành T trước đây tại Cơ quan điều tra, lời
khai của bị hại, những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật
chứng thu giữ được…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và một phần lời đề nghị
của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận; riêng phần đề ghị xử phạt bị
cáo với mức án từ 04 năm đến 05 năm tù là chưa xem xét đến tình tiết khi phạm tội
bị cáo đủ 14 tuổi dưới 16 tuổi, dẫn đến mức án đề nghị như vậy là quá nặng nên
không chấp nhận. Còn đối với tên Nguyễn Thành T đã được giải quyết tại Bản án
hình sự sơ thẩm số: 1628/2006/HSST, ngày 05/12/2006 của Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh nên nay không xét.
‘[ [4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, khá táo bạo, liều lĩnh
và xem thường pháp luật; đã lợi dụng sự sơ hở của người khác để chiếm đoạt trái
phép tài sản một cách công khai ngay trên đường phố giữa ban ngày là không những
trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn có
thể gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ
và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là
sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích có tiền để thỏa mãn
nhu cầu tiêu xài cá nhân; đồng thời trong lúc bỏ trốn truy nã, bị cáo còn đã nhiều lần
thực hiện hành vi phạm tội khác và bị kết án nên cần phải xử bị cáo với mức án thật
nghiêm và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng nhân thân của
bị cáo thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy
nhiên, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay: bị cáo đã thành khẩn
5
khai báo, ăn năn hối cải và đã ra đầu thú nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo
một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình
sự năm 2015. Đồng thời khi phạm tội, bị cáo đã đủ 14 tuổi, dưới 16 tuổi nên còn
được áp dụng chế định người chưa thành niên phạm tội để xử lý đối với bị cáo theo
quy định tại Điều 91; khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Về phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm
1999 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm
triệu đồng”. Nhưng do khi phạm tội, bị cáo chưa thành niên nên không áp dụng
hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 69 Bộ
luật Hình sự năm 1999.
[6] Về trách nhiệm dân sự và vật chứng: Đã được giải xong tại Bản án hình sự
sơ thẩm số: 1628/2006/HSST, ngày 05/12/2006 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh nên không xét.
[7] Bị cáo Nguyễn Ảnh S Em phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về căn cứ điều luật và xử phạt:
- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s
khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Ảnh S E 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về “Tội cướp
giật tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 14-6-2023.
2. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Nguyễn Ảnh S E phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình
sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng
Hình sự năm 2015.

6
Bị cáo Nguyễn Ảnh S E có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Bị hại chị Nguyễn Thị Đ vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp
luật.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND TP . HCM; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKSND TP . HCM;
- Sở Tư pháp TP . HCM;
- VKSND Q.BT;
- CQĐT-CA Q.BT;
- Nhà tạm giữ-CA Q.BT;
- Chi cục THA DS Q.BT;
- Trại tạm giam;
- UBND nơi bị cáo cư trú; Huỳnh Văn Ái
- Bị cáo, bị hại;
- Người tham gia tố tụng khác (nếu có);
- Lưu hs,Vp.
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 10/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 13/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 22/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Bản án số 123/2023/HS-ST ngày 20/11/2023 của TAND TX. Lagi, tỉnh Bình Thuận về tội cướp giật tài sản
Ban hành: 20/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 15/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 14/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 07/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 31/10/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/10/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 19/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 11/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm