Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT ngày 03/04/2025 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 09/2025/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT ngày 03/04/2025 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Trà Vinh
Số hiệu: 09/2025/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/04/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: yêu cầu chia tài sản khi ly hôn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Văn Hùng
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Long
Ông Lê Thành Trung
- Thư phiên tòa: Trần Thị Thảo - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Trà Vinh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh tham gia phiên tòa: Ông
Thạch Vũ - Kiểm sát viên.
Ngày 03 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh tiến
hành xét xử phúc thẩm công khai ván thụ lý số: 33/2024/TLPT-HNGĐ ngày 04
tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chấp ly hôn, chia tài sản khi ly hôn”.
Do bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 29/2024/HNGĐ - ST ngày 16
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cầu , tỉnh Trà Vinh bị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 184/2024/QĐ - PT ngày
19 tháng 12 năm 2024 và Thông báo số: 109/TB –TA ngày 28 tháng 3 năm 2025
về việc dời phiên tòa giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Vỏ Văn H, sinh năm 1971 (có mặt)
Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Vỏ Văn H: Luật sư
Nguyễn Xuân T - Văn phòng L, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh T. (có mặt)
- Bị đơn: Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1975 (có mặt)
Địa chỉ: ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Thu H1: Luật
sư Lưu Công Đ Công ty L1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh T. (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Minh H2, sinh năm
1978 (có mặt)
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TRÀ VINH
Bản án số: 09/2025/HNGĐ - PT
Ngày: 03 - 4 - 2025
V/v Tranh chấp ly hôn, tranh chấp
chia tài sản khi ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2
Địa chỉ: Khóm D, thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
- Người kháng cáo:Nguyễn Thị Thu H1 là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn
ông Vỏ Văn H trình bày: Ông với Nguyễn Thị Thu H1 chung sống với nhau
vào năm 2018 đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân T, huyện C, tỉnh Trà
Vinh vào ngày 26/11/2018. Qtrình chung sống với Nguyễn Thị Thu H1
không con chung. Nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến việc xin ly hôn do bất
đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau hay cự cãi chuyện gia đình nên chung
sống không hạnh phúc. Nay xét thấy tình cảm vchồng không còn nữa nên ông
yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu H1.
Về con chung: Không có, không tranh chấp nên ông không yêu cầu Tòa án
giải quyết.
Về nợ chung: Không tranh chấp nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Khi kết hôn ông cho Nguyễn Thị Thu H1 vàng sính
lễ gồm 17 chỉ vàng 24K (gồm 01 đôi bông tai 01 chỉ vàng 24K, 01 chiếc nhẫn 01
chỉ vàng 24K, 01 chiếc lắc tay 05 chỉ vàng 24K và 01 sợi dây chuyền 10 chỉ vàng
24K), hiện 17 chỉ vàng 24K này do Nguyễn Thị Thu H1 đang quản lý. Theo
đơn khởi kiện ông yêu cầu Nguyễn Thị Thu H1 trả cho ông 01 sợi dây chuyền
10 chỉ vàng 24K. Nay trong 17 chỉ vàng cưới này ông đồng ý cho bà Nguyễn Thị
Thu H1 hưởng riêng 01 đôi bông tai 01 chỉ vàng 24K; còn lại 16 chỉ vàng 24K,
ông yêu cầu chia đôi mỗi người hưởng 08 chỉ, do Nguyễn Thị Thu H1 đang
quản svàng này nên ông yêu cầu bà Nguyễn Thị Thu H1 thanh toán lại cho
ông 08 chỉ vàng 24K.
Đối với thửa đất số 424, tờ bản đồ số 27, diện tích 474,9m
2
, tọa lạc ấp T,
xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh tài sản riêng của ông. Thửa đất 424 này có nguồn
gốc là do trước đây ông có hùn với ông Nguyễn Minh H2 (là em ruột H1) nhận
chuyển nhượng của ông Trần Hoàng D thửa đất thửa 114, tờ bản đồ số 27, diện
tích 3.998,4m
2
và thửa 382, tờ bản đồ số 27, diện tích 148,9m
2
, tọa lạc ấp T,
H, huyện C, tỉnh Trà Vinh, trong đó phần ông hùn số tiền 190.00.000 đồng tương
đương với phần đất được chia là thửa 424, diện tích 474,9m
2
. Khi phân chia thửa
424 cho ông thì ông Nguyễn Minh H2 làm hợp đồng tặng cho thửa đất s424 cho
Nguyễn Thị Thu H1 đứng tên quyền sử dụng ngày 09/01/2020. Sau đó
Nguyễn Thị Thu H1 đã làm thủ tục tặng cho quyền sử dụng đối với thửa đất 424
lại cho ông và ông đã được điều chỉnh trang tư đứng tên quyền sử dụng đất ngày
29/10/2020. Do đó, ông không đồng ý với yêu cầu chia thửa đất 424 của bà
Nguyễn Thị Thu H1.
3
Đối với yêu cầu của bà H1 yêu cầu chia đôi số tiền 86.773.449 đồng
nhà nước bồi hoàn phần đất của thửa 424 ông không đồng ý vì thửa đất 424 là tài
sản riêng của ông nên số tiền nhà nước bồi hoàn 86.773.449 đồng cũng là tài sản
riêng hợp pháp của ông.
Bị đơn Nguyễn Thị Thu H1 trình bày: thống nhất với lời trình bày
của ông Vỏ Văn H về thời điểm chung sống, đăng kết hôn, về con chung.
Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, chung sống không hạnh
phúc. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên cũng thống nhất
thuận tình ly hôn với ông Vỏ Văn H.
Về con chung: Không có, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án
giải quyết.
Về nợ chung: Không tranh chấp nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Vào tháng 8/2019, ông Vỏ Văn H hùn với ông Nguyễn
Minh H2 (là em ruột của bà) nhận chuyển nhượng phần đất thửa 114, tbản đồ
số 27, diện tích 3.998,4m
2
và thửa 382, tờ bản đồ số 27, diện tích 148,9m
2
tọa lạc
ấp T, H, huyện C, tỉnh Trà Vinh của ông Trần Hoàng D với giá 2.550.000.000
đồng; trong đó ông Vỏ Văn H hùn nhận chuyển nhượng phần đất ngang 5m dài
58m, diện tích 290m
2
với số tiền là 190.000.000 đồng; do không đủ diện tích tách
thửa nên ông Nguyễn Minh H2 đã cho thêm bà phần đất ngang 5m dài 37m, diện
tích 185m
2
liền kề với phần đất ông Vỏ Văn H nhận chuyển nhượng để nhập lại
thành một thửa làm thủ tục sang tên cho đứng tên quyền sử dụng đất tại thửa
số 424, tờ bản đồ số 27, diện tích 474,9m
2
, tọa lạc ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Trà
Vinh vào ngày 09/01/2020. Do ông Vỏ Văn H không đồng ý cho bà đứng tên
quyền sử dụng nên yêu cầu làm thủ tục sang tên lại cho ông Vỏ Văn H đứng
tên quyền sử dụng thửa đất này vào ngày 29/10/2020. Nay yêu cầu chia thửa
đất 424 cho bà được hưởng riêng 1/2 diện tích đất; 1/2 diện tích đất còn lại là tài
sản chung của ông Vỏ Văn H nên yêu cầu chia đôi mỗi người được hưởng
1/2. Nay theo kết quả đo đạc của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C
thì bà yêu cầu hưởng tài sản riêng phần đất hiệu C diện tích 161,3m
2
thuộc thửa 424; phần còn lại là tài sản chung gồm phần đất có ký hiệu A và B,
yêu cầu hưởng phần đất hiệu B diện tích 145,7m
2
thuộc thửa 424, còn phần
đất có ký hiệu A diện tích 127m
2
thuộc thửa 424 bà đồng ý chia cho ông Vỏ Văn
H được hưởng, phần diện tích đất bà hưởng nhiều hơn bà sẽ hoàn trả lại gtrị đất
cho ông Võ Văn H3.
Đối với số tiền bồi hoàn phần đất của thửa đất 424 là 86.773.449 đồng, bà
yêu cầu chia đôi cho bà và ông Vỏ Văn H mỗi người hưởng 1/2 số tiền trên.
Đối với số vàng cưới 17 chỉ vàng 24K (gồm 01 đôi bông tai 01 chvàng
24K, 01 chiếc nhẫn 01 chỉ vàng 24K, 01 chiếc lắc tay 05 chỉ vàng 24K và 01 sợi
dây chuyền 10 chỉ vàng 24K) khi kết hôn thì ông Vỏ Văn H có cho bà, đây là tài
4
sản chung của vợ chồng bà, 17 chỉ vàng 24K này do bà quản lý và đã bán hết để
trị bệnh hiếm muộn trong quá trình sống chung với ông Vỏ Văn H không còn nữa
nên bà không đồng ý chia theo yêu cầu của ông Vỏ Văn H.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh H2 trình bày:
Ông thống nhất với ý kiến trình bày của Nguyễn Thị Thu H1, không tranh
chấp hay yêu cầu gì thêm.
Tại bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 29/2024/HN- ST ngày 16
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè đã quyết định:
1. Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Vỏ Văn H với
Nguyễn Thị Thu H1.
2. Về con chung: Ông Vỏ Văn H và Nguyễn Thị Thu H1 thống nhất khai
không có, không yêu cầu nên không xem xét, gải quyết.
3. Về nchung: Ông Vỏ Văn H và Nguyễn Thị Thu H1 không tranh
chấp, không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
4. Về tài sản chung:
Chấp nhận yêu cầu của ông Vỏ Văn H về việc yêu cầu chia tài sản chung
số vàng 17 chỉ vàng 24K; chia cho ông Vỏ Văn H được hưởng 08 chỉ vàng
24K, Nguyễn Thị Thu H1 được hưởng 09 chỉ vàng 24K, do Nguyễn Thị
Thu H1 quản lý 17 chỉ vàng 24K nên buộc bà Nguyễn Thị Thu H1 hoàn trả giá trị
08 chỉ vàng 24K cho ông Vỏ Văn H bằng 63.040.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Thu H1 về việc yêu
cầu chia thửa đất s424, tờ bản đồ số 27, diện tích 474,9m
2
, tọa lạc ấp T, H,
huyện C, tỉnh Trà Vinh và yêu cầu chia đôi số tiền bồi hoàn 86.773.449 đồng.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, chi phí thẩm
định, định giá, nghĩa vụ chậm thi hành án quyền kháng cáo của các đương sự
theo quy định của pháp luật.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H1 kháng cáo bản
án sơ thẩm, không đồng ý chia cho ông H 08 chỉ vàng 24k; đối với thửa đất 424,
yêu cầu ông H trả lại diện tích 185m
2
, phần diện tích còn lại của thửa 424 yêu cầu
chia cho bà hưởng ½; yêu cầu chia cho hưởng ½ số tiền 86.773.449 đồng
Nhà nước bồi thường phần đất của thửa 424.
Tại phiên tòa phúc thẩm m nay, nguyên đơn ông Vỏ Văn H không rút
yêu cầu khởi kiện, bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đối với 17 chỉ vàng 24k, ông H đồng ý giao toàn bộ số vàng này cho H1 được
quyền sở hữu.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn cho rằng: Trong diện
tích 474,9m
2
của thửa 424 185m
2
tài sản riêng của H1 phần diện tích
đất này được ông Nguyễn Minh H2, ông Nguyễn Văn N cho riêng H1, phần
5
diện tích đất còn lại của thửa 424 là tài sản chung của bà H1 với ông H. Việc
H1 làm hợp đồng tặng cho thửa đất 424 cho ông H là do bà H1 bị ông H đe dọa,
ép buộc. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của H1.
Người bảo vquyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn cho rằng: Đối với
17 chỉ vàng 24k, tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay ông H đồng ý giao cho H1
được quyền sở hữu nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của
ông H. Đối với thửa 424, diện tích 474,9m
2
, đây phần đất ông H dùng số
tiền riêng của ông H 190.000.000 đồng giao cho ông Nguyễn Minh H2 để hùn
mua nên đây tài sản riêng của ông H; H1 cũng thừa nhận việc này nên đã
làm thủ tục để sang tên lại cho ông H đứng tên quyền sdụng đất. Nay H1 cho
rằng việc H1 làm thủ tục để cho ông H đứng tên quyền sử dụng đất thửa 424
do bà H1 bị ông H đe dọa, ép buộc việc H1 cho rằng trong diện tích
474,9m
2
185m
2
đất là H1 được ông N, ông H2 cho riêng không có. Do
đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của H1 về
việc yêu cầu chia thửa đất 424.
Ý kiến của vị Kiểm sát viên:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tiến hành đúng quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa
vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, vKiểm sát viên cho rằng: Đối với 17 chỉ vàng 24k, tại
phiên tòa phúc thẩm hôm nay ông H đồng ý giao cho H1 được quyền sở hữu
nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của ông H. Đối với thửa
424, diện tích 474,9m
2
, H1 đã làm thtục tặng cho thửa đất này cho ông H
đúng theo quy định của pháp luật ông H đã được chỉnh trang đứng tên quyền
sử dụng đất nên hợp đồng tặng cho quyền sdụng đất giữa H1 với ông H đã
hiệu lực pháp luật. Việc bà H1 cho rằng H1 làm hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất thửa đất 424 cho ông H là do bà H1 bị ông H đe dọa, ép buộc nhưng
H1 không chứng cứ chứng minh. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo của H1 về việc yêu cầu chia thửa đất 424.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ được xem xét tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đối với kháng cáo của Nguyễn Thị Thu H1 không đồng ý chia cho
ông Vỏ Văn H 08 chỉ vàng 24k: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông H đồng ý
giao cho H1 17 chỉ vàng 24K được quyền sở hữu, đây sự tự nguyện của ông
H nên Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện này của ông H giao toàn bộ 17
chỉ vàng 24k mà bà H1 đang quản lý cho bà H1 được quyền sở hữu.
6
[2] Đối với kháng cáo của bà H1 yêu cầu ông H trả lại cho bà diện tích đất
185m
2
, thuộc thửa 424, phần diện tích còn lại của thửa 424 yêu cầu chia cho
hưởng ½; yêu cầu chia cho hưởng ½ số tiền 86.773.449 đồng Nhà nước bồi
thường phần đất của thửa 424. Theo H1 cho rằng thửa đất 424, diện tích
474,9m
2
(Nhà nước thu hồi 40,8m
2
, còn lại 434,1m
2
), trong phần diện tích
185m
2
là của ông Nguyễn Minh H2 (em bà H1), ông Nguyễn Văn N (anh bà H1)
cho riêng H1 nên phần diện tích đất này là tài sản riêng của bà H1; phần diện
tích đất còn lại 290m
2
của thửa đất 424 là ông H dùng số tiền 190.000.000 đồng
có trong thời kỳ hôn nhân để mua nên phần diện tích đất này tài sản chung của
H1 ông H. Còn ông H cho rằng thửa đất 424, diện tích 474,9m
2
ông H
dùng tiền riêng của ông 190.000.000 đồng để hùn với ông Nguyễn Minh H2 để
mua nên đây là tài sản riêng của ông H. Hội đồng xét xử xét thấy:
H1 và ông H kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn ngày 26/11/2018
tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Vào ngày 23/8/2019 thì ông
Nguyễn Minh H2, Trần Thị Mỹ T1, Nguyễn Văn N hùn mua thửa đất 382, diện
tích 148,9m
2
và thửa đất 114, diện tích 3.998,4m
2
của ông Trần Hoàng D với giá
2.550.000.000 đồng nhưng để ông H2 người đứng ra làm hợp đồng chuyển
nhượng với ông D (BL 45 - 49). Sau đó cũng vào năm 2019 thì ông H đưa cho
ông Nguyễn Minh H2 số tiền 190.000.000 đồng để hùn mua một phần đất nằm
trong phần đất ông H2, ông N, T1 nhận chuyển nhượng từ ông ông D. Thửa
đất 382, thửa 114 sau khi nhận chuyển nhượng của ông D thợp thành thửa 413,
diện tích 4.147,3m
2
được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Minh H2 vào ngày 22/10/2019 (BL123
124). Sau đó thửa đất 413 tách ra thành 04 thửa: Thửa 423, diện tích 2.027m
2
;
thửa 424, diện tích 474,9m
2
; thửa 425, diện tích 977,7m
2
; thửa 426, diện tích
667,7m
2
(BL 121). Đối với thửa 424, diện tích 474,9m
2
, ngày 19/12/2019 ông
Nguyễn Minh H2 là hợp đồng tặng cho Nguyễn Thị Thu H1 thửa 424 này và
H1 được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vào ngày 09/01/2020 (BL 119 - 120, 122). Đến ngày 15/10/2020 thì
H1 làm hợp đồng tặng cho lại ông H thửa đất 424 ông H được Văn phòng Đăng
đất đai tỉnh T Chi nhánh huyện C chỉnh trang vào ngày 29/10/2020 (BL
126 129). Sau đó Nhà nước thu hồi diện tích đất 40,8m
2
của thửa 424 được
bồi thường số tiền 86.773.449 đồng (BL 39, 50 – 53). Bà H1 cho rằng việc H1
làm hợp đồng tặng cho thửa đất 424 cho ông H do ông H đe dọa, ép buộc nhưng
H1 không chứng cứ chứng minh là H1 bị ông H đe dọa, ép buộc; còn
ông H cho rằng thửa đất 424 ông dùng tiền riêng của ông để nhận chuyển
nhượng nên H1 mới hợp đồng tặng cho đtrả lại cho ông thửa đất 424.
Hội đồng xét xử xét thấy, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất
424 giữa H1 ông H được thực hiện đúng quy định của pháp luật, thửa đất
424 ông H đã được Văn phòng Đăng đất đai tỉnh T Chi nhánh huyện C chỉnh
7
trang tư sang tên cho ông H nên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa H1
với ông H đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, thửa đất 424 là tài sản riêng của ông
H, việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà H1 yêu cầu
chia thửa đất 424 số tiền Nhà nước bồi thường 86.773.449 đồng đúng quy
định của pháp luật. Do đó, phần kháng cáo này của bà H1 không có cơ sở chấp
nhận.
[3] Xét ý kiến của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn,
như phân tích ở phần trên, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận.
[4] Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, như
phân tích ở phần trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở chấp nhận.
[5] Xét ý kiến của vị Kiểm sát viên, như phân tích phần trên, Hội đồng
xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận.
[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Buộc ông Vỏ Văn H phải chịu số tiền
150.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Bà Nguyễn Thị Thu H1 không phải chịu
án phí hôn nhân sơ thẩm.
[7] Về án phí dân sự thẩm: Ông Vỏ Văn H không phải chịu. Hoàn trả
cho ông H số tiền tạm ứng án phí 1.675.000 đồng mà ông H đã nộp theo biên lai
số 0016153 ngày 04/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cầu Kè, tỉnh
Trà Vinh.
Buộc Nguyễn Thị Thu H4 phải chị 6.698.000 đồng án phí dân s
thẩm [5% x (17 chỉ vàng 24k x 7.880.000đồng/chỉ =133.960.000 đồng)] nhưng
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí thẩm đã nộp 5.381.250 đồng theo biên
lai thu số 0017625 ngày 20 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân s
huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh; Nguyễn Thị Thu H1 phải nộp tiếp số tiền
1.316.750 đồng.
[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Thu H1 không phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Chấp nhận mt phần kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H1.
Sửa Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 29/2024/HNGĐ - ST ngày 16
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.
Căn cứ Điều 9, Điều 19, Điều 33, Điều 43, Điều 51, Điều 53, Điều 55 Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết số: 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng mt số quy định của pháp
luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình;
8
Căn cứ Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản s
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Vỏ Văn H với
Nguyễn Thị Thu H1.
2. Về con chung: Ông Vỏ Văn H Nguyễn Thị Thu H1 thống nhất khai
không có, không yêu cầu nên không xem xét, gải quyết.
3. Về nợ chung: Ông Vỏ Văn H Nguyễn Thị Thu H1 không tranh
chấp, không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
4. Về tài sản:
Công nhận sự tự nguyện của ông Vỏ Văn H giao tài sản chung là 17 chỉ
vàng 24k Nguyễn Thị Thu H1 đang quản cho Nguyễn Thị Thu H1
được quyền sở hữu.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Nguyễn Thị Thu H1 về việc yêu
cầu chia thửa đất s424, diện tích 474,9m
2
, tờ bản đồ số 27, tọa lạc ấp T, H,
huyện C, tỉnh Trà Vinh yêu cầu chia đôi số tiền Nhà nước bồi thường
86.773.449 đồng.
5. Về chi phí thẩm định, định giá: Buộc Nguyễn Thị Thu H1 phải chịu
3.395.345 đồng tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản tranh chấp; bà Nguyễn Thị
Thu H1 đã nộp tạm ứng chi xong số tiền 3.395.345 đồng nên không phải nộp
tiếp.
6. Về án phí hôn nhân thẩm: Buộc ông Vỏ Văn H phải chịu số tiền
150.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Bà Nguyễn Thị Thu H1 không phải chịu
án phí hôn nhân sơ thẩm.
7. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Vỏ Văn H không phải chịu án phí dân sự
sơ thẩm. Hoàn trả cho ông H số tiền tạm ứng án phí 1.675.000 đồng mà ông H đã
nộp theo biên lai số 0016153 ngày 04/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.
Buộc Nguyễn Thị Thu H1 phải chị 6.698.000 đồng án phí dân sthẩm
nhưng được trừ vào 5.381.250 đồng tiền tạm ứng án phí H1 đã nộp theo
biên lai thu số 0017625 ngày 20 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh; Nguyễn Thị Thu H1 phải nộp tiếp số tiền
1.316.750 đồng.
8. Về án phí dân sphúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Thu H1 không phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho bà H1 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân
sự phúc thẩm mà bà H1 đã nộp theo biên lai số 0008646 ngày 02/10/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.
9
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, và 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Trà Vinh;
- TAND huyện Cầu Kè;
- Chi cục THADS huyện Cầu Kè;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, TDS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Văn Hùng
Tải về
Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất