Bản án số Số/2025/DS-PT ngày 31/03/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án Số/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số Số/2025/DS-PT ngày 31/03/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tây Ninh
Số hiệu: Số/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Nguyễn Thị Bích T yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TÂY NINH
Bản án số: 167/2025/DS-PT
Ngày: 31-3-2025
V/v: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền s dụng đất
vô hiệu”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Hữu Chiến
Các Thẩm phán:
Bà Lê Thị Thu Trang;
Ông Nguyễn Văn Nam.
Thư phiên tòa: Ông Mạnh Hùng, Thư Tòa án nhân dân tỉnh Tây
Ninh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa:
Đặng Thị Châu - Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 26/TLPT-DS ngày 11 tháng 02 năm 2025 về
việc “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”.
Do Bản án dân sự thẩm s258/2024/DS-ST, ngày 27/12/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh có kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2025/QĐ-PT ngày 25 tháng 02
năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bích T; sinh năm 1988; trú tại: Số A, hẻm
A, đường H, khu phố H, phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
2. Bị đơn: Anh Bùi Xuân Đ, sinh năm 1992; trú tại: Thôn B, Đ, huyện
Đ, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.
Đại diện theo y quyền của anh Bùi Xuân Đ là anh Nguyễn Hồng T1, sinh
năm 1992, trú tại số A ấp P, P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp (theo Giấy ủy quyền
lập ngày 08-01-2025), vắng mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Duy Q, sinh năm 1997;
trú tại: Tổ I, phường T, quận C, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Duy Q là: anh Trần Giang N,
sinh năm 1984; ttại: Số D đường N, tổ F, phường B, thành phố H, tỉnh Tĩnh
(theo Giấy ủy quyền lập ngày 18-10-2024); vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Duy Q luật ông
Nguyễn Hồng H ng tác tại Công ty L Đoàn luật sư H1; vắng mặt.
Người kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Bích T nguyên đơn, anh Bùi Xuân Đ
bị đơn và anh Lê Quốc D người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 11 tháng 10 năm 2024, lời khai trong quá trình
giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích T trình bày:
Do nhu cầu vay tiền để phục vụ mục đích nhân, chị T lên google tìm
được biết anh Bùi Xuân Đ cho vay tiền. Sau khi vay tiền anh Đ dùng nhiều thủ
đoạn cho vay nặng lãi và đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm về
tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” xong.
Kết luận điều tra của Công an thành phố T, Cáo trạng của Viện kiểm t
nhân dân thành phố Tây Ninh kết luận: Số tiền chị T vay của anh Đ trả cho anh Thi
Quốc T2 chuộc lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với số tiền
1.120.000.000 đồng; tiền mượn làm nhà 60.000.000 đồng tiền ợn đóng lãi
cho anh T2 tháng 12/2022 số tiền 20.000.000 đồng. Đây số tiền dân sự không
được giải quyết trong vụ án hình sự. Đối với số tiền 60.000.000 đồng
20.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận không tính lãi số tiền này.
Chị T đã trả cho anh Đ tiền lãi của tháng 02-2023 (2.120.000.000 đồng x
7%) số tiền 147.000.000 đồng. Số tiền này không được tính tiền thu lợi bất
chính, vì vậy anh Đ có nghĩa vụ trả lại cho chị T số tiên 147.000.0000 đồng.
Anh Đ đã làm dịch vụ nhanh để được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng
đất đứng tên anh Đ sau đó lần 02 anh Duy Q với số tiền 63.000.000 đồng
nhưng đây là hành vi trái pháp luật nên anh Đ phải có nghĩa vụ trả lại chị T số tiền
này.
Tổng cộng chị có nghĩa vụ trả cho anh Đ số tiền 990.000.000 đồng.
Chị yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị
anh Đ hiệu, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Đ anh Q
vô hiệu. Trả lại nhà và đất cho chị theo quy định của pháp luật.
Bị đơn anh Bùi Xuân Đ trình bày:
Vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là của cha mẹ chT, còn của
chị T anh Đ mua phần tiền vay của chị T đối với ông T3. Mua số tiền vay của
ông T3 là số tiền 2.120.000.000 đồng.
Số tiền đóng lãi 145.000.000 đồng là do chị T tự nguyện đóng lãi, anh Đ
thừa N1 nhận stiền này. Số tiền 63.000.000 đồng tiền nhờ dịch vụ ra giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nhanh. Anh không đồng ý trả lại chị T.
Đối với việc anh đã chuyển nhượng nhà đất với anh Duy Q mua bán
căn nhà này với giá 3.500.000.000 đồng. Anh đã nhận của anh Q số tiền
2.500.000.000 đồng đồng, còn lại 1.000.000.000 đồng, anh Q chưa giao.
Anh Đ không đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
anh và chị T, yêu cầu chị T bàn giao nhà và đất để anh giao lại cho anh Lê Duy Q.
Người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Duy Q người đại diện
theo ủy quyền của anh Q là anh Trần Giang N trình bày:
Anh Lê Quy Q1 nhận chuyển nhượng nhà đất từ anh Bùi Xuân Đ, diện tích
đất 320m
2
, thửa đất số 503; tờ bản đồ số 14. Đất tọa lạc tại khu phố H, phường H,
thành phố T, tỉnh Tây Ninh. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh Duy Q
đứng tên, hiện do anh Q đang cất giữ.
Giá chuyển nhượng nhà đất trên 3.500.000.000 đồng, đã giao cho anh Đ
số tiền 2.500.000.000 đồng, còn 1.000.000.000 đồng chưa giao.
Anh Q không đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà đất trên,vì anh Q
mua nhà đất ngay tình tanh Đ. Nếu trong trường hợp Tòa án Tuyên bố hợp
đồng vô hiệu thì anh Q yêu cầu bồi thường số tiền gấp đôi là 5.000.000.000 đồng.
Anh Q yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng giao nđất, anh Q đồng ý
trả đủ số tiền còn lại 1.000.000.000 đồng. Trường hợp anh Đ muốn mua lại thì
phải mua với giá 5.000.000.000 đồng. Anh Q rút yêu cầu bồi thường thiệt hại
2.500.000.000 đồng.
Bản án dân sự thẩm số 258/2024/DS-ST, ngày 27/12/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bích T về việc
“Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”.
Tuyên bố:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng giữa chị Nguyễn Thị Bích T
anh Bùi Xuân Đ được Văn phòng C, quyển số 01/2023 TP/CC-SCC/HĐGD ngày
03-01-2023 đối với diện tích đất 320 m
2
; thửa đất số 503, tờ bản đồ số 14, đất tọa
lạc tại số A hẻm A đường H, khu phố H, phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh
hiệu.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Bùi Xuân Đ anh
Duy Q được Văn phòng C1, quyển số 04/2023 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 31-3-
2023 đối với diện tích đất 320 m
2
; thửa đất số 503, tờ bản đồ số 14, đất tọa lạc tại
số nhà A hẻm A, đường H, khu phố H, phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh
hiệu.
Chị Nguyễn Thị Bích T được quyền sử dụng đăng đứng tên đối với
phần đất có diện tích 320 m
2
; thửa đất số 503, tờ bản đồ số 14, đất tọa lạc tại số nhà
A hẻm A, đường H, khu phố H, phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh.
Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào quyết định của bản
án này xem xét thu hồi, hủy bỏ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tài sản
gắn liền với đất cho đương sự theo quy định của pháp luật.
Buộc chị Nguyễn Thị Bích T nghĩa vtrả cho anh i Xuân Đ số tiền
1.436.827.733 đồng (trong đó vốn gốc 1.137.000.000 đồng và tiền lãi
299.827.733 đồng).
Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của anh Duy Q đối với anh Bùi
Xuân Đ.
Buộc anh Bùi Xuân Đ nghĩa vụ trả cho anh Duy Q số tiền
2.500.000.000 đồng.
Đình chỉ yêu cầu độc lập đối với anh Q yêu cầu anh Đ bồi thường số tiền
2.500.000 (Hai tỷ năm trăm triệu) đồng.
Bản án thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, lãi suất chậm trả, chi phí
tố tụng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 30 tháng 12 năm 2025, chị Nguyễn Thị Bích T kháng cáo bản án
thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét không tính tiền lãi trên tiền nợ
1.137.000.000 đồng.
Ngày 30 tháng 12 m 2025, anh Bùi Xuân Đ kháng cáo bản án thẩm,
yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét buộc chị T trả cho anh Đại số tiền là 2.120.000.000
đồng.
Ngày 28 tháng 12 năm 2025, anh Duy Q kháng cáo bản án thẩm, yêu
cầu cấp phúc thẩm xem xét bác yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng nhà và đất giữa anh i Xuân Đ và Lê Duy Q là vô hiệu.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Nguyễn Thị Bích T giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tại phiên tòa Phúc
thẩm:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm thẩm chấp hành đúng quy định của
pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử
đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Thư phiên
tòa thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn; các đương sự đều thực hiện đúng
quyền và nghĩa vụ của đương sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của anh Bùi Xuân Đ anh
Nguyễn Hồng T1; đại diện theo ủy quyền của anh Duy Q là anh Trần Giang N,
luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho anh Q ông Nguyễn Hồng H được
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên đề nghị Hội
đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Ttụng dân sự đình chỉ xét xử
phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của anh Bùi Xuân Đ và anh Lê Duy Q.
- Về nội dung: Sau khi xét xử thẩm chị Nguyễn Thị Bích T kháng cáo
yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án thẩm theo hướng không tính tiền lãi
trên tiền nợ gốc 1.137.000.000 đồng. Việc Tòa án cấp thẩm buộc chị T trả tiền
vốn gốc tiền lãi vay theo quy định pháp luật căn cứ, chị T kháng cáo
nhưng không cung cấp được chứng cứ mới nên không có căn cứ chấp nhận, nên đ
nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến đại diện Viện kiểm sát, ý kiến của đương
sự, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử thẩm, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích T,
bị đơn anh Bùi Xuân Đ người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Duy Q
làm đơn kháng cáo, kháng cáo của các đương sự trong hạn luật định, nên vụ án
được xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của anh Bùi Xuân Đ anh
Nguyễn Hồng T1; đại diện theo ủy quyền của anh Duy Q là anh Trần Giang N,
luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho anh Q ông Nguyễn Hồng H được
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không do nên Hội đồng
xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ xét xử phúc
thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của anh Bùi Xuân Đ và anh Lê Duy Q.
[2] Về nội dung:
Chị Nguyễn Thị Bích T khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa chị T anh Bùi Xuân Đ được Văn phòng C, quyển số
01/2023 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03-01-2023 đối với diện tích đất 320 m
2
; thửa
đất số 503, tbản đồ số 14, đất tọa lạc tại số nhà A hẻm A đường H, khu phố H,
phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng giữa anh Bùi Xuân Đ
chuyển nhượng cho anh Duy Q được Văn phòng C1, quyển số 04/2023 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 31-3-2023 diện tích đất 320 m
2
; thửa đất số 503, tờ bản đồ số
14, đất tọa lạc tại số nhà A hẻm A, đường H, khu phố H, phường H, thành phố T,
tỉnh Tây Ninh vô hiệu.
Anh Bùi Xuân Đ không đồng ý hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa anh chị T hiệu, yêu cầu chị T bàn giao nhà đất đanh giao lại cho
anh Duy Q, nếu hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh
chị T vô hiệu thì yêu cầu chị T trả cho anh số tiền 2.120.000.000 đồng.
Anh Duy Q yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng nhà đất
giữa anh Bùi Xuân Đ và anh là có hiệu lực, vì anh là người mua ngay tình.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của chị T thấy rằng: Trong năm 2022, chị T nhiều
lần vay tiền của anh Đ. Ngày 26/12/2024 chị T vay của anh Đại số tiền
1.120.000.000 đồng đtrả cho ông T2 để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do chị T đứng tên thế chấp cho ông T2 trước đây. Sau khi lấy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do chị T đứng tên về thì anh Đ yêu cầu chị T làm hợp đồng
chuyển nhượng cho anh đứng tên để đảm bảo các khoản tiền mà chị T đã vay. Trên
thực tế sau khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất cho anh Đ thì anh
Đ vẫn thu tiền lãi đối với tiền vay của chị T, anh Đ quay clip gửi chị T cam
kết không chuyển nhượng đất qua người thứ ba thừa nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa chị T anh Đ là hình thức nhằm che đậy hợp
đồng vay tài sản. Do vậy, cấp thẩm tuyên bố hợp đồng chuyển chuyển nhượng
quyền sdụng đất giữa chị T anh Đ hiệu do giả tạo nhằm che đậy hợp
đồng vay tài sản là có căn cứ, đúng pháp luật.
Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Đ anh
Duy Q thấy rằng: Anh Đ cho rằng chị T vi phạm cam kết trong hạn 03 tháng (từ
ngày 26/12/2022 đến 26/3/2023) trả tiền, nhưng không trả tiền nên anh được quyền
sang nhượng nhà đất. Chị T xác nhận giấy cam kết trên do chị viết theo yêu cầu
của anh Đ trong thời hạn trên chị nhiều lần yêu cầu anh Đ cho chị trả tiền vay
để lấy giấy chứng nhận quyền sdụng đất về nhưng anh Đ không đồng ý tiếp
tục tính lãi suất rất cao buộc chị trả nên chưa đến hết ngày n thỏa thuận
26/3/2023, ngày 23/3/2023 chị làm đơn tố cáo anh Đ gửi cơ quan công an. Xét thấy
lời khai của chị T căn cứ phù hợp với kết ququan điều tra đã thu
thập được.
Anh Duy Q cho rằng anh sang nhượng nhà đất ngay tình nên yêu cầu
được công nhận. Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa anh Đ
anh Quốc lập ngày 31/3/2023 được Văn phòng C1 chứng thực cùng ngày đối với
diện tích đất 320 m
2
; thửa đất số 503, tbản đồ số 14 với giá 500.000.000 đồng.
Thấy rằng trên diện ch đất còn căn nhà cấp 4 chị T mới xây trên đất nhưng
không được thể hiện trong hợp đồng chuyển nhượng; giá trị thực tế nhà đất
3.145.635.000 đồng cao hơn gấp nhiều lần so với giá trị ghi trong hợp đồng. Nhà
đất từ trước đến nay chị T quản lý, sử dụng anh Q biết nhưng không gặp hoặc thỏa
thuận đối với chị T, anh Q chưa được anh Đ giao nhà. vậy, không căn cứ
cho rằng anh Q mua nhà đất ngay tình, Tòa án cấp thẩm tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Q và anh Đ hiệu là căn cứ, đúng
pháp luật.
[4] Tòa án cấp thẩm buộc chị T trả cho anh Đại số tiền vay còn nợ
1.137.000.000 đồng tiền lãi 299.872.733 đồng, tổng cộng 1.436.827.733
đồng.
[5] Chị Nguyễn Thị Bích T kháng cáo yêu cầu không tính tiền lãi trên tiền
nợ gốc 1.137.000.000 đồng.
Xét kháng cáo của chị T thấy rằng: Số tiền anh Đ cho chị T vay với lãi suất
cao đã được xem xét giải quyết vụ án hình sự, riêng số tiền anh Đ cho chị T vay
quan điều không xem xét, xcho rằng đây giao dịch dân sự được
Hội đồng xét xử xem xét giải quyết trong vụ án. Do anh Đ yêu cầu tính lãi suất
được Hội đồng xét xử chấp nhận tính lãi suất theo quy định căn cứ, đúng
pháp luật.
[6] Chị T kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh
cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không căn cứ chấp nhận; đnghị của đại
diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.
[7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Bích T phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 296; khoản 3 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của anh Bùi Xuân Đ
và anh Lê Duy Q.
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thị Bích T;
Giữ nguyên bản án n sự thẩm số 258/2024/DS-ST, ngày 27/12/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
n cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39; Điều 147; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 117; 124; 131; 463; 466; 468 và Điều 470 của Bộ luật
Dân sự;
Căn cứ Điều 26 và Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày
30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bích T về
việc “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”.
Tuyên bố: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng: 16,
quyển số 01/2023 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03-01-2023 giữa chị Nguyễn Thị Bích
T chuyển nhượng cho anh Bùi Xuân Đ của văn phòng C diện tích đất 320 m
2
; thửa
đất số 503, tbản đồ số 14, đất tọa lạc tại số nhà A hẻm A đường H, khu phH,
phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh vô hiệu.
Tuyên bố: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng:
570, quyển số 04/2023 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 31-3-2023 giữa anh Bùi Xuân Đ
chuyển nhượng cho anh Lê Duy Q của văn phòng C1 diện tích đất 320 m
2
; thửa đất
số 503, tờ bản đồ số 14, đất tọa lạc tại số nhà A hẻm A, đường H, khu phố H,
phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh vô hiệu.
Chị Nguyễn Thị Bích T được quyền sử dụng đăng đứng tên đối với
phần đất có diện tích 320 m
2
; thửa đất số 503, tờ bản đồ số 14, đất tọa lạc tại số nhà
A hẻm A, đường H, khu phố H, phường H, thành phố T, tỉnh Tây Ninh.
Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào quyết định của bản
án này xem xét thu hồi, hủy bỏ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tài sản
gắn liền với đất cho đương sự theo quy định của pháp luật.
2. Buộc chị Nguyễn Thị Bích T nghĩa vtrả (thanh toán) cho anh Bùi
Xuân Đ số tiền gốc 1.137.000.000 đồng i 299.827.733 đồng. Tổng cộng gốc
lãi 1.436.827.733 (Một tỷ bốn trăm ba ơi sáu triệu tám trăm hai mươi bảy
nghìn bảy trăm ba mươi ba) đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử thẩm cho đến khi thi hành án xong
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo
mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật,
nếu không thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của anh Duy Q đối với anh Bùi
Xuân Đ.
Buộc anh Bùi Xuân Đ nghĩa vụ trả (thanh toán) cho anh Duy Q số
tiền 2.500.000.000 (Hai tỷ năm trăm triệu) đồng.
4. Đình chỉ yêu cầu độc lập đối với anh Q yêu cầu anh Đ bồi thường số tiền
2.500.000 (Hai tỷ năm trăm triệu) đồng.
5. Về chi phí tố tụng: Buộc anh Bùi Xuân Đ nghĩa vụ trả lại cho chị
Nguyễn Thị Bích T số tiền 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự.
6. Về án phí:
6.1. Án phí sơ thẩm dân sự:
+ Chị Nguyễn Thị Bích T phải chịu 55.105.000 (Năm mươi lăm triệu một
trăm lẻ năm nghìn) đồng án phí dân sự thẩm. Khấu trừ số tiền chị Nguyễn Thị
Bích T đã nộp tiền tạm ứng án phí 600.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí
số 0003407 ngày 11-10-2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh,
tỉnh Tây Ninh. Chị Nguyễn Th Bích T còn phải nộp s tiền 54.505.000 (Năm
mươi bốn triệu năm trăm lẻ năm nghìn) đồng.
+ Anh Bùi Xuân Đ phải chịu 82.600.000 (T4 mươi hai triệu sáu trăm
nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
+ Anh Duy Q không phải chịu án phí dân sự thẩm, hoàn trả cho anh
Q số tiền tạm ứng án phí 56.500.000 (Năm mươi sáu triệu năm trăm nghìn) đồng
theo biên lai thu số 0003782 ngày 05-12-2024 của Chi cục thi hành án dân sự
thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
6.2. Án phí phúc thẩm dân sự: Chị Nguyễn Thị Bích T phải chịu 300.000
(ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Khấu trừ số tiền chNguyễn Thị Bích
T đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số
0003897 ngày 02-01-2025 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh,
tỉnh Tây Ninh.
7. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
VKSND. TTN;
Phòng KTNV&THA;
TAND Tp Tây Ninh;
CCTHADS Tp Tây Ninh;
Những người tham gia tố tụng;
Lưu hồ sơ vụ án;
Lưu tập án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Lê Hữu Chiến
Tải về
Bản án số Số/2025/DS-PT Bản án số Số/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số Số/2025/DS-PT Bản án số Số/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất