Bản án số 276/2025/HC-PT ngày 18/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 276/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 276/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 276/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 276/2025/HC-PT ngày 18/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 276/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/03/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Ông Thái Văn D kiện Ủy ban nhân dân huyện B về Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 276/2025/HC-PT
Ngày 18-3-2025
V/v “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại khi
nhà nước thu hồi đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thụy Vũ;
Các Thẩm phán:
Bà Nguyễn Thị Thúy Hòa;
Ông Lê Văn An.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Hữu Trung – Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Phạm Thị Thanh Hoa - Kiểm sát viên.
Vào ngày 18 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh tiến hành xét xử công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý
số 29/2025/TLPT-HC ngày 10 tháng 01 năm 2025 về “Khiếu kiện quyết định hành
chính trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 391/2024/HC-ST ngày 22 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 593/2025/QĐ-PT ngày
03 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Ông Thái Văn D, sinh năm 1967. (Vắng mặt)
Địa chỉ: A Ấp A, xã P, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền:
- Ông Võ Quang H, sinh năm 1990. (Có mặt)
- Bà Tô Thị Minh T, sinh năm 1997. (Có mặt)
Địa chỉ: 2 Đường D, Khu phố H, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Lê Khánh T1 – Đoàn Luật
sư Thành phố H. (Vắng mặt)
Địa chỉ: 2 đường D, Khu phố H, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.

2
Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Cao C – Phó Chủ tịch. (Có đơn
đề nghị xét xử vắng mặt)
Địa chỉ: C T, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
- Ông Nguyễn Minh T2 – Phòng T5. (Có mặt)
- Ông Trần Ngọc V – Ban Bồi thường Giải phóng mặt bằng. (Có mặt)
- Ông Võ Xuân T3 – Ban Bồi thường Giải phóng mặt bằng. (Có mặt)
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Hồng T4.
(Vắng mặt)
Địa chỉ: A ấp A, xã P, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
*Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Thái Văn D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai đại diện và tại phiên tòa, người khởi kiện
trình bày:
Khi thực hiện Dự án thành phần 2: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đường
Vành đai 3 đoạn qua Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân huyện B đã ban
hành Quyết định số 9823/QĐ-UBND ngày 16 tháng 10 năm 2023 thu hồi đất của
ông Thái Văn D, ông chấp hành giao đất để thực hiện dự án. Tuy nhiên quyết định
thu hồi đất số 9823/QĐ-UBND xác định không đúng diện tích đất bị thu hồi, cụ
thể đất của ông bị thu hồi có diện tích 301,4m² nhưng Quyết định số 9823/QĐ-
UBND xác định diện tích đất thu hồi 286,4m². Đến ngày 16 tháng 10 năm 2023,
UBND huyện B ban hành Quyết định số 9959/QĐ-UBND phê duyệt Phương án
số 2327/PABT-HĐBT ngày 16 tháng 10 năm 2023 về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất của ông Thái Văn D của Hội Đồng Bồi thường Dự
án. Phương án xác định diện tích đất thu hồi 286,4m², thuộc diện giải tỏa trắng,
tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là 54.391.040 đồng, không đủ điều kiện cấp tái
định cư.
Ông cho rằng Quyết định số 9959/QĐ-UBND phê duyệt Phương án số
2327/PABT-HĐBT ngày 16 tháng 10 năm 2023 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất của UBND huyện B không đúng pháp luật vì các lý do:
Ông có đủ các tài liệu thể hiện quá trình sử dụng đất ổn định từ năm 2004.
Theo Điều 21, Khoản 1,3 Điều 23 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất Đai 2013, căn cứ
các quy định của Pháp luật đất đai hiện hành thì trường hợp của ông đủ điều kiện
xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, đồng thời đủ điều kiện được
bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất. Các tài liệu gồm: Biên lai nộp thuế
sử dụng đất nông nghiệp, đơn xin cấp đất để làm nhà ở ngày 09/02/2002, Hội
đồng quản lý đất UBND xã P họp xét cấp đất thổ cư cho CBCNV trong và ngoài
xã ngày 29 tháng 7 năm 2002, Công văn số 302/CV-UB ngày 21/11/2002 của Ủy
ban nhân dân xã P gửi Thường trực UBND huyện, Phòng Quản lý trật tự đô thị
huyện B về việc đề nghị cấp đất cho Cán bộ công nhân viên xã Phạm Văn H1 có
hoàn cảnh khó khăn để ở, Công văn số 10/UB ngày 02/01/2003 của Ủy ban nhân

3
dân huyện B về việc đề nghị cấp đất cho cán bộ công nhân viên xã P có hoàn cảnh
khó khăn. Ủy ban nhân dân xã P họp ngày 12/4/2004 xét một số đơn còn lại của
Cán B - Công Nhân Viên xã, Hội đồng quản lý đất Ủy ban nhân dân xã P họp
ngày 12/5/2004 để xác định vị trí đất của CB CNV được hội đồng xét duyệt cấp,
đơn xin giao đất làm nhà ở được UBND xã P xác nhận ngày 08/9/2005, Công văn
số 357/UB ngày 06/9/2005 của Ủy ban nhân dân xã P gửi Ủy ban nhân dân huyện
B về việc đề nghị cấp đất cho CB CNV xã Phạm Văn H1 thực sự khó khăn về nhà
ở (có danh sách đính kèm), Công văn 3200/UBND-TM ngày 23/5/2008 của Ủy
ban nhân dân Thành Phố H về phê duyệt Phương án xử lý tổng thể nhà, đất của
Ủy ban nhân dân Huyện B theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 19/01/2007 đính kèm danh sách phụ lục vị trí nhà đất của ông
(nằm số thứ tự 25, biểu 2A - PL 7), Công văn số 72/TNMT ngày 20/6/2011 của
Phòng Tài nguyên và môi trường huyện T5 gởi Sở Tài nguyên và môi trường
Thành phố H về việc Tham vấn một số vấn đề bất cập trong quá trình giải quyết
hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại
xã P, Bản phô tô các Biên lai nộp thuế sử dụng đất từ năm 2012 đến năm 2022
đều xác định diện tích chịu thuế 301,4m², Công văn số 1232/UBND ngày
24/10/2013, Ủy ban nhân dân xã P ban hành về việc đề xuất loại khỏi đất công do
nhà nước trực tiếp quản lý và được đề xuất cấp giấy chứng nhận theo quy định
trong đó có trường hợp của ông. Ủy ban nhân dân xã P tổ chức cuộc họp ngày
01/8/2016 thông qua danh sách 181 trường hợp theo Công văn 480/ TNMT-
VPĐK ngày 21/01/2013 và danh sách 71 trường hợp theo Công văn số
3200/UBND-TM ngày 23/5/2008 của UBND thành phố thống nhất thông qua
danh sách 252 trường hợp đề xuất loại khỏi danh sách đất công và đề xuất cấp
giấy chứng nhận cho các trường hợp trên, trong đó có trường hợp của ông, Kết
luận số 2637/KL-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện B về quá
trình kê khai đăng ký, quản lý sử dụng đất do Nhà nước trực tiếp quản lý tại xã P,
báo cáo 2300/BC-UBND ngày 25/4/2023 của UBND xã P về nguồn gốc, quá trình
sử dụng đất, quá trình kê khai đăng ký đối với các trường hợp thuộc danh sách đất
công bị ảnh hưởng trong dự án đường V, trên địa bàn xã P trong đó có trường hợp
nhà đất của ông.
Hội Đồng Bồi thường Dự án xác định ông có hành vi lấn chiếm đất nông
nghiệp là sai lệch với hồ sơ, tài liệu có tại Ủy ban nhân dân xã P. Theo sổ mục kê
của ruộng đất xã Phạm Văn H1 được UBND huyện B phê duyệt ngày 30/12/1985
là loại đất thổ tập trung và được quy hoạch khu dân cư hiện hữu cải tạo, theo quyết
định số 3929/QĐ-UBND ngày 07/07/2009 của UBND huyện B phê duyệt bản đồ
quy hoạch dân cư hiện hữu dọc tuyến Tỉnh lộ 10, khu đất thuộc chức năng quy
hoạch dân cư hiện hữu cải tạo, Quy hoạch xây dựng được duyệt kèm theo Quyết
định số 6013/QĐ-UBND ngày 26 tháng 11 năm 2012 đều xác định chức năng quy
hoạch là đất ở đô thị hiện hữu,
Theo Điều 23 Luật Đất đai quy định đất giao không đúng thẩm quyền cho
hộ gia đình, cá nhân là Ủy ban nhân dân cấp xã giao đất không đúng thẩm quyền
theo quy định của pháp luật về đất đai qua các thời kỳ; tổ chức được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất để sử dụng nhưng đã tự phân phối, bố trí cho cán bộ, công
nhân viên, xã viên để sử dụng làm nhà ở và các mục đích khác. Trường hợp đất

4
được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định từ ngày 15 tháng 10
năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014, không có tranh chấp, phù hợp với
quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 của Nghị định
này. Như vậy, trong trường hợp đất có nguồn gốc được giao không đúng thẩm
quyền và chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà có giấy tờ chứng
minh đã nộp tiền để được sử dụng đất đối với diện tích đất được giao theo đúng
mức thu quy định của pháp luật đất đai năm 1993 thì được bồi thường về đất đối
với diện tích và loại đất được giao. Căn cứ Điều 11 Nghị định 47/2014/NĐ-CP
(được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 4 Nghị định 01/2017/NĐ-CP): “Điều 11. Bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất có nguồn gốc được giao không đúng thẩm
quyền từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và có
giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất đối với diện tích đất được
giao mà chữa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì người đang sử
dụng đất được bồi thường”. Công văn số 3200/UBND-TM là văn bản hành chính
chỉ đạo UBND huyện B thực hiện theo Quyết định 09/2007/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ 19/1/2007. Điều 5 của Quyết định 09/2007/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ 19/1/2007 đã hướng dẫn: “Đối với cơ sở nhà, đất khi nhà nước
thu hồi để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng, mục đích phát triển kinh tế theo quy định của Luật Đất đai thì
việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thực hiện theo quy định của pháp luật đất
đai hiện hành”. Công văn số 3200/UBND-TM có đính kèm vị trí một lần nữa
chứng minh nhà đất của ông đã được cấp nằm Phụ lục số thứ tự 25, biểu 2A - PL.
7 và nêu rõ UBND xã cấp cho các hộ dân và cán bộ công nhân viên xã cụ thể: T
(250m²).
Như vậy vị trí đất địa chỉ B tổ I ấp B xã P, huyện B, Thành phố Hồ Chí
Minh bị ảnh hưởng Dự án thành phần 2: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đường
Vành đai 3 đoạn qua Thành phố Hồ Chí Minh của ông được bồi thường về đất đối
với diện tích 301,4m² và loại đất được giao là đất ở.
Ông khởi kiện tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đề nghị tuyên
hủy Quyết định số 9959/QĐ-UBND ngày 16/10/2023 của Ủy ban nhân dân huyện
B phê duyệt phương án số 2327/PABT-HĐBT ngày 16/10/2023 về bồi thường hỗ
trợ; Đề nghị Ủy ban nhân dân huyện B bồi thường đúng theo diện tích đất ở đô
thị 301,4 m² tại địa chỉ: 2 tổ I, ấp B, xã P, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bị kiện UBND huyện B trình bày như sau:
Theo Bản đồ Hiện trạng vị trí số 34/HĐĐĐ-BBT do Công ty TNHH T6 lập
ngày 30 tháng 12 năm 2022, được Ủy ban nhân dân xã P xác nhận ngày 17 tháng
2 năm 2023, diện tích ông Thái Văn D sử dụng ảnh hưởng của Dự án thành phần
2: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đường Vành đai 3 đoạn qua Thành phố Hồ Chí
Minh (sau đây gọi tắt là Dự án) là 286,4m², gồm một phần thửa 1, tờ bản đồ số
118, BĐĐC; tương ứng một phần thửa số 77, tờ bản đồ số 7, tài liệu 299/TTg.
Để thực hiện Dự án, Ủy ban nhân dân huyện B ban hành Quyết định số
9823/QĐ-UBND ngày 16 tháng 10 năm 2023 thu hồi đất do ông ông Thái Văn D;
diện tích đất thu hồi 286,4m², gồm một phần thửa 01, tờ bản đồ số 118, BĐĐC

5
tương ứng một phần thửa số 77, tờ bản đồ số 7, tài liệu 299/TTg, phần đất này
nằm trong danh sách đất nhà nước quản lý, thuộc biểu 2A-phụ lục 7-22 theo Công
văn số 3200/UBND-TM ngày 23 tháng 5 năm 2008 của Ủy ban nhân dân Thành
phố.
Ủy ban nhân dân huyện B ban hành Quyết định số 9959/QĐ- UBND ngày
16 tháng 10 năm 2023 về phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án (kèm Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư s 2327/PABT-HĐBT ngày 16 tháng 10 năm 2023 của Hội đồng Bồi
thường).
Theo Giấy xác nhận số 1375/GXN-UBND ngày 17 tháng 02 năm 2023 của
Ủy ban nhân dân xã P thì nguồn gốc đất của ông D do Hội đồng xét duyệt cấp đất
xã Phạm Văn H1 họp xét cấp do ông D thuộc diện Cán bộ Công nhân viên thực
sự khó khăn về nhà ở, thời điểm xét cấp từ năm 2004, việc xét cấp đất đến thời
điểm thu hồi chưa thực hiện xong, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Ông D sử dụng đất từ năm 2004 cho đến nay, nhà do ông D xây dựng
không phép, thời điểm xây dựng sau ngày 01 tháng 7 năm 2006, diện tích 45m²;
cấu trúc mái che, cột sắt, mái tôn, nền ceramic, sân trải đá, diện tích 56m².
Căn cứ Khoản 1, Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Nhà nước giao
đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối
tượng có nhu cầu sử dụng đất”. Căn cứ Khoản 2, Điều 37 Luật Đất đai năm 2003
quy định: “Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định
giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình,
cá nhân; giao đất đối với cộng đồng dân cư”. Căn cứ Khoản 7 Điều 3 Luật Đất đai
năm 2013 quy định: “Nhà nước giao quyền sử dụng (sau đây gọi là Nhà nước giao
đất) là việc Nhà nước ban hành quyết định giao đất để trao quyền sử dụng đất cho
đối tượng có nhu cầu sử dụng đất”. Căn cứ Điều 59 Luật Đất đai năm 2013 quy
định về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng
đất: “2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây: a. Giao đất, cho thuê
đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân...”.
Như vậy Luật đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 có quy định việc
giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân
cấp huyện và hình thức giao đất được thực hiện bằng quyết định giao đất. Qua rà
soát, trường hợp ông Thái Văn D được Hội đồng xét cấp đất của Ủy ban nhân dân
xã P tổ chức họp xét cấp đất (được ghi nhận lại bằng Biên bản, không phải bằng
quyết định giao đất) và có văn bản kiến nghị Ủy ban nhân dân Huyện giao đất
theo thẩm quyền. Ủy ban nhân dân xã P không ban hành quyết định giao đất nên
không thuộc trường hợp giao đất sai thẩm quyền nên không thể áp dụng các quy
định về cấp Giấy chứng nhận, hỗ trợ khi bị ảnh hưởng trọng Dự án như trường
hợp giao đất không đúng thẩm quyền. Căn cứ nguồn gốc quá trình sử dụng đất và
cơ sở pháp lý nêu trên, trường hợp của ông Thái Văn D sử dụng đất có nguồn gốc
là đất do nhà nước trực tiếp quản lý. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, sử dụng
đất tại địa phương, ông Thái Văn D đã sử dụng đất do Nhà nước trực tiếp quản lý
mà chưa có sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền theo quy định; phần diện

6
tích đất nêu trên đã được kê khai, quản lý theo danh mục đất do Nhà nước trực
tiếp quản lý. Do đó, không đủ điều kiện để bồi thường về đất theo quy định tại
Điều 75 Luật đất đai và sẽ được xem xét về nguồn gốc, quá trình, thời điểm sử
dụng để xem xét hỗ trợ theo Điều 11 Quyết định 28/2018/QĐ-UBND của Ủy ban
nhân dân Thành phố. Qua rà soát, Ủy ban nhân dân huyện B nhận thấy trường
hợp của ông Thái Văn D không đủ điều kiện áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 11
Quyết định 28/2018/QĐ- UBND bởi vì theo tài liệu Bản đồ địa chính do Ủy ban
nhân dân xã P đăng ký và thuộc danh sách Biểu 2A – Phụ lục 7 kèm theo Công
văn số 3200/UBND-TM ngày 23 tháng 5 năm 2008 của Ủy ban nhân dân Thành
phố nên không có cơ sở để xác định là đất không có nguồn gốc do hộ gia đình
khai hoang sử dụng nên không thể xác định là đất được sử dụng ổn định trước
ngày 01 tháng 7 năm 2004; có vi phạm pháp luật nhưng đến nay chưa bị xử lý.
Nhận thấy, trường hợp của ông Thái Văn D là sử dụng đất (có nguồn gốc do Nhà
nước trực tiếp quản lý) khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép
bằng hình thức giao đất hoặc cho thuê đất và có nhà xây dựng sau ngày 01 tháng
7 năm 2006, do đó chỉ thoả điều kiện để hỗ trợ về đất theo Điểm c Khoản 2 Điều
11 Quyết định 28/2018/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố.
Từ cơ sở nêu trên, Ủy ban nhân dân huyện B đề nghị Tòa án nhân dân
Thành phố bác các yêu cầu khởi kiện của ông Thái Văn D; công nhận nội dung
Quyết định số 9959/QĐ-UBND ngày 16 tháng 10 năm 2023 của Ủy ban nhân dân
huyện B; Phương án số 2327/PA-HĐBT ngày 16 tháng 10 năm 2023 của Hội
đồng bồi thường Dự án thành phần 2; Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đường Vành
đai 3 đoạn qua Thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng T4 trình bày:
Bà là vợ ông Thái Văn D, bà thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 391/2024/HC-ST ngày 22 tháng 8 năm
2024, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định:
Căn cứ Điều 32, Điều 60, Điều 116, Điểm b Khoản 1 Điều 143, Điều 144,
Khoản 1 Điều 157, Điều 158, Điều 193, Điều 206 Luật Tố tụng hành chính 2015;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng Án phí và Lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện ông Thái Văn D về tuyên hủy các quyết định
sau:
- Quyết định số 9959/QĐ-UBND ngày 16/10/2023 về phê duyệt Phương
án bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của ông Thái Văn D để
thực hiện Dự án thành phần 2: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đường Vành đai 3
đoạn qua Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương án số 2327/PABT-HĐBT ngày 16/10/2023 của Hội đồng Bồi
thường Dự án thành phần 2: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đường Vành đai 3
đoạn qua Thành phố Hồ Chí Minh.

7
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 06/9/2024, người khởi kiện kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu
cầu sửa bản án sơ thẩm và xét xử theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Đại diện theo ủy quyền của ông Thái Văn D trình bày giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo như đã nêu trong đơn, đồng thời cung cấp tờ tường trình và cam kết
của ông Tô Hồng V1, Lê Hoàng K về việc các ông là người trong Hội đồng xét
duyệt cấp đất của xã Phạm Văn H1 vào năm 2004 có tham gia xét cấp đất cho cán
bộ công nhân viên có khó khăn về nhà ở trên địa bàn xã, thời điểm 2004 ông D
đã được Ủy ban nhân dân (UBND) xã chính thức bàn giao đất.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND quận huyện B không
đồng ý với kháng cáo của ông D, cho rằng quá trình xét cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (GCNQSD đất) theo quy định của Luật Đất đai năm 2003,
trong đó quy định việc giao đất phải thể hiện bằng quyết định giao đất và cơ quan
có thẩm quyền giao đất phải là UBND huyện. Trường hợp của ông D lại là UBND
xã đưa vào danh sách đề nghị cấp giấy chứng nhận và trực tiếp giao đất qua hình
thức bốc thăm là không đúng quy định. Do vậy, không đủ điều kiện để được cấp
đất và cấp GCNQSD đất vì không phù hợp với quy hoạch. Tuy có sử dụng đất
trong thực tế nhưng do được giao đất không có căn cứ pháp luật nên không được
bồi thường theo quy định khi Nhà nước thu hồi đất. Ngoài ra, theo Thông tư số
208 năm 1997 thì đây là trường hợp sử dụng đất lấn chiếm do “không được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” nên ông chỉ được hỗ trợ chứ không được
bồi thường. Quá trình thu hồi đất, cơ quan chức năng đã tiến hành các thủ tục và
ban hành phương án bồi thường đúng quy định; án sơ thẩm đã tuyên xử không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo.
Người đại diện theo ủy quyền ông Thái Văn D tranh luận: ông D đủ điều
kiện để được cấp GCNQSD đất theo quy định của Điều 101 Luật Đất đai năm
2013 vì đã sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01/7/2004, theo tài liệu thể hiện ông
D được UBND xã P giao đất vào ngày 12/5/2004; quá trình nhận đất đến thời
điểm thu hồi đất ông không có vi phạm pháp luật về đất đai và trước khi bị thu
hồi thì UBND xã xác nhận đất không có tranh chấp. Phương án bồi thường được
UBND huyện B phê duyệt đã được xây dựng không đúng quy định pháp luật do
xác định sai vị trí đất, loại đất, đơn giá đất và căn cứ pháp lý để bồi thường, hỗ trợ
khi thu hồi đất của ông D so với Giấy xác nhận số 1357/GXN-UBND ngày
17/02/2023 của UBND xã P. Việc chỉ hỗ trợ đất nông nghiệp trồng cây lâu năm
vị trí 2, khu vực II dẫn đến xác định đơn giá đất 192.000đ/m² theo điểm c, khoản
2 phần II, chương III của Chính sách số 631/CSBT-HĐBT ngày 16/10/2023 do
Hội đồng bồi thường dự án thành phần 2 ban hành trong khi UBND xã xác nhận
ông D được bồi thường, hỗ trợ bằng đất hoặc nhà ở tái định cư theo các tiêu chí
tại điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP là có sự mâu thuẫn, không
đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ông D. Do Phương án 2327/PABT-HĐBT có nội
dung chưa phù hợp với giấy xác nhận của xã nên việc UBND huyện B ban hành

8
quyết định số 9959/QĐ-UBND phê duyệt phương án 2327 là trái quy định pháp
luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng: người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã
chấp hành đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính. Đơn kháng cáo được
làm trong hạn luật định nên hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo: căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập, án sơ
thẩm đã xem xét, đánh giá chứng cứ và tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo không xuất trình thêm
tài liệu chứng cứ nào mới trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo và căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành
chính giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Đơn kháng cáo của người khởi kiện làm trong hạn luật định nên hợp lệ,
được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Án sơ thẩm đã xác định loại vụ việc, quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm
quyền giải quyết đúng quy định Luật Tố tụng Hành chính. Quá trình tiến hành tố
tụng, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuân thủ các quy định về thủ tục tố tụng, quyền lợi tố
tụng của các đương sự được bảo đảm. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, các chứng cứ được thu thập đã đủ
cơ sở để giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án.
Đối với việc vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn
Thị Hồng T4 tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét
xử vắng mặt bà T4 theo Điều 225 Luật Tố tụng hành chính do đã triệu tập hợp lệ.
[2] Về nội dung:
Ông Thái Văn D khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 9959/QĐ-UBND
ngày 16/10/2023 về phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất và Phương án số 2327/PABT-HĐBT ngày 16/10/2023 của Hội
đồng bồi thường Dự án thành phần 2: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đường Vành
đai 3 đoạn qua Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời yêu cầu bồi thường đúng theo
diện tích đất ở đô thị 301,4m² tại địa chỉ B tổ I, ấp B, xã P, huyện B, Thành phố
Hồ Chí Minh theo Điều 11, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP (được sửa đổi bổ sung
bởi khoản 1, Điều 4, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP), vị trí thửa đất thuộc một phần
thửa số 1, tờ bản đồ số 118, tương ứng một phần thửa số 77, tờ bản đồ số 07 theo
tài liệu 299/TTg của Bộ địa chính xã P.
Xét tính hợp pháp và có căn cứ của quyết định hành chính bị khiếu kiện:
- Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành: Quyết định số 9959/QĐ-UBND
ngày 16 tháng 10 năm 2023 của UBND huyện B được ban hành đúng thẩm quyền

9
theo quy định của khoản 2 Điều 66, điểm a khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai năm
2013. Trên cơ sở Quyết định thu hồi đất số 9823/QĐ-UBND ngày 16 tháng 10
năm 2023 của UBND huyện B và căn cứ Bản đồ hiện trạng vị trí số 34/HĐĐĐ-
BBT do Công ty TNHH T6 lập ngày 30 tháng 12 năm 2022, được UBND xã P
xác nhận ngày 17 tháng 02 năm 2023 cùng Bản vẽ điều tra hiện trạng nhà, Biên
bản kiểm kê tài sản trên đất, Hội đồng Bồi thường Dự án đã lập Phương án bồi
thường số 2327/PA-HĐBT ngày 16 tháng 10 năm 2023 và được phê duyệt bởi
Quyết định số 9959/QĐ-UBND cùng ngày 16 tháng 10 năm 2023 bởi UBND
huyện B là đúng trình tự, thủ tục.
- Về nội dung:
UBND huyện B xác định trường hợp thu hồi đất của ông Thái Văn D chỉ
được hỗ trợ về đất, không được bồi thường về đất và vật kiến trúc trên đất do đất
không được cấp GCNQSD, nhà xây dựng không phép trên đất nông nghiệp, không
được hỗ trợ tái định cư….
Xét, theo Giấy xác nhận pháp lý, nguồn gốc đất, thời điểm tạo lập và sửa
chữa nhà, vật kiến trúc số 1375/GXN-UBND ngày 17/02/2023 của UBND xã P
thể hiện:
Về đất, chưa được cấp GCNQSD đất và nguồn gốc đất ông D sử dụng do
Hội đồng xét duyệt cấp đất xã Phạm Văn H1 xét duyệt vào ngày 12/5/2004 cho
các Cán bộ, công nhân viên thực sự khó khăn về nhà ở và sử dụng đến thời điểm
có quyết định thu hồi đất phục vụ cho Dự án thành phần 2 đường V. Vị trí khu đất
nằm trong danh sách địa chỉ nhà đất theo Công văn số 3200/UBND-TM ngày
23/5/2008 của UBND Thành phố H chưa được xác lập sở hữu nhà nước, đang
xem xét về rà soát lại pháp lý, nguồn gốc đất để đề xuất loại khỏi danh sách theo
Công văn số 3200 nêu trên.
Về nhà, được xây dựng sau ngày 01/7/2006 có nguồn gốc xây dựng không
phép, theo bản vẽ điều tra hiện trạng do Công ty TNHH T6 lập ngày 30/12/2022
– được ông D xác nhận có diện tích 45m², nền bê tông, cột sắt, vách tole, mái tole;
phần mái che diện tích 8,5m² nền ceramic, cột sắt, mái tole; sân trải đá diện tích
56m².
Theo Báo cáo số 251/BC-UB ngày 27/11/2001 của UBND xã P về danh
sách điều tra đất công trên địa bàn xã có thống kê địa chỉ, vị trí khu đất thuộc một
phần thửa số 777, Tờ bản đồ số 07 (Tài liệu 299/TTg), diện tích 8.620m² do
UBND xã sử dụng, ghi nhận là đất ao.
Theo danh sách kèm theo Báo cáo 251 này, Hội đồng cấp đất UBND xã
Phạm Văn H1 đã tổ chức họp xét cấp đất ngày 29/7/2002, trong đó có trường hợp
ông Thái Văn D.
Đến ngày 12/5/2004, UBND xã P tổ chức họp xác định vị trí cấp đất cho
cán bộ nhân viên đã được Hội đồng xét duyệt theo Biên bản họp xét cấp đất ngày
29/7/2002 và ngày 12/4/2004. Đây là thời điểm UBND xã bàn giao đất cho ông
D sử dụng.
UBND xã P đã thực hiện thống kê các trường hợp xét cấp đất nêu trên để
đưa vào danh sách đất để phê duyệt phương án xử lý tổng thể nhà đất theo Quyết

10
định số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ (Công văn
3200/UBND-TM ngày 23/5/2008 của U).
Như vậy, về đất thì trường hợp của ông D chỉ được Hội đồng xét cấp đất
của UBND xã P tổ chức họp xét cấp đất qua Biên bản cuộc họp và kiến nghị
UBND huyện giao đất; không phải bằng Quyết định giao đất theo thẩm quyền
như quy định của Luật Đất đai năm 2003 và 2013. Đây không xem là giao đất sai
thẩm quyền nên không áp dụng các quy định về cấp GCN, hỗ trợ khi bị ảnh hưởng
trong dự án như trường hợp giao đất không đúng thẩm quyền. Trường hợp của
ông là sử dụng đất có nguồn gốc do Nhà nước trực tiếp quản lý nhưng quá trình
sử dụng đất chưa có sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền theo quy định;
phần diện tích đất nêu trên đã được kê khai, quản lý theo danh mục đất do Nhà
nước trực tiếp quản lý và vị trí khu đất bị ảnh hưởng trong Dự án Vành đai 3, đã
có quyết định thu hồi nên không đủ điều kiện để bồi thường về đất theo quy định
của Điều 75 Luật đất đai mà chỉ được xem xét hỗ trợ theo điểm c khoản 2 Điều
11 Quyết định số 28/2018/QĐ-UBND của UBND Thành phố H. Đối với phần
nhà, do được xây dựng sau ngày 01/7/2006 nên không được xem xét.
Do Quyết định số 9959/QĐ-UBND ngày 16/10/2023 về phê duyệt phương
án bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của UBND huyện B và
Phương án số 2327/PABT-HĐBT ngày 16/10/2023 của Hội đồng bồi thường
được ban hành đúng trình tự thủ tục, về nội dung đã bảo đảm đúng với chứng cứ
đã thu thập nên được xem là hợp pháp và có căn cứ, Tòa án cấp sơ thẩm không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D là phù hợp.
[3] Về yêu cầu kháng cáo:
Ông Thái Văn D kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện.
Xét quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm đã tuân thủ quy định về tố tụng. Về
nội dung đã giải quyết đúng với tài liệu, chứng cứ đã thu thập, đúng quy định pháp
luật. Do các quyết định hành chính bị khởi kiện là hợp pháp và có căn cứ nên yêu
cầu khởi kiện của ông D là không có cơ sở. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, người
đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện có cung cấp thêm tờ tường trình và
cam kết của ông Tô Hồng V1, Lê Hoàng K về việc UBND xã giao đất cho ông D.
Nội dung tường trình tuy phản ánh đúng về thời gian sử dụng đất, về nguồn gốc
đất, nhưng việc UBND xã P tự giao đất cho cá nhân không đồng nghĩa với việc
ông D được công nhận quyền sử dụng đất chính thức, vì việc giao đất này chưa
được sự chấp nhận của UBND huyện theo quy định nên đây không phải căn cứ
làm thay đổi bản chất vụ án. Kháng cáo của người khởi kiện không có cơ sở để
chấp nhận. Theo đề nghị của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thống nhất giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Án phí hành chính phúc thẩm người kháng cáo phải chịu do yêu cầu kháng
cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính.

11
Không chấp nhận kháng cáo của ông Thái Văn D.
Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 391/2024/HC-ST ngày 22 tháng
8 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ:
Điều 32, Điều 60, Điều 116, Điểm b Khoản 1 Điều 143, Điều 144, Khoản
1 Điều 157, Điều 158, Điều 193, Điều 206 Luật Tố tụng hành chính 2015;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện ông Thái Văn D về tuyên hủy các quyết
định sau:
- Quyết định số 9959/QĐ-UBND ngày 16/10/2023 về phê duyệt Phương
án bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của ông Thái Văn D để
thực hiện Dự án thành phần 2: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đường Vành đai 3
đoạn qua Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương án số 2327/PABT-HĐBT ngày 16/10/2023 của Hội đồng Bồi
thường Dự án thành phần 2: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đường Vành đai 3
đoạn qua Thành phố Hồ Chí Minh.
Án phí hành chính phúc thẩm ông Thái Văn D phải chịu 300.000 đồng
nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo Biên
lai thu số 0041422 ngày 03 tháng 10 năm 2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành
phố Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao (1);
- VKSND cấp cao tại TP.HCM (1);
- TAND TP.HCM (1);
- VKSND TP.HCM (1);
- Cục THADS TP.HCM (1);
- ĐS (3);
- Lưu VP(3), HS(2).15b.NHT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thụy Vũ
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 168/2025/DS-PT ngày 17/04/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Bản án số 156/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm