Bản án số 111/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 111/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 111/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 111/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 111/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 111/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyên đơn yêu cầu bồi thường theo luật BTNN |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lưu Thị Thu Hường.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Hồng; Ông Y Phi Kbuôr.
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Đức Anh - Thư ký TAND tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông
Trần Văn Lai - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 03 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:432/2024/TLPT-DS, ngày 11 tháng 12
năm 2024 về việc “Yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Luật trách nhiệm bồi thường
Nhà nước”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 269/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của Toà
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo. Theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 64/2024/QĐXX-PT ngày 11 tháng 02 năm 2025
và Quyết định hoãn phiên tòa số: 50/2024/QĐ-PT ngày 26 tháng 02 năm 2025, giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1955; Địa chỉ: C V, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
– có mặt.
2. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1950; Địa chỉ: A V, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
– vắng mặt.
3. Bà Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1950; Địa chỉ: G N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
– vắng mặt.
4. Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1962; Địa chỉ: 116/6/8 N, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk – vắng mặt.
5. Ông Nguyễn Hùng A, sinh năm 1966; Địa chỉ hiện nay: E L, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T, bà Đ, bà T1: Ông Nguyễn Hùng A,
sinh năm 1966; Địa chỉ: E L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị đơn: Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Vũ Thị Thanh V – Chức vụ: Phó trưởng
phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – có đơn xin vắng mặt
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 111/2025/DS-PT
Ngày 26 – 3 – 2025.
“V/v: Yêu cầu bồi thường thiệt hại theo
Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Văn phòng C2; Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Minh P; Địa
chỉ: C N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – vắng mặt.
2. Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Người đại diện theo
ủy quyền: ông Đặng Xuân T2 – Chức vụ: Công chức địa chính xây dựng UBND
phường T – vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Hùng D, sinh năm 1968 (đã chết). Người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của ông D: Bà Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1974; ông Nguyễn
Hải H, sinh năm 1995; anh Nguyễn Hồng Hải H1, sinh năm 1997 và anh Nguyễn
Hồng Hải H2, sinh năm 2000. Cùng địa chỉ: Liên gia A, tổ dân phố B, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Đều vắng mặt).
4. Bà Nguyễn Thị Thanh L; Địa chỉ: Liên gia A, tổ dân phố B, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).
5. Ông Nguyễn M, sinh năm 1964 (đã chết); Người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của ông M: Bà Lê Thị Ánh N, sinh năm 1961; Bà Nguyễn Ngọc Mỹ Y, sinh
năm 1990; Cùng địa chỉ: 1 Y, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Bà Nguyễn Ngọc Mỹ L1,
sinh năm 1989; Địa chỉ: 7 C, P, thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh – Đều vắng
mặt.
- Người kháng cáo: nguyên đơn bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn
Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T1 và ông Nguyễn Hùng A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn ông Nguyễn Hùng A, bà Nguyễn
Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T cùng trình bày:
Bà Nguyễn Thị B sinh được 07 người con gồm: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm:
1955, bà Nguyễn Thị Đ; sinh năm: 1950, bà Nguyễn Thị Đ1; sinh năm: 1950, bà
Nguyễn Thị T1; sinh năm: 1962, Nguyễn M; sinh năm 1964, Nguyễn Hùng A; sinh
năm: 1966 và Nguyễn Hùng D; sinh năm: 1966. Chúng tôi là những người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của bà Trương Thị B1 (bà B1 chết năm 1997). Thửa đất số 03
tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m
2
tọa lạc tại H (số mới là 109) N, phường T, Tp
B, tỉnh Đắk Lắk là di sản thừa kế chưa phân chia thuộc quyền sử dụng chung của
những người đồng thừa kế. Nguồn gốc lô đất này là do mẹ của chị em chúng tôi mua
của bà Nguyễn Thị T3 vào năm 1993, đã được Ủy ban nhân dân phường T (cũ) xác
nhận.
Từ khi ông Nguyễn Hùng D còn sống các anh em đã nhiều lần bàn bạc thỏa
thuận khối tài sản của mẹ để lại là tài sản chung, với mục đích làm nhà từ đường.
Do đó, vào năm 2002 tất cả các anh em chúng tôi cùng nhất trí ký văn bản thỏa thuận
nội dung như trên. Đầu năm 2014, bà Nguyễn Thị Thanh L là người từng chung sống
với ông Nguyễn Hùng D trước đây (không đăng ký kết hôn) đã tự ý kê khai làm thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất mẹ chúng tôi mua từ
năm 1993 từ bà Nguyễn Thị T3. Nhận thấy, quyền lợi hợp pháp của bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, chúng tôi đã khởi kiện vụ kiện hành chính “Kiện quyết định hành
chính về quản lý đất đai” đối với người bị kiện là Ủy ban nhân dân T. Vụ kiện đã
3
được TAND Tp Buôn Ma Thuột giải quyết sơ thẩm bằng Bản án số 04/2015/HC-ST
ngày 11/3/2015. Sau đó, TAND tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết phúc thẩm bằng Bản án
số 10/2015/HC-PT ngày 08/07/2015 với nội dung như sau:
“1/ Hủy QĐ số 503/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 của U về việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho bà
Nguyễn Thị Thanh L đối với thửa đất số 03 tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m tọa
lạc tại phường T, Tp B, tỉnh Đắk Lắk;
2/ Hủy GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BP
121995 ngày 22/1/2014 của U đã cấp cho hộ gia đình bà Nguyễn Thị Thanh L; ...”.
Việc Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành quyết định số 503/QĐ-UBND
ngày 22/1/2014 về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 121995 cho
bà Nguyễn Thị Thanh L đã làm tiền đề cho việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngay tình cho ông Nguyễn Phi H3 và từ ông H3 chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị
Kim C. Ông Nguyễn Phi H3 và bà Nguyễn Thị Kim C là người chiếm hữu ngay tình
nhận được tài sản thông qua giao dịch hợp pháp nên quyền về tài sản của bà C được
pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Do đó, Tòa án phúc thẩm đã quyết định “đình chỉ
giải quyết yêu cầu hủy bỏ giá trị pháp lý về việc đăng ký quyền sử dụng đất theo hồ
sơ số 001685/2014 ngày 10/3/2014 sang tên cho ông Nguyễn Phi H3 và hồ sơ số
00326/2014 ngày 25/4/2014 sang tên cho bà Nguyễn Thị Kim C”.
Sau khi có bản án hành chính phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Kim C đã khởi kiện
vụ án dân sự đối với chúng tôi để đòi lại nhà đất thuộc thửa đất số 03 tờ bản đồ số
65, diện tích 319,14m
2
tọa lạc tại phường T, Tp B, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 14/7/2017,
TAND tỉnh Đắk Lắk đã xét xử và tuyên Bản án phúc thẩm số 75/2017/DSPT với nội
dung chị em chúng tôi phải trả nhà và đất cho bà Nguyễn Thị Kim C.
Căn cứ Bản án hành chính số 10/2015/HC-PT ngày 08/07/2015 của TAND tỉnh
Đắk Lắk đã xác định việc cấp quyền sử dụng đất của UBND Tp.Buôn Ma T4 sai
pháp luật và hủy Quyết định số 503/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 về việc cấp QSDĐ
cho bà Nguyễn Thị Thanh L. Tuy nhiên, chúng tôi không thể đòi lại được QSDĐ là
tài sản mà chúng tôi được hưởng do pháp luật bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người
thứ ba ngay tình là ông Nguyễn Phi H3 và bà Nguyễn Thị Kim C.
Nhà và đất tại thửa đất số 03 tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m
2
tọa lạc tại
phường T, Tp B, tỉnh Đắk Lắk có giá trị quy thành tiền khoảng trên 6.000.000.000
đồng. Đây là thiệt hại vô cùng nghiêm trọng của chúng tôi do hành vi cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sai pháp luật của Ủy ban nhân dân T. Đây đồng thời là trách
nhiệm liên đới của các cá nhân, cơ quan do không thực hiện đúng, đủ chức năng
nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật. Cụ thể:
1. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân phường T: Ngày 20/8/2013, bà Nguyễn
Thị Thanh L làm đơn xin cấp giấy chứng nhận đối với thửa đất số 3, tờ bản đồ số 65
tọa lạc tại phường T, Tp B. Tại đơn xin cấp giấy chứng nhận, bà L khai nguồn gốc
đất là nhận chuyển nhượng nhưng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã
bị thất lạc. Trước khi làm đơn xin cấp giấy chứng nhận, vào ngày 07/8/2013, bà L
làm Đơn báo mất giấy tờ đất được Công an phường T xác nhận vào ngày 13/8/2013
và UBND phường T xác nhận ngày 16/8/2013. Ngày 16/8/2013, UBND phường T
ra thông báo về việc mất hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và niêm yết
4
tại trụ sở UBND phường trong thời hạn 30 ngày. Mặc dù chưa kiểm tra nguồn gốc,
tình trạng tranh chấp của thửa đất và việc niêm yết thông báo mất hợp đồng chuyển
nhượng chưa đủ 30 ngày nhưng vào ngày 12/9/2013, UBND phường T đã niêm yết
công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là không chặt chẽ, không đúng trình tự, thủ tục.
Ngày 19/9/2013, UBND phường T xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận
của bà L với nội dung đất và tài sản trên đất không có tranh chấp. Đến ngày
17/12/2013, UBND phường T mới lập biên bản lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc
và thời điểm sử dụng đất. Phiếu lấy ý kiến khu dân cư thể hiện nguồn gốc sử dụng
đất là của bà Nguyễn Thị T3 chuyển nhượng cho bà Trương Thị B1 và ông Nguyễn
Hùng D. Trong Biên bản lấy ý kiến khu dân cư thể hiện chữ ký xác nhận của các hộ
sử dụng đất liền kề trong đó có bà Nguyễn Thị T3. Tuy nhiên, tại Bản án số
135/2015/DSST ngày 21/9/2015 của TAND Tp. Buôn Ma Thuột, bà Nguyễn Thị T3
trình bày: “Ngày 19/7/1993, tôi có bán cho bà Trương Thị B1 01 lô đất có chiều
rộng 07m, chiều dài 44m, tổng diện tích 308 m
2
tại phường T, thị xã B (nay là H N,
P. T, Tp .) và hai bên có viết giấy sang nhượng đã được UBND phường T xác nhận
ngày 20/7/1993. Bà B1 không có chồng, có 07 người con. Khi bà B1 xây dựng nhà
ở thì chỉ có ông Nguyễn Hùng D ở với bà B1, khoảng 03 năm sau ông D lấy vợ là
bà L. Tôi chỉ sang nhượng đất cho bà B1 chứ không sang nhượng đất cho các con
của bà B1 và từ khi tôi sang nhượng đất cho bà B1 đến nay tôi chưa có ký xác nhận
hộ liền kề để bà B1 và các con của bà B1 làm giấy chứng đất đối với lô đất tôi đã
sang nhượng cho bà B1. Hiện nay, lô đất của bà B1 nói trên cách nhà tôi là 03 nhà
nên không liền kề với nhau nữa”.
Tại báo cáo ngày 19/9/2013 về việc niêm yết công khai thông báo mất giấy tờ
sử dụng đất của UBND phường T gửi Phòng T5 cũng xác định nguồn gốc đất là của
hộ bà Nguyễn Thị T3 chuyển nhượng cho bà Trương Thị B1 và ông Nguyễn Hùng
D. Như vậy, tài liệu thẩm tra trong hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận thể hiện bà L
không phải là người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà T3. Việc UBND
phường T chỉ dựa vào lời khai của bà L và niêm yết thông báo mất hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà không thẩm tra, xác minh mối quan hệ giữa bà
Nguyễn Thị Thanh L với ông Nguyễn Hùng D và bà Nguyễn Thị T3 để xác định bà
Nguyễn Thị Thanh L có phải là đối tượng được chứng nhận quyền sử dụng theo quy
định tại điều 49 Luật đất đai 2003 hay không, không thẩm tra xác minh những người
thuộc hàng thừa kế của bà Trương Thị B1 là chưa chặt chẽ. Sau khi lập biên bản xác
minh hiện trạng sử dụng đất và lập phiếu lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc sử
dụng và tình trạng tranh chấp, UBND phường T không công bố công khai kết quả
kiểm tra tại trụ sở UBND phường trong thời hạn 15 ngày là vi phạm quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 14 Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ.
Ngoài ra, trong quá trình thẩm tra hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận của bà L, theo biên
bản xác minh của TAND Tp Buôn Ma Thuột thì vào ngày 07/01/2014, UBND
phường T có nhận được tờ trình của bà Đ, bà T, bà T1, ông A và ông M đề nghị
không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L và đã chuyển cán bộ chuyên
môn xử lý.
5
Như vậy, thửa đất mà bà L làm đơn xin cấp giấy chứng nhận đang có tranh
chấp, có đơn đề nghị UBND phường T xem xét nhưng UBND phường T vẫn xác
nhận đất không có tranh chấp là không đúng thực tế.
2. Trách nhiệm của Văn phòng C2: Đối với Văn bản phân chia di sản thừa kế,
mặc dù Văn Phòng C2 vào ngày 24/01/2014 sau khi bà L được U cấp GCN QSDĐ
số BP 121995, đối với thửa đất số 3, tờ bản đồ số 65, đất ở phường T, thành phố B.
Nhưng ngày 16/12/2013 Văn phòng C2 đã nhận được yêu cầu công chứng văn bản
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của bà Nguyễn Thị Thanh L cùng 03 người con
là Nguyên Hải H4, Nguyễn Hồng H5 Hoàng Nguyễn Hoàng Hải H6 đối với di sản
thừa kế do ông Nguyễn Hùng D để lại cùng các chứng cứ do bà L cung cấp là: Quyết
định của Ủy ban nhân dân thị xã B về việc giao đất sản xuất nông nghiệp số 249/QĐ-
UBND thị xã B về việc giao đất cho bà Nguyễn Thị T3; đơn xin báo mất giấy tờ đất
ngày 07/8/2013 của bà Nguyên Thị Thanh L2; giấy cho của để các con có điều kiện
sinh sống làm ăn ngày 13/6/1993 của bà Trương Thị B1 và các con; Danh sách công
khai các trường hợp đủ điều kiện cấp GCN QSDĐ tại phường T ngày 12/9/2013,
giấy chứng tử của Nguyễn Hùng D, Giấy chứng minh nhân dân của Nguyễn Thị
Thanh L và Nguyễn Hải H, Học bạ trung học cơ sở của Nguyễn Hồng Hải H1, Giấy
khai sinh của Nguyễn Hoàng Hải H6 và Nguyễn Hải H, Sổ hộ khẩu gia đình của
Nguyễn Thị Thanh L. Đối với các giấy tờ mà bà Nguyễn Thị Thanh L đã cung cấp
cho Văn Phòng C2 nói trên chưa chứng minh rõ quyền sử dụng đất đối với lô đất số
03 tờ bản đồ số 65 là thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Hùng D và đó là di sản
của ông D để lại mà chỉ có Quyết định của Ủy ban nhân dân thị xã B về việc giao
đất sản xuất nông nghiệp số 249/QĐ-UBND ngày 11/6/1994 cho bà Nguyễn Thị T3.
Không có giấy tờ chứng minh người được hưởng di sản thừa kế như giấy chứng
nhận đăng ký kết hôn giữa ông D, bà L, cụ thể ông D bà L kết hôn vào thời gian nào,
có đăng ký kết hôn hay không đăng ký kết hôn. Khi bà L cung cấp chứng cứ cho
Văn phòng công chứng trong đó có giấy cho của của bà B1 vào năm 1993 cho các
con để các con có điều kiện, trong giấy thể hiện ông D chưa có gia đình. Do đó, việc
bà L cung cấp chứng cứ là có đơn báo mất giấy tờ và trong đơn thể hiện gia đình bà
L sang nhượng đất của bà T3 từ năm 1993 là có sự mâu thuẫn và không thể hiện rõ
mối quan hệ giữa người để lại di sản thừa kế và người được hưởng di sản thừa kế.
Như vậy, khi chưa có giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất cũng như người yêu cầu bà
Nguyễn Thị Thanh L đúng là người được hưởng di sản thừa kế không nhưng Văn
phòng C2 (công chứng viên Đỗ Văn C1 ký) vẫn chứng thực Văn bản công chứng
phân chia di sản thừa kế ngày 24/01/2014 giữa bà Nguyễn Thị Thanh L và Nguyễn
Hải H, Nguyễn Hồng Hải H1, Nguyễn Hoàng Hải H6 là trái pháp luật. (Nội dung
trên được TAND Tp. Buôn Ma Thuột nhận định tại Bản án số 135/2015/DSST ngày
21/9/2015 đã có hiệu lực pháp luật).
3. Trách nhiệm của Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Tp .: Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất Tp . phải có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ xin cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND phường T chuyển đến xem đã thực
hiện đúng và đầy đủ quy định hay chưa để xác nhận đủ điều kiện hay không đủ điều
kiện được cấp Giấy chứng nhận. Mặc dù hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng do UBND phường T chuyển đến chưa chặt chẽ nhưng Văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất Tp . (do giám đốc là ông Mai Văn P1 ký) vẫn xác nhận để Phòng
6
T5 trình U ra quyết định và cấp GCN QSDĐ cho bà Nguyễn Thị Thanh L là không
đảm bảo quy định.
4. Trách nhiệm của U: Thửa đất mà bà Nguyễn Thị Thanh L làm hồ sơ xin cấp
GCN có nhiều vấn đề liên quan đến đồng thừa kế sở hữu chung, đang có tranh chấp
và đã có đơn đề nghị UBND phường T xem xét trước ngày ký quyết định cấp QSDĐ
cho bà Nguyễn Thị Thanh L. Tuy nhiên, U vẫn ban hành quyết định cấp QSDĐ số
503/ QĐ-UBND ngày 22/01/2014 và cấp GCN cho bà Nguyễn Thị Thanh L là không
đúng quy định.
Việc U ban hành Quyết định số 503/QĐ-UBND ngày 22/1/2014 (do Phó chủ
tịch là ông Nguyễn Hữu V1 ký Quyết định) là trái với quy định của pháp luật gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người đồng thừa
kế chúng tôi. Bản án phúc thẩm số 10/2015/HC-PT ngày 08/07/2015 của TAND tỉnh
Đắk Lắk đã xác định hành vi của UBND phường T, Văn phòng Đ2, Phòng T5, U là
trái quy định của pháp luật.
Căn cứ Khoản 1, Điều 4 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước thì chúng tôi
có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi thường “1.
Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết
việc bồi thường khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành
vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật...”
Căn cứ theo Khoản 5 Điều 3 Nghị định 16/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành
một số điều luật của Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước thì U là cơ quan phải
chịu trách nhiệm bồi thường cho chúng tôi. Riêng các cơ quan là Ủy ban nhân dân
phường T, Văn phòng Đ2, Phòng T5 là 03 cơ quan làm trái với quy trình, thủ tục
dẫn đến việc U ban hành quyết định số 503/QĐ-UBND ngày 22/1/2014 trái với quy
định pháp luật. Ba cơ quan này là cơ quan chuyên môn liên quan đều chịu sự quản
lý của Ủy ban nhân dân T nên U là cơ quan có trách nhiệm bồi thường “5. Trong
trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là thành viên UBND cấp huyện
và người thi hành công vụ do cơ quan chuyện môn trực thuộc UBND cấp huyện trực
tiếp quản lý thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là UBND cấp huyện”.
Bởi các lẽ trên, chị em chúng tôi đã làm đơn khởi kiện đối với U. Đề nghị Tòa
án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị em
chúng tôi là: Buộc U có trách nhiệm liên đới bồi thường cho chúng tôi toàn bộ giá
trị nhà và đất thuộc thửa đất số 03 tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m
2
tọa lạc tại H
(số mới là 109) N, phường T, Tp B, tỉnh Đắk Lắk số tiền 6.100.398.050 đồng tiền
quyền sử dụng đất và nhà theo quy định của pháp luật.
* Quá trình tham gia tố tụng người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Ủy
ban nhân dân thành phố B bà Vũ Thị Thanh V trình bày:
Việc Ủy ban nhân dân thành phố B lập thủ tục cấp giấy chứng nhận cho hộ bà
Nguyễn Thị Thanh L và các thủ tục thừa kế, chuyển nhượng đã thực hiện theo đúng
trình tự, thủ tục quy định. Nguồn gốc thửa đất cấp giấy chứng nhận cho bà Nguyễn
Thị Thanh L được chính quyền địa phương thẩm tra xác minh và thông báo công
khai nhưng không ai có ý kiến gì thắc mắc khiếu nại gì. Việc bà Nguyễn Thị T gửi
tờ trình về việc đề nghị không cấp giấy chứng nhận cho bà L đến UBND phường T.
7
Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân thành phố B không nhận được đơn của bà T cũng như
báo cáo của Ủy ban nhân dân phường T về vấn đề này.
Đối với nội dung khởi kiện bồi thường của ông Nguyễn Hùng A, bà Nguyễn
Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T buộc Ủy ban nhân
dân thành phố B bồi thường toàn bộ giá trị nhà đất tại Thửa đất số 03 tờ bản đồ số
65, diện tích 319,14m
2
tọa lạc tại H (số mới là 109) N, phường T, Tp B, tỉnh Đắk
Lắk 6.100.398.050 đồng thì Ủy ban nhân dân thành phố B đã có Công văn số
3070/UBND TP ngày 01/8/2023 trả lời đơn đối với nguyên đơn là Ủy ban nhân dân
thành phố B không có căn cứ bồi thường nên đề nghị Tòa án xem xét theo quy định.
* Quá trình tham gia tố tụng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
trong vụ án trình bày:
1. Đại diện theo ủy quyền của Văn Phòng C2 là bà Nguyễn Thị Minh P trình
bày:
Ngày 16/12/2013, Văn phòng C2 tiếp nhận hồ sơ yêu cầu phân chia thừa kế của
các ông bà Nguyễn Thị Thanh L, Nguyễn Hải H, Nguyễn Hồng Hải H1, Nguyễn
Hoàng Hải H6 đối với thửa đất số 03, tờ bản đồ 65. Ngay khi tiếp nhận và kiểm tra
các văn bản giấy tờ mà gia đình bà L cung cấp thì Văn phòng C2 đã tiến hành niêm
yết theo đúng quy định của pháp luật. Ngay khi niêm yết đủ thời gian quy định thì
ngày 24/01/2014 Văn phòng đã tiến hành lập văn bản thỏa thuận để phân chia di sản
thừa kế. Tại thời điểm chứng nhận văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế thì
các ông bà có tên nêu trên đã đọc kỹ, đã được Văn phòng công chứng giải thích rõ
về toàn bộ nội dung của Văn bản. Các ông bà có tên nêu trên cũng đã cam kết toàn
bộ nội dung của văn bản là đúng sự thật và đồng ý ký vào văn bản.
Việc công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế là hoàn toàn đủ,
đúng theo quy định, nội dung của các điều khoản trong văn bản đều dựa trên ý chí
tự nguyện của các bên. Việc phân chia di sản thừa kế nêu trên dựa trên giấy chứng
nhận QSD đất đã được UBND thành phố B cấp ngày 22/01/2014 (theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP
121995).
Nay nguyên đơn gồm các ông bà: Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thị
Đ1, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Hùng A khởi kiện UBND thành phố B và các cơ quan
có liên quan để yêu cầu UBND thành phố B bồi thường thiệt hại thì Văn phòng C2
không liên quan đến yêu cầu khởi kiện của các bên, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án
theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho các bên.
2. Người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân phường T là ông Đặng
Xuân T2 trình bày: Đối với nội dung khởi kiện buộc Ủy ban nhân dân thành phố B
có trách nhiệm bồi thường cho ông Nguyễn Hùng A, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn
Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T toàn bộ giá trị nhà và đất thuộc thửa
đất số 03 tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m
2
tọa lạc tại H (số mới là 109) N, phường
T, Tp B, tỉnh Đắk Lắk số tiền 6.100.398.050 đồng tiền quyền sử dụng đất và nhà thì
đề nghị Tòa án căn cứ vào tài liệu cứng cứ xét xử theo quy định.
3. Bà Nguyễn Thị Thanh L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có
lý do nên không ghi nhận được ý kiến trình bày.
8
4. Những người người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Hùng
D: Bà Nguyễn Thị Thanh L, anh Nguyễn Hải H, anh Nguyễn Hồng Hải H1; Nguyễn
Hồng Hải H2 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên không
ghi nhận được ý kiến trình bày.
4. Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn M là: Bà Lê Thị
Ánh N, chị Nguyễn Ngọc Mỹ Y, chị Nguyễn Ngọc Mỹ L1 cùng trình bày:
Mẹ con chúng tôi đã được Tòa án thông báo về quyền lợi và kế thừa quyền và
nghĩa vụ theo pháp luật vì bố tôi đã mất mà nguyên đơn ông Nguyễn Hùng A, bà
Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T đang yêu
cầu: Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B có trách nhiệm liên đới bồi thường số tiền
6.100.398.050 đồng cho ông Nguyễn Hùng A, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1,
bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T toàn bộ giá trị nhà và đất thuộc thửa đất số 03
tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m
2
tọa lạc tại H (số mới là 109) N, phường T, Tp
B, tỉnh Đắk Lắk thì mẹ con tôi đề nghị cho tôi vắng mặt các phiên xét xử và hòa giải
tiếp cận chứng cứ vì điều kiện ở xa không tham gia được và đề nghị Tòa án căn cứ
vào tài liệu chứng cứ xét xử theo quy định.
Tại bản án Dân sự sơ thẩm số: 269/2024/DS-DS ngày 24/9/2024 của Toà án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 1 Điều 147, Điều 161, Điều 266, Điều 271, Điều 273, khoan 2 Điều 277 của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 586, Điều 590, Điều 591 và khoản 2
Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điểm a và Điểm
b Điều 7, Điều 8, Điểm d Điều 13, Điều 15 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước
năm 2017; Căn cứ điểm d Điều 12, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hùng
A, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T về
việc: Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B có trách nhiệm liên đới bồi thường số tiền
6.100.398.050 đồng cho ông Nguyễn Hùng A, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1,
bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T toàn bộ giá trị nhà và đất thuộc thửa đất số 03
tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m
2
tọa lạc tại H(số mới là 109) N, phường T, Tp B,
tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 07/10/2024, nguyên đơn ông Nguyễn Hùng A, bà Nguyễn Thị Đ, bà
Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T kháng cáo toàn bộ Bản án dân
sự sơ thẩm số: 269/2024/DS-DS ngày 24/9/2024 của Toà án nhân dân thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đề nghị cấp phúc thẩm xét xử theo hướng sửa bản án
sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và giữ
nguyên nội dung đã kháng cáo.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk:
9
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà và đương sự đã chấp
hành đúng các quy định của pháp luật.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì cấp sơ
thẩm không chấp nhận nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Do đó
không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét
xử giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án, được
thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và các đương sự.
Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Hùng A,
bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T nộp
trong thời hạn luật định nên được tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết theo trình
tự phúc thẩm.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hùng A, bà Nguyễn Thị
Đ, bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T, Hội đồng xét xử phúc
thẩm xét thấy:
[2.1] Về thời hiệu khởi kiện:
Ngày 08/7/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử và ban hành Bản án
hành chính phúc thẩm số 10/2015//HCPT với nội dung chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của ông Nguyễn Hùng A, ông Nguyễn M, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn
Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T, tuyên Hủy QĐ số 503/QĐ-UBND
ngày 22/01/2014 của U về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho bà Nguyễn Thị Thanh L đối với thửa đất
số 03 tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m tọa lạc tại phường T, Tp B, tỉnh Đắk Lắk;
Hủy GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BP 121995 ngày
22/1/2014 của U đã cấp cho hộ gia đình bà Nguyễn Thị Thanh L; ...”.
Ông Nguyễn Hùng A, ông Nguyễn M, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1,
bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T đã làm đơn yêu cầu UBND thành phố B giải
quyết bồi thường.
Ngày 08/8/2023, ông Nguyễn Hùng A, ông Nguyễn M, bà Nguyễn Thị Đ, bà
Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T nhận được Công văn số
3070/UBND-TP ngày 01/8/2023 của UBND thành phố B về việc trả lời đơn của ông
Nguyễn Hùng A, ông Nguyễn M, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn
Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T với nội dung: đơn của các ông, bà yêu cầu trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước là không có cơ sở xem xét.
Ngày 16/8/2023, ông Nguyễn Hùng A, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1,
bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T nộp đơn khởi kiện yêu cầu UBND thành phố
B phải bồi thường là còn thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 52 Luật Trách nhiệm
bồi thường (TNBT) của Nhà nước.
[2.2] Về nội dung:
10
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn là Ủy ban nhân dân thành phố B có trách nhiệm
thường số tiền 6.100.398.050 đồng là toàn bộ giá trị nhà và đất thuộc thửa đất số 03
tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m
2
tọa lạc tại H (số mới là 109) N, phường T, Tp
B, tỉnh Đắk Lắk theo kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản.
Nguyên đơn căn cứ Bản án hành chính phúc thẩm số 10/2015/HC-PT ngày
08/7/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk có nhận định trình tự thủ tục xem xét,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân T và các cơ quan liên
quan đối với thửa đất số 03 tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m² tọa lạc tại phường
T, Tp B, tỉnh Đắk Lắk cho bà Nguyễn Thị Thanh L là trái pháp luật và tuyên Hủy
quyết định số 503/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố B
về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất cho bà Nguyễn Thị Thanh L đối với thửa đất số 03 tờ bản đồ số 65,
diện tích 319,14m² tọa lạc tại phường T, Tp B, tỉnh Đắk Lắk; Hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 121995
ngày 22/01/2014 của UBND Thành phố B đã cấp cho hộ gia đình bà Nguyễn Thị
Thanh L để yêu cầu bồi thường.
Xét thấy, thiệt hại mà nguyên đơn yêu cầu là giá trị quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất của thửa đất số 03, tờ bản đồ số 65 đã bị bà Nguyễn Thị Thanh
L chuyển nhượng cho ông Nguyễn Phi H3, sau đó ông Nguyễn Phi H3 đã chuyển
nhượng cho bà Nguyễn Thị Kim C. Việc chuyển nhượng của các bên đã được Bản
án dân sự xác định là ngay tình, được pháp luật bảo vệ.
Mặc dù UBND thành phố B cấp GCNQSD đất cho bà Nguyễn Thị Thanh L là
trái pháp luật. Tuy nhiên, thiệt hại vật chất mà nguyên đơn đưa ra là hậu quả phát
sinh từ giao dịch dân sự do bà Nguyễn Thị Thanh L thực hiện, bà L là người thụ
hưởng. Đây không phải thiệt hại trực tiếp do hành vi cấp GCNQSD đất trái pháp
luật của UBND thành phố B gây ra, không thuộc một trong các thiệt hại được bồi
thường quy định tại chương III của Luật TNBT của Nhà nước. Mặt khác, mặc dù
cho rằng nguồn gốc thửa đất là của cụ Nguyễn Thị B nhận chuyển nhượng từ năm
1993 nhưng trên thực tế thì từ khi chung sống cùng ông Nguyễn Hùng D cho đến
khi bà L làm thủ tục đăng ký để được cấp GCNQSD đất thì bà L là người sử dụng
đất. Từ khi nhận chuyển nhượng, gia đình nguyên đơn không đăng ký kê khai để
được cơ quan có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất. Cấp sơ thẩm không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là có căn cứ, đảm bảo đúng quy định
của pháp luật.
[2.3] Việc bà Nguyễn Thị Thanh L chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nếu cho
rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm thì các nguyên đơn có quyền yêu cầu giải
quyết hậu quả của việc chuyển nhượng để bảo vệ quyền lợi của mình bằng vụ án
dân sự khác theo quy định của pháp luật.
[2.4] Về án phí sơ thẩm:
Khoản 1 Điều 11 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc Hội quy định những trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng
án phí, không phải chịu án phí:
f) Các trường hợp khác không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí mà pháp
luật có quy định.
11
Khoản 1 Điều 76 Luật TNBT của Nhà nước quy định: Cơ quan giải quyết bồi
thường không thu các khoản án phí, lệ phí và các loại phí khác đối với nội dung yêu
cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định
của Luật này.
Cấp sơ thẩm buộc ông Nguyễn Hùng A phải nộp 22.820.079 đồng án phí sơ
thẩm là không đúng. Do đó, cần sửa một phần bản án sơ thẩm về án phí.
[3] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ Khoản 1 Điều 11, Khoản 1 Điều 29 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội thì
ông Nguyễn Hùng A không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308; Khoản 1 Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Hùng A, bà
Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T. Sửa một
phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 269/2024/DS-ST ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về án phí.
Căn cứ Điều 586, Điều 590, Điều 591 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm
2015; Căn cứ Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điểm a và Điểm b Điều 7, Điều 8, Điểm d
Điều 13, Điều 15 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017;
Căn cứ Căn cứ Khoản 1 Điều 11, Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều
76 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017;
Tuyên xử:
[1]. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hùng A, bà
Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T về việc:
Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B có trách nhiệm liên đới bồi thường số tiền
6.100.398.050 đồng cho ông Nguyễn Hùng A, bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1,
bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T là toàn bộ giá trị nhà và đất thuộc thửa đất số
03 tờ bản đồ số 65, diện tích 319,14m
2
tọa lạc tại H(số mới là 109) N, phường T, Tp
B, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Ông Nguyễn Hùng A, bà Nguyễn
Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T phải nộp 3.000.000
đồng tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản (đã chi phí xong tại Tòa án nhân dân
thành phố Buôn Ma Thuột). Chia theo phần: Mỗi người phải nộp: 600.000 đồng.
Ông Nguyễn Hùng A được nhận lại khi thu từ bà Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị T1,
bà Nguyễn Thị Đ1, bà Nguyễn Thị T.
[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Trả cho ông Nguyễn Hùng A số tiền 19.000.000
đồng tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2023/0004439 ngày
28/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Trả lại cho ông Nguyễn Hùng A 300.000
đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí
lệ phí tòa số: AA/2023/0013854 ngày 18/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
12
[5]. Các quyết định khác của Bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND thành phố Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS Tp B;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Lưu Thị Thu Hường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm