Bản án số 168/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 168/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 168/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cần Thơ
Số hiệu: 168/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Văn Đ - Bé H - Tranh chấp quyền sử dụng đât
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ CẦN THƠ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 168/2025/DS-PT
Ngày: 09.4.2025
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Bà Hà Thị Phương Thanh
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Quyến
Ông Võ Bảo Anh
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trí Khương Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân thành phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ: Ông Lâm Thành
Them - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Vào ngày 09 tháng 4 năm 2025, tại trụ sTòa án nhân dân thành phố Cần
Thơ xét xử công khai vụ án thụ số 617/2024/TLPT-DS ngày 30 tháng 12 năm
2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 193/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 45/2025/QĐPT-DS ngày
04 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1961.
Địa chỉ thường trú: Khu V, phường C, quận Ô, thành phố Cần Thơ. Địa chỉ
liên lạc: Số D, đường H, khu V, phường C, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Bé H, sinh năm 1974. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, TP Cần
Thơ. (có mặt)
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bùi Thị T, sinh năm 1959. Địa chỉ thường trú: Khu V, phường C, quận Ô,
thành phố Cần Thơ. Địa chỉ liên lạc: Số D, đường H, khu V, phường C, quận Ô,
thành phố Cần T. (có mặt)
2. Ông Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1982. (có mặt)
3. Bà Nguyễn Thị Thu L, sinh năm 1985. (có mặt)
Cùng địa chỉ: Số D, đường H, khu V, phường C, quận Ô, thành phố Cần Thơ.
2
Đại diện hợp pháp cho T, ông T1 L: Ông Nguyễn Văn Đ. Theo văn bản
ủy quyền ngày 20/10/2023.
4. Bà Ngô Thị Bé N, sinh năm 1974. (có mặt)
5. Bà Nguyễn Thị Trúc L1, sinh năm 2002. (xin xét xử vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, thành phố Cần Thơ.
6. Ông Đào Phước T2, sinh năm 1954. Địa chỉ: Ấp T, T, huyện T, thành phố
Cần Thơ. (vắng mặt)
7. Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1954. Địa chỉ: Số nhà F, khu V, phường
T, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Bé H bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn
ông Đ trình bày nội dung yêu cầu khởi kiện như sau: Ông quyền sử dụng đất
tại thửa 212 diện tích 7.100m
2
, thửa 224 diện tích 4.300m
2
thửa 998 diện tích
2.032,8m
2
đất 2L, tờ bản đồ số 05, toạ lạc tại ấp T, T, huyện T, thành phố Cần
Thơ. Tất cả 3 thửa đất nêu trên đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông Nguyễn Bé H là người sử dụng đất liền kề tại thửa 941 diện tích 3.174,2m
2
thửa 225 diện tích 2.663m
2
đất 2L, tờ bản đồ số 05, toạ lạc tại ấp T, xã T, huyện T,
thành phố Cần Thơ được Ủy ban nhân dân huyện C (cũ) cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận: H01473, 00101 do ông Nguyễn
Văn B đại diện hộ đứng tên. Trong quá trình canh tác sử dụng ông Nguyễn
H đã lấn ranh qua thửa 212, 224 thửa 998 của ông với diện tích 1.600m
2
. Ông
đã nhiều lần yêu cầu ông Nguyễn Bé H trả lại đất nhưng ông H không có thiện chí.
Do đó, ông yêu cầu Nguyễn H có trách nhiệm trả lại phần đất có diện tích theo
đo đạc thực tế 1.109,7m
2
tại vị tA diện tích 456,5m
2
tại vị trí B của bản trích
đo địa chính, loại đất 2L thuộc thửa 998 tờ bản đồ số 05, đất toạ lạc tại ấp T, T,
huyện T, thành phố Cần Thơ.
* Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đ, bị đơn ông H ý
kiến và phản tố như sau: Nguyên trước đây vào năm 2003 ông có mua của ông Đào
Phước T2 ngụ ấp T, T, huyện T, thành phố Cần Thơ phần đất ruộng diện tích
5.200m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 001456, tờ bản đồ số 05, thửa
225 do ông Đào Phước T2 đứng tên. Sau đó, ông T2 đưa giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông sang tách bộ qua ông đứng tên. Đến năm 2007 ông có bán cho
ông Nguyễn Văn Đ ngụ khu V, phường C, quận Ô một phần đất ruộng diện tích
2.020m
2
, do đất của ông Đ giáp ranh với đất ông mua của ông T2. Sau đó, ông
đưa giấy chứng nhận quyền sdụng đất để ông Đ đi sang tên tách bộ một mình
địa chính đến đo đạc và cắm trụ ranh giữa hai bên, ranh nằm ngay cột điện,
phần trụ điện này ông mua của ông Đào Phước T2 và bán lại cho ông Đ, trụ đá
ranh này đã cắm 16 năm nay. Khi ông Đ trả lại ông G chứng nhận quyền sử dụng
đất số AG 644399 số vào sổ: H01473 thửa 941, tờ bản đồ số 05, diện tích
3.174,2m
2
đất trồng lúa do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho hộ ông ngày
3
07/02/2007. Khi bán đất cho ông Đ xong, cũng năm 2007 thì ông mua thêm phần
đất n lại của ông T2 diện tích 2.663m
2
, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
W 21618 số vào sổ 00101, do UBND huyện Ô ký cấp ngày 28/11/2002 tại thửa đất
số 225, tờ bản đsố 05, đất lúa do hộ ông Đào Phước T2 đứng tên đã được
chỉnh qua tên ông Nguyễn H vào ngày 06/6/2007. Ngoài phần đất trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông mua thêm phần đất của ông T2, lúc
này chừa lại khoảng 1.300m
2
01 ơng dài từ đất của ông M đến ranh đất của
Thị H1, mặt mương 3m, phần này do không thể hiện trong giấy chứng
nhận quyền sử đất nên chỉ làm giấy mua bán tay với giá 08 chỉ vàng 24 kara. Sau
đó gia đình ông đã tự lấp mương này thành đất ruộng và sdụng canh tác. Đất của
ông dài 57 tầm, còn lại đất của ông Đ dài 114 tầm, chiều dài đất của ông chỉ
phân nửa chiều dài đất của ông Đ. Ông Đ không phải mua đất của một mình ông
mà mua của nhiều người khác nên gia đình ông Đ kiện đòi ông phải trả 1.600m
2
thì
ông không đồng ý đất giữa ông ông Đ đã xác định ràng, ông cũng đã sử
dụng từ 16 năm nay, không xảy ra tranh chấp gì. Do đó, ông không đồng ý theo
yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Đ. Trong hộ của ông hiện tại 3 thành
viên trên 18 tuổi gồm ông, vợ ông N con Nguyễn Thị Trúc L1. Phần diện
tích 1.300m
2
dư cái ơng thuộc thửa 941, phần đất tranh chấp hiện tại phần
đất tranh chấp đã lên bờ, không xây dựng công trình vật kiến trúc . Trên phần
đất tranh chấp ông trồng các loại cây gồm: Mít Thái: 50 cây loại A, 50 cây loại
C; Dừa: 2 cây loại C; Đu đủ: 02 cây loại A; Na Thái: 50 cây loại A; M1 vàng 50
cây. Ông xác định chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Đ một phần thửa 941
tách ra thành thửa 998 với diện tích 2.032,8m
2
. Đồng thời, ông xác định phần diện
tích chuyển nhượng giấy tay của ông Đào Phước T2 vị trí A diện tích 1.109,7m
2
đang tranh chấp hiện nay và yêu cầu phản tố được hưởng sử dụng phần diện
tích 1.109,7m
2
thuộc thửa 998 tại vị trí A của Bản trích đo địa chính.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan lần lượt có ý kiến:
- Ngô Thị N trình bày: Trước đây đơn yêu cầu độc lập nhưng
nay bà xác định không có yêu cầu độc lập mà giao cho ông Nguyễn Bé H là chồng
của bà yêu cầu giải quyết tranh chấp với ông Đ và đứng tên quyền sử dụng đất.
- Nguyễn Thị Kim C trình bày: là vợ của ông Đào Phước T2, xác
địnhông T2 có chuyển nhượng nhiều thửa đất cho vợ chồng ông Nguyễn
H. Tuy nhiên, không nhớ việc chuyển nhượng cụ thể từng thửa đất. Đối với tờ
thỏa thuận bán đất ngày 19/8/2007 giữa với ông T2 bán cho vợ chồng ông
Nguyễn Bé H thì bà xác định sau khi tính tổng diện tích đo đạc dư của các thửa đất
thì thỏa thuận để lấy vàng thêm của số đất chứ không xác định được thửa
nào, vị trí đâu. Nay cũng không xác định được vị trí đất chuyển nhượng này.
Bà xác định không có yêu cầu độc lập trong vụ án.
- Ông Đào Phước T2 trình bày: Ông và vợ ông Nguyễn Thị Kim C
diện tích đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 7.870 m
2
, tờ bản đồ 05
thửa 255 quyền sử dụng đất số vào sổ: 001456 cấp ngày 20/08/1991 do ông đứng
tên, sau đó vchồng ông chuyển nhượng cho vchồng Nguyễn H 5.200m
2
, số
còn lại trên giấy phải 2.670 m
2
, nhưng giấy chứng nhận chỉ ghi 2.663m
2
mất
4
của ông 07m nên ông tự đo lại đất chuyển nhượng luôn diện tích trên giấy
2.663 m
2
cho vợ chồng Bé Hai sang tên trên giấy, còn diện tích đấtra vợ chồng
ông chuyển nhượng giấy tay cho vợ chồng Bé H là 8 chỉ vàng 24k, chuyển nhượng
đất ranh giới cột mốc ràng, xem như từ khi chuyển nhượng đến nay thì vợ
chồng H canh tác cho đến hiện tại. Nay ông Đ tranh chấp đất đòi vợ chồng ông
H trả lại ranh, việc này ông không nhưng ông khẳng định rằng diện tích đất
ra vợ chồng Bé H đang canh tác là trong thửa đất của vợ chồng ông đã n
giấy tay cho vợ chồng Bé H, thể hiện giấy tay đề ngày 19/08/2007 là đúng.
- Nguyễn Thị Trúc L1 trình bày: Theo bản trích đo địa chính ngày
27/3/2024 diện tích đất tranh chấp 1.109,7m
2
đất của cha, mẹ của sang từ
ông Đào Phước T2 Nguyễn Thị Kim C giấy tờ tay sang trên giấy của ông
T2, tổng diện tích trên giấy 7.870m
2
cha mcủa sang lần đầu tiên 5200m
2
,
trong diện tích đất này cha mcủa sang lại cho ông Nguyên Văn Đ1 một
công rưỡi nhưng ông tđi tách giấy 2.032,8m
2
về đưa giấy cha mẹ của cũng
đồng ý (lẽ ra chỉ 1.950m
2
) diện tích trên giấy n lại là 2.663m
2
, cha mẹ mua
lần hai hết diện tích đất trên giấy, nhưng khi đo lại thì dư đất trên giấy chứng nhận,
chỉ sang trên giấy không chỉnh phần mới sang qua tên, cha mẹ của
nông dân miễn sao xong thì thôi sau này chỉnh lại nên mua tiếp phần đất của
ông T2 và bà C có giấy tay là 08 chỉ vàng 24 kara, diện tích tính theo nông dân là 3
góc 4, khoảng 1.300 m
2
một ơng dài từ đất ông M chạy dài mặt mương
3m đến đất Thị Hoằng . khẳng định đây đất của cha, mcủa bà mua
của ông T2 và bà C, gia đình của bà không hề lấn ranh, vì đất có ranh giới, cột mốc
rõ ràng, gia đình bà sử dụng từ khi mua cho đến nay.
* Vụ việc hòa giải không thành nên được đưa ra xét xử thẩm công khai.
Tại Bản án thẩm số 193/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Thới Lai xét xử và quyết định như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Đ.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Bé H.
3. Buộc ông Nguyễn H trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Văn Đ diện
1.566,2 m
2
đất LUC, thuộc thửa 998, tờ bản đồ số 05, đất tọa lạc tại ấp T, T,
huyện T, thành phố Cần Thơ. Theo vị t A, B của Bản trích đo địa chính số
770/TTKTTNMT ngày 24/9/2024. Vị trí thửa đất được xác định theo Bản trích đo
địa chính số: 770/TTKTTNMT ngày 24/9/2024 Văn phòng đăng đất đai thuộc
Sở tài nguyên và môi trường thành phố C (Đính kèm bản án).
4. Ông Nguyễn Văn Đ được quyền hưởng và sử dụng các cây trồng trên thửa
đất số 998 gồm: Mít Thái: 50 cây loại A, 50 cây loại C; Dừa: 2 cây loại C; Đu đủ:
02 cây loại A; N: 50 cây loại A.
5. Buộc ông Nguyễn Văn Đ trách nhiệm thanh toán giá trị cây trồng trên
đất cho ông Nguyễn H 176.606.000 đồng. Đồng thời ông Nguyễn H
trách nhiệm bảo quản chăm sóc cây trồng ông Đ trách nhiệm thanh toán giá
trị đến khi Cơ quan có thẩm quyền lập biên bản giao tài sản.
5
Đối với số tiền phải thi hành, trường hợp bên nghĩa vụ chậm trả tiền thì
bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; Lãi
suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều
468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
6. Buộc ông Nguyễn H trách nhiệm di dời 50 cây mai vàng khỏi diện
tích tranh chấp tại thửa đất 998.
7. Dành cho ông Nguyễn Bé H một vụ kiện dân sự khác đối với ông Nguyễn
Văn Đ liên quan đến các loại cây trồng chưa thẩm định tại một phần thửa 998.
8. Dành cho ông Nguyễn H Ngô Thị B1 Năm vụ kiện tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng đòi lại tài sản đối với ông Đào Phước T2
Nguyễn Thị Kim C (nếu có).
9. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí thẩm định quyền kháng
cáo của các đương sự.
* Ngày 14/10/2024, bđơn ông Nguyễn Bé H kháng cáo với yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm xét xử bác đơn khởi kiện của ông Đ. Chấp nhận phản tố của ông.
* Tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu và ý kiến.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa phúc thẩm:
- Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Qua tranh tụng tại phiên tòa, đối chiếu các tài liệu có trong hồ
vụ án, xác định, phần đất ông H đang sử dụng thuọc thửa 998 ông Đ
nhận chuyển nhượng của ông H năm 2007, do đó, không căn cứ chấp nhận
kháng cáo của bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Việc vắng mặt người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan L1, ông T2,
bà C, thấy rằng, các ông, bà đã được tống đạt hợp lệ hai lần, quá trình giải quyết v
án đã có lời khai nên tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định Điều 228
Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về yêu cầu của bị đơn đề nghị đo đạc lại: thấy rằng, cấp sơ thẩm đã đo
và xác định phần tranh chấp, phía nguyên đơn xác định đúng phần tranh chấp tại vị
trí A B theo trích đo. Do đó, chỉ cần xem xét giải quyết đất tranh chấp thuộc
thửa nào, không cần thiết phải đo lại.
[2] Về kháng cáo của bị đơn:
[2.1] Qua tranh tụng tại phiên tòa cũng như xem xét các tài liệu chứng cứ
trong hồ đã được thẩm tra tại phiên tòa, sở xác định: nguồn gốc phần đất
tranh chấp vị tA B theo Bản trích đo s770/VPĐKĐĐ ngày 24/9/2024 của
Văn phòng đăng đất đai (gọi Trích đo 770) nguồn gốc từ thửa 225 trước đây
cấp cho ông Đào Phước T2, ông T2 được cấp tại thửa 225 với diện tích 7870m
2
,
6
năm 2002 ông T2 chuyển nhượng một phần đất cho ông B1 Hai diện tích 5207m
2
với thửa mới 941, diện tích còn lại của ông T2 tại thửa 225 2663m
2
, thửa 225
còn lại này vào năm 2007 ông T2 cũng chuyển nhượng cho ông H và cũng
trong năm 2007 ông H lại chuyển nhượng một phần thửa 941 cho ông Đ diện
tích 2032,8m
2
tách thửa mới 998, diện tích còn lại thửa 941 của ông H
3174, 2m
2
, phần ông H chuyển nhượng cho ông Đ là giáp thửa 212 của ông Đ,
theo Trích đo 770 thực tế hiện nay thửa 225 có diện tích 2663m
2
, thửa 941 của ông
Bé H vẫn còn diện tích 3174,2m
2
, là phù hợp và đúng với diện tích trong giấy được
cấp.
[2.2] Về hình thể thửa đất: theo giấy thì thửa 225 của ông T2 giáp thửa 226
(của người khác) thửa 212 (của ông Đ), khi ông T2 chuyển nhượng cho ông
H tcắt một phần thửa 225 cạnh giáp thửa 212 của ông Đ, phần còn lại thửa 225
của ông T2 thì giáp thửa 226, năm 2007 ông B1 Hai lại cắt một phần thửa 225 đã
nhận chuyển nhượng tông T2 (thửa mới 941) chuyển nhượng cho ông Đ cạnh
giáp thửa 212 phù hợp với hình thể hiện nay sử dụng. Phía ông H cho rằng
chuyển nhượng giấy tay là đất từ ông T2, C được cấp thửa 225, nhưng C
không xác định đất vị trí nào cũng không giấy tờ nào chứng minh đất
ông T2 thửa 225 như biên bản đo đạc thực tế quan thẩm quyền xác
nhận, theo giấy thửa 225 của ông T2 được cấp 7870m
2
, khi chuyển nhượng cho
ông B1 Hai năm 2002 diện tích 5207m
2
thì còn lại 2663m
2
đúng diện tích giấy
được cấp. diện tích 5207m
2
ông H được cấp thửa 941, sau khi chuyển
nhượng cho ông Đ 2032,8m
2
(là thửa 998) thì còn lại 3174,2m
2
đúng diện tích,
không có dư đất.
[2.3] Tại biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 15/01/2007
(bút lục 59) khi thực hiện việc tách thửa chuyển nhượng từ ông Bé H cho ông Đ thì
ông H xác nhận ranh giới tách thửa 998, diện tích 2032,8m
2
cho ông Đ phù
hợp với hiện trạng trích đo hiện nay tại phần tranh chấp A B phần không
tranh chấp C. Do đó, căn cứ xác định phần đất tranh chấp thuộc thửa 998 của
ông Đ nhận chuyển nhượng từ ông H m 2007. Vì vậy, kháng cáo của ông Bé
H là không có căn cứ chấp nhận.
[3] Với những nhận định trên nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát
căn cứ, đúng quy định pháp luật. Cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ và chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng nên giữ nguyên.
[4] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá: Giữ nguyên nán
thẩm.
[5] Về án phí:
[5.1] Án phí sơ thẩm: Giữ nguyên như án sơ thẩm.
[5.2] Án phí phúc thẩm: Do bị đơn kháng cáo không được chấp nhận nên
phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
7
*Căn cứ: - Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
*Tuyên xử: - Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Bé H
- Giữ nguyên Bản án dân s thẩm số 193/2024/DS-ST ngày 30
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
- Về án phí phúc thẩm: Bị đơn Hai phải chịu 300.000 đồng, được
trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0004451 ngày 14/10/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Lai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát cùng cấp;
- TAND huyện Thới Lai;
- Các đương sự;
- Chi cục THADS huyện Thới Lai;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Hà Thị Phƣơng Thanh
Tải về
Bản án số 168/2025/DS-PT Bản án số 168/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 168/2025/DS-PT Bản án số 168/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất