Bản án số 05/2025/DS-PT ngày 21/03/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 05/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 05/2025/DS-PT ngày 21/03/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Bình
Số hiệu: 05/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Trần Hồng B - Đinh Xuân N tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG BÌNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 05/2025/DS-PT
Ngày: 22 - 01 - 2025
V/v tranh chấp HĐ chuyển quyền
sử dụng đất và đòi laij tài sản”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Dương
Thẩm phán:
1. Bà Từ Thị Hải Dương
2. Ông Dương Viết Hải
- Thư phiên tòa: Hoàng Thị Hương Giang Thẩm tra viên Tòa án
nhân tỉnh Quảng Bình
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa:
Bà Lê Thị Phương Nhung - Kiểm sát viên
Ngày 22 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 58/2024/TLPT-TCDS ngày 15 tháng
10 năm 2024 về “Tranh chấp chuyển quyền sdụng đất đòi lại tài sản”,
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 285/2024/QĐXXPT-DS, ngày
06/11/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần Hồng B, sinh năm 1971, địa chỉ: Đường T, Tổ dân
phố G, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Đinh Xuân N, sinh năm 1950 Nguyễn Thị Q, sinh
năm 1957; địa chỉ: Số A đường T, Tổ dân phố G, phường H, thành phố Đ, tỉnh
Quảng Bình. Ông N, bà Q có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Trần n Đ,
Văn phòng L1 thuộc đoàn luật tỉnh Q; địa chỉ: Số I đường N, thành phố Đ, tỉnh
Quảng Bình. Vắng mặt.(Có đơn xin xét xử vắng mặt).
3. Người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm
1962; địa chỉ: Thôn M, xã X, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền: Trần Hồng B, sinh năm 1971; địa chỉ:
Đường T, Tổ dân phố G, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Báo theo địa
chỉ: Số B L, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Theo văn bản uỷ quyền
ngày 17/4/2024. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn Trần Hồng B trình bày: Ngày 17/01/1998, nhận
chuyển nhượng đất của gia đình ông Đinh Xuân N cùng lập “Giấy chuyển
nhượng đất (Có giấy chuyển nhượng m theo), diện tích 120m² tại thửa
đất số 54, tờ bản đồ địa chính số 2, được UBND thị Đ cấp ngày 27/5/1992
mang tên ông Đinh Xuân N, với giá 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng)
cam kết: Ông Đinh Xuân N nghĩa vụ làm thủ tục giấy tờ chuyển nhượng quyền
sử dụng đất tại UBND phường H làm thủ tục tại UBND thĐ (nay thành
phố Đ) cho bà, bà đã chuyển tiền cho ông N cụ thể như sau:
- Ngày 17/01/1998, giao ông Đinh Xuân N số tiền 35.000.000 đồng (Ba
mươi lăm triệu đồng);
- Ngày 25/01/1998 giao ông Đinh Xuân N số tiền 5.000.0000 đồng (Năm
triệu đồng).
- Ngày 02/7/1998 giao ông Đinh Xuân N số tiền 14.000.000 đồng (Mười
bốn triệu đồng) .
- Ngày 16/08/1998, giao ông Đinh Xuân N số tiền còn lại 6.000.000
đồng (Sáu triệu đồng).
Trên diện tích đất này, bà đã xây dựng nhà ở kiên cố từ năm 1998 đến nay,
không có tranh chấp.
Quá trình sử dụng đất bà đã nhiều lần yêu cầu ông Đinh Xuân N thực hiện
nghĩa vlàm thủ tục về đất đai theo như đã cam kết, đến ngày 03/05/2001, ông
Đinh Xuân N viết giấy hẹn đến hết tháng 06/2001 sẽ làm thủ tục chuyển nhượng
cho bà. Tuy nhiên, mãi đến nay ông N vẫn không thực hiện. vậy, đnghị
Toà án: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
17/01/1998 giữa Trần Hồng B, Nguyễn Văn S ông Đinh Xuân N hiệu
lực pháp luật diện tích đất hiện trạng sử dụng đất là 157.6m², trong đó diện tích
đất ở 120m
2
, diện tích đất vườn 37.6m
2
.
* Bị đơn ông Đinh Xuân N, bà Nguyễn Thị Q trình bày:
Năm 1988 gia đình ông ra làm nhà khu đất phía ngoài khách sạn Công
đoàn hiện nay. Lúc đó chỉ đồi cát dân ra trồng dương chắn gió chỉ một số
nhà dân ra đó, chưa đường. Ông làm nhà sử dụng đất với diện tích
600,58m².
Năm 1998 B nhu cầu mua đất để làm nhà làm quán, ông
làm hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chồng B ông S 120m² đất trong diện
tích đất 200m² của ông được cấp. Ông, vẫn chấp nhận đề nghị công nhận
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với bà Trần Hồng B là
hợp pháp. Nhưng thực tế hiện tại bà B đang sử dụng là 157.6m². Đề nghị B tr
lại cho vợ chồng ông 37.6m² phần diện tích lấn sang đất của gia đình ông về
phía Tây, đồng thời tháo dỡ phần nhà nằm trên phần diện tích đất nói trên.
Ngoài ra ông bà yêu cầu bà B phải trả số tiền nộp thuế đất cho Nhà nước t
năm 1998 đến năm 2024 với tổng số tiền 1.415.817.900 đồng, trong đó số tiền
gốc 9.706.860 đồng, tiền lãi 1.406.111.040 đồng.
Tại bản án sơ thẩm số 37/2024/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2024 của Toà
án nhân dân thành phố Đồng Hới đã quyết định:
Áp dụng Điều 26, 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 691, 963, 705,706, 707, 711,
712 BLDS năm 1995 (nay Điều 117, 119, 500, 501, 502 503 của Bộ luật dân sự
2015); Điều 30, 31 Luật đất đai 1993 (nay Điều 167 Luật đất đai); Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Hồng B.
2. Công nhận “Giấy chuyển nhượng đất ở” được kết ngày 17/01/1998,
giữa: ông Đinh Xuân N và ông Nguyễn Văn S, là hợp pháp.
Giao cho Trần Hồng B được sử dụng diện tích đất 157.6m
2
, trong đó, đất
120m
2
, đất trồng cây lâu năm khác 37.6m
2
, được tách ra từ thửa đất s07, tờ
bản đồ số 03 (nay thửa 26, tờ bản đồ số 02, địa chỉ thửa đất tại phường H, thành
phố Đ, diện tích 200m
2
(diện tích hiện trạng 499m
2
), do UBND thị Đ (nay
UBND thành phố Đ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/5/1992
mang tên ông Đinh Xuân N.
Diện tích đất 157.6m
2
giao cho bà B sử dụng có tứ cận kích thước như sau:
- Phía Đông giáp đường T có kích thước từ điểm 01 đến điểm 2 là 6m.
- Phía Tây giáp đất ông N có kích thước từ điểm 07 đến điểm 04 là 4.06m +
1.82m.
- Phía Bắc giáp đất ông N phần đất quy hoạch làm đường kích thước
từ điểm 07 đến điểm 01 là 22.28m + 4.13m.
- Phía Nam giáp thửa đất số 29 kích thước tđiểm 04 đến điểm 02
22.38m + 4.25m.
3. Diện tích đất được giao cho bà B sử dụng ở phía Đông (G đường T) được
quan Nhà nước thẩm quyền quy hoạch đường giao thông với diện tích 25m
2
.
Khi nào quan Nhà nước thẩm quyền thực hiện quy hoạch tB trả lại
phần diện tích đất đã quy hoạch.
4. Diện tích đất của ông N, Q tại thửa đất số 07, tờ bản đồ số 03 (nay thửa
26, tờ bản đồ số 02), địa chỉ thửa đất tại phường H, thành phố Đ, diện tích còn lại
sau khi đã chuyển nhượng cho B theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 80m
2
đất và diện tích chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 267.8m.
Tổng cộng diện tích 347.8m
2
, trong đó, đất 80m
2
, đất trồng cây lâu năm khác
267.8m
2
. Nhưng trong quá trình giải quyết vụ án ông N, Q không cho Hội đồng
thẩm định định giá đo vẽ hiện trạng trạng thửa đất của ông, bà nên Hội đồng căn
cứ vào Bản đồ địa chính năm 2014 để xác định diện tích hiện trạng ông bà đang
sử dụng và ông, bà không yêu cầu Toà án công nhận phần đất này nên không
xem xét giải quyết. Khi nào ông N, Q có yêu cầu làm giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì diện tích của ông bà có thể
tăng hoặc giảm do quan cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyết định.
5. Buộc Trần Hồng B phải trả cho ông Đinh Xuân N Nguyễn Thị Q
số tiền nộp thuế nhà đất tnăm 1998 đến 2024 20.850.535 đồng, trong đó nợ
gốc 10.306.480 đồng, nợ lãi 10.544.055 đồng.
6. Không chấp nhận yêu cầu ông Đinh Xuân N Nguyễn Thị Q buộc
Trần Hồng B phải trlãi suất của số tiền nộp thuế từ năm 1998 đến 2024
1.394.967.000 đồng.
7. Không chấp nhận yêu cầu của cho ông Đinh Xuân NNguyễn Thị Q
yêu cầu Trần Hồng B phải trả lại 37.8m
2
đất và tháo dỡ phần ntrên diện tích
đất này.
8. Đương sự quyền liên hệ với Cơ quan Nhà nước thẩm quyền để được
cấp, cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
9. Về khoản tiền trong lúc hoà giải ông Đinh Xuân N, Nguyễn Thị Q
yêu cầu bà B trả tiền thuê đất 37.6m
2
B đang sử dụng nhưng không nói cụ thể
bao nhiêu tiền. Tại phiên toà ông không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
Ngoài ra bản án còn tuyên buộc đương sự phải chịu án phí, chi phí thẩm
định, định giá và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05 tháng 9 năm 2024 bị đơn ông Đinh Xuân
N Nguyễn Thị Q kháng cáo yêu cầu Toà án tỉnh Quảng Bình xem xét giải
quyết lại vụ án.
Tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng
cứ gì.
Nguyên đơn trình bày: Ngày 17/01/1998, vợ chồng nhận chuyển
nhượng đất của vợ chồng ông Ngô Q1, diện tích 120m² tại thửa đất số 54,
tờ bản đồ địa chính số 2, được UBND thị Đ cấp ngày 27/5/1992 mang tên ông
Đinh Xuân N, với giá 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) cam kết: Ông
N nghĩa vụ làm thủ tục giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại UBND
phường H và làm thủ tục tại UBND thị xã Đ (nay là thành phố Đ) cho bà, bà đã
chuyển tiền đầy đủ cho ông N. Quá trình sử dụng đất đã nhiều lần yêu cầu ông
Đinh Xuân N thực hiện nghĩa vụ làm thủ tục về đất đai theo như đã cam kết, đến
ngày 03/05/2001, ông N viết giấy hẹn đến hết tháng 06/2001 sẽ làm thủ tục
chuyển nhượng cho bà. Tuy nhiên, mãi đến nay ông N vẫn không thực hiện.
vậy, bà đề nghị Toà án: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
lập ngày 17/01/1998 giữa vợ chồng và vợ chồng ông Đinh Xuân N hiệu lực
pháp luật diện tích đất hiện trạng sử dụng đất là 157.6m², trong đó diện tích
đất 120m
2
, diện tích đất vườn 37.6m
2
để làm các thủ tục cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Đồng bị đơn trình bày: m 1988 ông ra làm nhà ở khu đất phía ngoài
khách sạn Công đoàn hiện nay. Lúc đó chỉ là đồi cát, người dân ra trồng dương
chắn gió chỉ có một số nhà dân ra ở đó và chưa có đường. Ông bà làm nhà và sử
dụng đất với diện tích 600,58m². Năm 1998 ông làm hợp đồng chuyển
nhượng cho vợ chồng B 120m² trong diện tích đất 200m² đã được cấp. Ông
đồng ý đề nghị công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên
là hợp pháp. Tuy nhiên chỉ đồng ý chuyển nhượng 120m² trong tổng số diện tích
200m² đất ở mà vợ chồng ông được cấp.
Nay Trần Hồng B làm đơn khởi kiện thì vợ chồng ông bà không đồng ý,
ông chưa được UBND thành phố cấp lại đất theo diện tích UBND tỉnh
chỉ đạo nên không thể tách phần diện tích đất đã chuyển nhượng 120m² cho bà B
được.
* Đại diện VKSND tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm các đương sự người tiến
hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Chấp nhận đơn kháng cáo của Đ1 bị đơn (vợ chồng ông
Đinh Xuân N Nguyễn Thị Q) cần sữa Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2024/DS
- ST ngày 22 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình.
Ông Đinh Xuân N và bà Nguyễn Thị Q phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
theo quy định.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm;
kết quả tranh luận, ý kiến của kiểm sát viên, nguyên đơn, bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn
cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Ngày 22 tháng 9 năm 2024 Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình xét xử và ban hành Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2024/DS - ST.
Ngày 05/9/2024, bị đơn vợ chồng ông Đinh Xuân N Nguyễn Thị Q
làm đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị đơn, làm trong hạn luật định, kháng
cáo của bđơn đúng quy định tại Điều 272 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân
sự nên chấp nhận để xét xử phúc thẩm.
[2] Xét yêu cầu nguyên đơn bà B yêu cầu Toà án công nhận “Giấy chuyển
nhượng đất ở” ngày 17/01/1998 hiệu lực pháp luật: Theo như hợp đồng chuyển
nhượng đất và Giấy chuyển nhượng đất được lập ngày 17/01/1998 thì vợ chồng
ông Đinh Xuân N bà Nguyễn Thị Q đã thothuận chuyển nhượng cho Trần
Thị B chồng Nguyễn Văn S, diện tích đất chuyển nhượng 120m
2
, chiều
ngang 6m, chiều dài 20m trong số diện tích đất ở lâu dài đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (có đồ kèm theo giấy chuyển nhượng xác định: Phía
Đông mặt tiền đường nhựa (nay đường Trương Pháp 6m; Phía Tây mặt sau giáp
đồi cát 6m; Phía Bắc giáp đất ở ông N 20m; Phía Nam giáp đất ông H 20m). Hai
bên thoả thuận thống nhất, ông Đinh Xuân N nghĩa vụ làm thủ tục giấy nhượng
bán đất tại UBND phường. Bà B và ông S chịu trách nhiệm đi làm các thủ tục về
nhượng, bán đất tại UBND thị Sở địa chính tách bìa đỏ…”. Sau khi nhận
chuyển nhương bà B, ông S đã trả đủ tiền cho ông N đã làm nhà cấp 4 (năm
1998) một tầng xây gạch, trụ tông với diện tích 118.6m
2
và từ đó cho đến
nay đã 26 năm, khi bà B làm nhà ông N, bà Q không phản đối, sinh sống ổn định
không tranh chấp, ông N đã được UBND thĐ (nay là UBND thành phố
đồng Hới) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 27/5/1992, mặt khác
tại phiên toà sơ thẩm và phiên toà phúc thẩm ông Ngô bà Q1bà B đều đề nghị
Toà án công nhận “Giấy chuyển nhượng đất ở” ngày 17/01/1998, cho nên việc
chuyển nhượng đất giữa ông N, Q1 ông S, B phù hợp với quy định của
pháp luật.
[3] Xét yêu kháng cáo của ông Ngô bà Q1 thấy:
[3.1] Ông Ngô bà Q1 yêu cầu B trả lại 37,6m2 đất mà hiện nay B đang
sử dụng: Theo biên bản thẩm định tại chổ ngày 178/12/2024 t B đang sử
dụng diện tích 157.6m
2
thừa 37.6m
2
so với giấy nhượng đất, phần diện tích đất
thừa này đang do nhà nước quản lý, vậy, sau khi thảo luận nghị án Hội đồng
xét xử xét thấy không thể công nhận phần diện tích đất này cho B. Theo như
Quyết định của bản án sơ thẩm.
Theo Bản đồ địa chính của UBND phường H, tờ bản đồ số 02, được đo vẽ
tháng 6/1996 được kiểm tra pduyệt tháng 12/1996, thể hiện đất của ông N diện
tích 200m
2
; tại thửa số 22 thể hiện trong bản đồ là đất trồng rừng không phải đất
của ông N, bà Q1 như ông bà đã trình bày. Tại thời điểm chuyển nhượng đất ông
N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 200m
2
, tại thửa đất số
07, tờ bản đồ 03, đã bán cho B 120m
2
chỉ còn lại 80m
2
đất, hiện không tài
liệu của quan Nhà nước thẩm quyền xác định trước năm 1998 phần diện
tích đất phía sau của ông N, Q1. Do đó, khẳng định tại thời điểm B làm
nhà năm 1998 phía sau đất trồng rừng (căn cứ bản đồ địa chính năm 1996)
không phải đất của ông N, Q1, cho nên không buộc B phải trả lại phần diện
tích này cho ông Ngô bà Q1 theo yêu cầu của ông bà.
Theo kết quả thẩm định tại chỗ hiện trạng đất ông Ngô Q1, B sử
dụng từ năm 1998 cho đến nay thì các bên sinh sống ổn định không tranh chấp.
Tại cấp thẩm ông Ngô Q1 yêu cầu B trả lại phần diện tích đất 37,6m2
phía trước đường T, tuy nhiên tại phiên toà phúc thẩm ông ông bà yêu cầu trả lại
phần diện tích đất phía sau, nhưng phần diện tích đất này vẫn thuộc cơ quan nhà
nước quản lý không phải đất đã giao cho ông Ngô bà Q1 nên không sở để
chấp nhận. cần tạm giao cho B được tiếp tục sử dụng B trách
nhiệm liên hệ với cơ quan chức năng quản lý nhà nước về đất đai để làm các thủ
tục về đất đai theo quy định.
[3.2] Xét yêu cầu của ông N, Q1 yêu cầu B trả lại số tiền nộp thuế
đất cho Nhà nước từ m 1998 đến năm 2024 với tổng số tiền 1.415.817.900 đồng,
trong đó số tiền gốc 10.306.480 đồng, lãi 1.405.511.420 đồng:
Ông N, bà Q1 nộp thuế diện tích đất ở 200m
2
từ năm 1998 cho tới năm
2024, tổng cộng là 17.177.466 đồng (có hoá đơn). Diện tích đất ông N, bà Q1 đã
chuyển cho bà B 120m
2
, còn lại 80m
2
, như vậy theo phần ông N, bà Q1 phải nộp
thuế trên 80m
2
trong số 200m2 đất đã chuyển nhượng cho vợ chồng bà B 2/3,
được tính cụ thể là: 6.870.986 đồng, bà B phải trả lại số tiền cho ông N số tiền
ông đã nộp thuế trên diện tích đất 120m
2
là 10.306.480 đồng.
Tại phiên toà B đồng ý trả số tiền gốc, không đồng đồng ý trả tiền lãi,
đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về tiền lãi ông N, Q1 tính lãi suất 15% năm với số tiền lãi 1.405.511.420
đồng là chưa phù hợp. Do đó, HĐXX căn cứ vào Điều 168 BLDS để tính lãi suất
10% năm đối với số tiền ông N, Q1 đã nộp, thời hạn tính lãi bắt đầu tnăm
1998 cho tới năm 2024 trên số tiền 10.306.480 đồng. Buộc B trả cho ông N,
Q1.
Như vậy, số tiền ông N nộp thuế của 120m2 là 10.306.480 đồng, tiền lãi là
10.544.055 đồng. Tổng cộng buộc bà B phải trả cho ông N, Q1 số tiền
20.850.535 đồng.
Số tiền còn lại ông N, Q1 yêu cầu 1.394.967.000 đồng, không được
chấp nhận.
[4] Từ những nhận định, đánh giá trên, xét thấy yêu cầu kháng cáo của đồng
bị đơn sở, được chấp nhận. Cần giữ sữa một phần Bản án thẩm s
37/2024/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Đồng
Hới. Ông N, Q1 được miễn án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp
luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 272, Điều 273, khoản 2 Điều 308; Điều 26; Điều 35; điểm a
khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 691, 963, 705,706, 707, 711, 712
Bộ luật dân sự năm 1995; Điều 30, 31 Luật đất đai 1993; Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH 1430/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về
mức án phí, lệ phí Tòa án, xử:
Chấp nhận mt phần kháng cáo của bị đơn (vợ chồng ông Đinh Xuân N
Nguyễn Thị Q). Sữa bản án dân sthẩm s37/2024/DS-ST ngày 22/8/2024
của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Cụ thể như sau:
1. Công nhận “Giấy chuyển nhượng đất ở” được kết ngày 17/01/1998,
giữa: ông Đinh Xuân N và ông Nguyễn Văn S về việc chuyển nhượng 120m2 đất
ở là hợp pháp.
Trần Hồng B, ông Đinh Xuân N, Nguyễn Thị Q trách nhiệm liên
hệ với cơ quan quản lý đất đai để làm các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Giao cho B được quyền sử dụng phần diện tích đất 120m2 (từ điểm 1-2-
33-34) có tứ cận kích thước như sau:
- Phía Đông giáp đường T (từ điểm 2-1) có chiều dài là 6m;
- Phía Tây giáp đất bà B đang sử dụng (từ điểm 33-34) có chiều dài là 6m;
- Phía Bắc giáp đất ông N đang sdụng (từ điểm 32-33)có chiều dài 20m;
- Phía Nam giáp thửa đất số 29 của ông L, sáu (từ điểm 1-34) có chiều dài
20m.
Tạm giao cho bà B tiếp tục sử dụng phần diện tích đất 37,6m2 trong phần
diện tích đất B đang sử dụng đã làm nhà từ năm 1998. B trách nhiệm
liên hệ với cơ quan nhà nước quản về đất đai để làm các thủ tục về đất đai theo
quy định (từ điểm 33-34-4-8) có kích thước:
- Phía Đông giáp đường giáp phần đất B đang sử dụng (tđiểm 33-34)
chiều dài là 5,64m;
- Phía Tây giáp phần đất ông N, Q đang sử dụng (từ điểm 4-9) chiều
dài là 5,9m;
- Phía Bắc giáp đất ông N, bà Q đang sử dụng (từ điểm 4-33)có chiều dài là
6,25m;
- Phía Nam giáp thửa đất số 29 của ông L, sáu (từ điểm 9-35) chiều dài
6,76m.
Sơ đồ thửa đất cụ thể như sau:
2. Buộc Trần Hồng B phải trả cho ông Đinh Xuân N Nguyễn Thị Q
số tiền nộp thuế nhà đất tnăm 1998 đến 2024 20.850.535 đồng, trong đó nợ
gốc 10.306.480 đồng, nợ lãi 10.544.055 đồng.
3. Không chấp nhận yêu cầu ông Đinh Xuân N Nguyễn Thị Q buộc
Trần Hồng B phải trlãi suất của số tiền nộp thuế từ năm 1998 đến 2024
1.394.967.000 đồng.
4.Không chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông Đinh Xuân N Nguyễn
Thị Q về việc yêu cầu Trần Thị Hồng B phải trả lại 37,6m2 đất mà hiện nay
B đang sử dụng.
5. Đương sự quyền liên hệ với Cơ quan Nhà nước thẩm quyền để được
cấp, cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
6. Về án phí: Ông Đinh Xuân N Nguyễn Thị Q không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (22/01/2025).
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- TAND huyện Bố Trạch;
- CCTHADS huyện Bố Trạch;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã Ký)
Nguyễn Văn Dương
Tải về
Bản án số 05/2025/DS-PT Bản án số 05/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 05/2025/DS-PT Bản án số 05/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất