Bản án số Bản/2024/HC-PT ngày 21/09/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số Bản/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số Bản/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án Bản/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số Bản/2024/HC-PT ngày 21/09/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | Bản/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Vũ Mộng H; Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số 517/2024/HC-PT
Ngày 21/9/2024
V/v “Khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Việt Hà
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Tiến
Ông Ong Thân Thắng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thị Cẩm Ly, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Bà Phan Diệu Nhân, Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 21 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội,
mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số
270/2024/TLPT-HC ngày 25 tháng 6 năm 2024, về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính và hành vi hành chính”, do có kháng cáo của người khởi kiện đối với
Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2024/HC-ST ngày 19 tháng 4 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 10139/2024/QĐ-PT
ngày 06 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
* Người khởi kiện: Ông Vũ Mộng H, sinh năm 1952; địa chỉ: số nhà D T,
tổ H, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện:
- Luật sư Đinh Thị Mai H1 - Văn phòng L4, Đoàn luật sư thành phố Hà
Nội; có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Luật sư Lê Hữu L và luật sư Phạm Tuấn A, Công ty L5; luật sư L có mặt,
luật sư Tuấn A vắng mặt.
* Người bị kiện: Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang
Địa chỉ: phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Tô Hoàng L1 - Giám đốc; vắng mặt.
2
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Mai Thị Thanh B - Phó Giám đốc; có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cục Người có công Bộ L6.
Địa chỉ: Tầng D Tòa nhà M, số F T, quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đào Ngọc L2 - Cục trưởng; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân L3 - Phó Cục trưởng;
vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án
người khởi kiện ông Vũ Mộng H trình bày:
Ông bị thương từ năm 1974 tại mặt trận T huyện Đ, tỉnh Quảng Nam. Năm
2012, ông làm thủ tục đề nghị được công nhận là thương binh và đến tháng
12/2021 được công nhận là thương binh theo Quyết định số 2979 ngày
31/12/2021 của Tư lệnh quân khu I, được xác định: Tổn thương nhánh thần kinh
hông to bên phải (21%). Trong quá trình bị thương và phục hồi sức khoẻ đến
tháng 7/2008 vết thương tái phát cứng khớp háng phải, hạn chế vận động, teo cơ
dẫn đến hoại tử chỏm xương đùi, thay khớp háng phải (khớp nhân tạo). Ngày
07/6/2022, ông có đơn đề nghị theo mẫu số 33 kèm theo giấy ra viện bản sao
bệnh án đề nghị giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể theo quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 40, khoản 2 Điều 41 Nghị định số 131 ngày 31/12/2021 gửi Sở
Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang và Bộ L6 làm thủ tục giám
định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể.
Ngày 23/8/2022, Sở L có Công văn số 1318 đề nghị Cục Người có công Bộ
L6 khám giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể. Ngày 07/11/2022, Cục Người có
công cho ý kiến trả lời tại Công văn số 1413 có nêu “Trường hợp chuẩn đoán
viêm hoại tử khớp háng dẫn đến phải phẩu thuật thay khớp háng không phải cắt
đoạn chi thì không thuộc diện khám giám định lại thương tật do vết thương đặc
biệt tái phát”. Ông không nhất trí, Cục Người có công căn cứ vào văn bản nào,
quy định nào mà kết luận như vậy. Ông đã hai lần làm đơn khiếu nại về Cục
Người có công và hai lần khiếu nại lên Bộ L6 đều không được trả lời. Cục
Người có công và Bộ L6 vi phạm Nghị định số 124 ngày 19/10/2020 của Thủ
tướng Chính phủ, ông nhiều lần đến Bộ L6 đề nghị gặp Bộ trưởng vào ngày tiếp
công dân nhưng đều không được tiếp; sau khi gặp thanh tra Bộ L6 nhận đơn thì
Cục Người có công trả lời Công văn số 55 ngày 07/3/2023, ông không nhất trí
với nội dung trả lời của công văn này cho rằng Công văn số 1318 ngày
23/8/2022 chỉ là công văn xin ý kiến không phải là công văn đề nghị thẩm định
lại vết thương tái phát, cho đi giám định lại ông đã làm đơn khởi kiện ra toà tại
Toà án tỉnh Tuyên Quang và có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, ông đã tự
nguyện rút đơn để thực hiện theo khoản 3 Công văn số 55. Ngày 12/8/2023, ông
có đơn đề nghị Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang đề nghị
3
thực hiện khoản 3 của Công văn 55 và cung cấp một số chứng cứ khẳng định
việc thay khớp háng chính là cắt cục chỏm xương đùi (cắt đoạn chi) để Sở Lao
động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang làm công văn đề nghị Cục
Người có công cho đi giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể. Ngày 26/8/2023,
ông đã nhận được Công văn số 1348 về việc trả lời nội dung kiến nghị: Tại
khoản 3 của Công văn số 1348 có yêu cầu ông cung cấp bản tóm tắt bệnh án
điều trị vết thương tái phát; phiếu phẫu thuật. Ông đến Bệnh viện H2 nơi ông
điều trị vết thương tái phát tháng 7/2008 đề nghị cung cấp 2 loại giấy tờ trên,
qua trao đổi Giám đốc Bệnh viện cho biết theo Thông tư số 53/2017 tại dòng 20
nhóm I theo quy định thời gian lưu giữ bệnh án thông thường là 10 năm, hồ sơ
của ông hết hạn lưu trữ đã được tiêu huỷ theo quy định.
Ngày 28/8/2023, ông làm đơn đề nghị Sở Lao động Thương binh và Xã hội
tỉnh Tuyên Quang đề nghị cho đi khám giám định lại với 8 loại giấy tờ nhưng
không được chấp nhận và được trả lời bằng Công văn số 1412 ngày 06/9/2023
và trả lại giấy tờ cho ông và yêu cầu ông cung cấp 3 loại giấy tờ: đơn đề nghị
giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể mẫu số 33; bản tóm tắt bệnh án điều trị vết
thương tái phát và phiếu phẫu thuật.
Để làm thủ tục khám giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể theo mục a
khoản 1 Điều 41 Nghị định số 131 ngày 30/12/2021. Về nội dung Công văn số
1412 ông không nhất trí và không thể thực hiện được bởi ông đã điều trị vết
thương tái phát từ tháng 7/2008 đến nay là 15 năm, hồ sơ bệnh án đã bị huỷ theo
quy định tại Thông tư số 53, Bệnh viện H2 không thể cấp 2 loại giấy tờ theo yêu
cầu của Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang.
Nghị định số 131 ngày 30/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực từ
ngày 15/02/2022, do đó tại mục a khoản 1 Điều 41 của Nghị định không có hiệu
lực hồi tố đối với các chứng từ điều trị vết thương tái phát trước ngày
15/02/2022. Ngày 22/9/2023 ông đã làm đơn đề nghị Sở Lao động Thương binh
và Xã hội tỉnh Tuyên Quang kèm theo bệnh án điều trị nội trú vết thương khớp
háng phải tái phát vẫn không được chấp nhận cho đi khám giám định lại và được
trả lời bằng Công văn số 1581 ngày 29/9/2023.
Ông không đồng ý với tất cả các nội dung Công văn trả lời và giải quyết
của Cục Người có công và Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên
Quang nên ông làm đơn đề nghị Toà án buộc Sở Lao động Thương binh và Xã
hội tỉnh Tuyên Quang ra văn bản đề nghị Cục Người có công cho ông đi giám
định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể do vết thương đặc biệt tái phát theo khoản 3
Công văn số 55 và tuyên huỷ các Công văn số 1412 ngày 06/9/2023; Công văn
số 1348 ngày 24/8/2023 và Công văn số 1581 ngày 29/9/2023 của Sở Lao động
Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang.
* Quá trình giải quyết vụ án, người bị kiện Sở Lao động Thương binh và
Xã hội tỉnh Tuyên Quang trình bày:
4
Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang thông tin quá
trình giải quyết đơn đề nghị và cung cấp các tài liệu giải quyết đối với trường
hợp của ông H cụ thể:
Thông tin hồ sơ do Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang
quản lý: Ông H bị thương ngày 15/6/1974 đơn vị khi bị thương C4-D30 - Cục
H3, Đoàn 559. Đã khám giám định thương tật tại Hội đồng giám định y khoa
Quân khu 2 theo biên bản giám định y khoa số 328 ngày 25/12/2021 kết luận tỷ
lệ thương tật 21%. Các vết thương “Tổn thương nhánh thần kinh hông to phải
do vết thương cũ. Hạn chế vận động khớp khuỷu tay phải do vết thương cũ”.
Được hưởng chế độ thương binh theo Quyết định số 2979/QĐ-QK ngày
31/12/2021 của Quân khu B1, Bộ I. Căn cứ phiếu báo di chuyển hồ sơ thương
binh số 32 ngày 10/01/2022 của Cục B1 về việc di chuyển hồ sơ thương binh
của ông H tỷ lệ thương tật là 21% và đề nghị Sở Lao động Thương binh và Xã
hội tỉnh Tuyên Quang tiếp nhận thực hiện chế độ ưu đãi đối với ông H.
Ngày 10/02/2022 Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang
ban hành Quyết định số 67 về việc tiếp nhận hồ sơ và chi trả trợ cấp thương binh
tỷ lệ thương tật 21% đối với ông H từ 01/02/2022.
Ông H 3 lần gửi đơn đến Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên
Quang đề nghị khám giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể:
+ Đơn lần 01 đề ngày 12/8/2023: Ông H gửi các tài liệu sau đến Sở Lao
động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang để có căn cứ và cơ sở khẳng
định trường hợp phẫu thuật thay khớp háng, chính là cắt đoạn chi gồm: P chụp
ngày 10/8/2023 (kèm phiếu chỉ định XQuang); Sổ khám bệnh; Công văn số
1413/NCC-CS1 ngày 07/11/2022 của Cục Người có công, Bộ L6; Công văn số
55/NCC-CS1 ngày 07/3/2023 của Cục Người có công, Bộ L6. Ngày 24/8/2023,
Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang có Văn bản số 1348 về
việc trả lời và hướng dẫn ông H về thủ tục hồ sơ khám giám định lại tỷ lệ tổn
thương cơ thể tiếp tục bổ sung hoàn thiện hồ sơ theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 41 Nghị định 131 của Chính phủ và đề nghị ông H đến phòng một cửa Sở
Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang để nhận lại thủ tục hồ sơ đề
nghị khám giám định tuy nhiên ông H không đến.
+ Đơn lần 02 đề ngày 28/8/2023: Ông H đề nghị Giám đốc Sở Lao động
Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang nhận lại 08 loại giấy tờ ông đã nộp để
làm căn cứ thẩm định vết thương tái phát, giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể
theo nguyện vọng của cá nhân ông, đúng theo quy định của pháp luật. Ngày
06/9/2023 Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang có Văn bản
số 1412 về việc trả lời và hướng dẫn ông H về thủ tục hồ sơ khám giám định lại
tỷ lệ tổn thương, tiếp tục bổ sung hoàn thiện hồ sơ theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 41 Nghị định số 131 và đề nghị ông H đến phòng một cửa nhận lại
hồ sơ, ông H đã nhận lại và không có ý kiến gì thêm.
5
+ Đơn lần 03: Ngày 22/9/2023, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh
Tuyên Quang tiếp tục nhận được đơn đề nghị của ông Vũ Mộng H về việc đề
nghị khám giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể, hồ sơ gồm 05 loại giấy tờ: (1)
Đơn đề nghị giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với thương binh của ông
Vũ Mộng H ngày 06/6/2022 (Mẫu số 33); (2) Giấy ra viện ngày 09/8/2023 của
Bệnh viện Đ (01 bản sao); (3) Bệnh án nội trú y học cổ truyền ngày 09/8/2023
của Bệnh viện Đ (01 bản sao); (4) Giấy ra viện ngày 25/7/2010 của Bệnh viện
H2 (01 bản sao); (5) Bản sao bệnh án ngày 22/9/2011 của Bệnh viện H2 (01 tờ
sao).
Theo quy định của pháp luật, tại điểm a khoản 1 Điều 41 và điểm b khoản 2
Điều 41 Nghị định số 131/2021/NĐ-CP của Chính phủ thì hồ sơ đề nghị khám
giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Vũ Mộng H đã nộp còn thiếu 02
loại giấy tờ gồm: Bản tóm tắt bệnh án điều trị vết thương tái phát của bệnh viện
tuyến huyện hoặc trung tâm y tế hoặc tương đương trở lên (bao gồm cả bệnh
viện Q, công an), nếu đã phẫu thuật phải có thêm phiếu phẫu thuật. Như vậy,
ông nộp chưa đủ thủ tục hồ sơ đề nghị khám giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ
thể để Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang có cơ sở trình Bộ
L6 và Xã hội thẩm định.
Ngày 29/9/2023, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang
đã có Văn bản số 1581/SLĐTBXH-NCC về việc trả lời và hướng dẫn ông Vũ
Mộng H về thủ tục hồ sơ khám giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể, tiếp tục bổ
sung hoàn thiện hồ sơ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 41 Nghị định số
131/2021/NĐ-CP của Chính phủ và đề nghị ông Vũ Mộng H đến phòng một
cửa, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang để nhận lại thủ tục
hồ sơ đề nghị khám giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể, ông Vũ Mộng H đã
nhận đủ các giấy tờ kèm theo đơn đề nghị và không có ý kiến, kiến nghị gì thêm.
Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang đề nghị Tòa án
nhân dân tỉnh Tuyên Quang giải quyết và xét xử vụ án theo quy định.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Cục Người có công Bộ L6 trình bày:
Các nội dung liên quan đến yêu cầu khởi kiện của ông H ngày 07/11/2022,
Cục Người có công có Công văn số 1413 trả lời Sở Lao động Thương binh và
Xã hội tỉnh Tuyên Quang, đây là văn bản trao đổi nghiệp vụ mang tính chất
tham khảo về chuyên môn giữa Cục và Sở, công văn cũng không có tính chất
bắt buộc thực hiện. Căn cứ khoản 1 Điều 11 Luật khiếu nại, Công văn số 1413
của Cục Người có công không thuộc đối tượng bị khiếu nại (hoặc khởi kiện).
Đối với Công văn số 55 ngày 07/3/2023 của Cục Người có công trả lời đơn
ông H nêu rõ điều kiện giám định lại thương tật đối với các vết thương vào tay
hoặc chân theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 40 Nghị định số 131 ngày
30/12/2021 của Chính phủ là bị tái phát dẫn đến phải phẫu thuật “cắt đoạn chi”
6
thì được khám giám định lại. Trong việc áp dụng pháp luật, Cục Người có công
thực hiện đúng các quy định của văn bản, không tuỳ ý suy luận các vấn đề
không thuộc chuyên môn của Cục. Trường hợp Sở Lao động Thương binh và Xã
hội tỉnh Tuyên Quang thấy rằng có căn cứ, cơ sở khoa học để khẳng định trường
hợp phẫu thuật thay khớp háng chính là cắt đoạn chi thì Sở L tỉnh có thẩm quyền
thiết lập hồ sơ theo pháp luật hiện hành. Như vậy, Công văn số 55 ngày
07/3/2023 của Cục Người có công không làm phát sinh, thay đổi bạn chế chấm
dứt quyền lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức cá nhân hoặc có nội dung làm
phát sinh nghĩa vụ ảnh hưởng đến quyền lợi của ông H. Căn cứ khoản 2 Điều 3
Luật Tố tụng hành chính đề nghị Toà án xem xét cân nhắc việc thụ lý đơn của
ông H khởi kiện đến Công văn số 55 của Cục Người có công.
Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau
về việc giải quyết vụ án, nhưng các bên đương sự đối thoại không thành.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2024/HC-ST ngày 19/4/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã quyết định: Căn cứ các Điều 30, Điều 32,
Điều 116, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính;
Điều 40, Điều 41 Nghị định số 131/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính
phủ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Mộng H về việc:
- Buộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội ra văn bản đề nghị Cục Người
có công Bộ L6 Thương binh và Xã hội cho ông H đi giám định lại tỷ lệ tổn
thương cơ thể do vết thương đặc biệt tái phát theo đúng quy định của pháp luật.
- Hủy Công văn số 1412/SLĐ-TB-XH-NCC ngày 06/9/2023 của Sở Lao
động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang.
- Hủy Công văn số 1348/SLĐ-TB-XH-NCC ngày 24/8/2023 của Sở Lao
động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang.
- Hủy Công văn số 1581/SLĐ-TB-XH-NCC ngày 29/9/2023 của Sở Lao
động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 25/4/2024, người khởi kiện ông Vũ Mộng H kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Ông Vũ Mộng H có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
7
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, trình bày:
Ông H bị thương từ năm 1974 tại mặt trận T, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam, hồ sơ
thương binh của ông H thể hiện ông H phải thay khớp háng từ năm 2008, hồ sơ
công nhận ông H là thương binh năm 2021 không đề cập đến việc ông H phải
thay khớp háng mà chỉ công nhận ông H bị tổn thương nhánh thần kinh hông to
bên phải là thiệt thòi cho ông H. Ông H đề nghị được giám định lại thương tật.
Đề nghị Sở Lao động Thương Binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang và Cục Người
có công tạo mọi điều kiện cho ông H được đi giám định lại thương tật để ông H
được áp dụng chế độ chính sách theo quy định của Nhà nước cho ông H đỡ thiệt
thòi. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận kháng
cáo của ông H.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện, trình bày: Trong đơn đề
nghị của ông H thể hiện ông H thay khớp háng năm 2010, việc ông H thay khớp
háng diễn ra sau hơn 10 năm, sau đó ông H đề nghị được đi khám lại do vết
thương tái phát. Chúng tôi tiếp nhận thẩm định hồ sơ thấy ông H không đủ điều
kiện thì đã trả lời ông H là không đủ điều kiện. Về sau này bất cứ khi nào ông H
đủ điều kiện thì chúng tôi sẽ thực hiện ngay.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Căn cứ các Điều 204, 205, 206 Luật tố tụng hành chính, đơn
kháng cáo của người khởi kiện trong hạn luật định, đủ điều kiện xem xét theo
thủ tục phúc thẩm. Quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án ở
giai đoạn phúc thẩm tới thời điểm này thấy rằng Thẩm phán được phân công
nghiên cứu giải quyết vụ án đã chấp hành đúng các quy định của Luật Tố tụng
hành chính. Từ khi thụ lý vụ án ở giai đoạn phúc thẩm tời thời điểm này các
đương sự đã thực hiện đúng quy định Luật Tố tụng hành chính.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố
tụng hành chính, bác kháng cáo của ông Vũ Mộng H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa,
kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của ông Vũ Mộng H nộp trong thời hạn và đúng với
quy định tại Điều 205, Điều 206 Luật Tố tụng hành chính nên hợp lệ, được Hội
đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi
kiện, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết là đúng quy định tại khoản 2
Điều 3, Điều 30, khoản 3, 4 Điều 32, khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
8
[1.3] Về việc vắng mặt của các đương sự: Các đương sự đã được triệu tập
hợp lệ, tại phiên tòa người khởi kiện vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Cục Người có công vắng mặt không
có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 157, Điều 225 Luật Tố tụng hành
chính, xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung:
Xét kháng cáo của ông Vũ Mộng H, Hội đồng xét xử thấy:
[1.3] Xét tính hợp pháp và có căn cứ đối với hành vi của Sở Lao động
Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang và các Văn bản số 1348 ngày
24/8/2023, Văn bản số 1412 ngày 06/9/2023 và Văn bản số 1581 ngày
29/9/2023 của Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang:
Ông Vũ Mộng H đã được Quân khu I chứng nhận thương binh và trợ cấp
hàng tháng theo Quyết định số 2979/QĐ-QK ngày 31/12/2021, theo đó ông H
được hưởng trợ cấp hàng tháng là 1.094.000đồng/tháng, kể từ tháng 02/2022 và
ông H được truy lĩnh là 103.550.000 đồng. Sau khi có chứng nhận thương binh
đối với ông H, ngày 10/02/2022, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh
Tuyên Quang quyết định tiếp nhận hồ sơ và chi trả trợ cấp, phụ cấp cho ông H.
Ngày 07/6/2022, ông H đã nộp cho Sở Lao động Thương binh và Xã hội
tỉnh Tuyên Quang hồ sơ đề nghị giám định lại, bao gồm: Đơn đề nghị giám định
lại tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với thương binh; bản sao Giấy ra viện ngày
25/7/2010 của Bệnh viện H2; bản sao Bệnh án ngày 22/9/2011 của Bệnh viện
H2. Khi nhận đơn và hồ sơ của ông H, cán bộ nghiệp vụ Phòng Người có công,
Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang đã gặp trực tiếp ông H
tại phòng một cửa và đề nghị ông H bổ sung thêm Bản tóm tắt bệnh án điều trị
vết thương tái phát, Phiếu phẫu thuật của bệnh viện H2 theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 41 Nghị định số 131/2021/NĐ-CP của Chính phủ. Ông H không
cung cấp tài liệu theo đề nghị. Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên
Quang đã tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn là Cục người có công Bộ
L6 và đã trả lời ông Vũ Mộng H tại Văn bản số 1947/SLĐTBXH-NCC ngày
09/12/2022 kèm Văn bản số 1413/NCC-CS1 ngày 07/11/2022 của Cục Người
có công Bộ L6.
Không đồng ý với văn bản trả lời của Sở Lao động Thương binh và Xã hội
tỉnh T, ông Vũ Mộng H tiếp tục có đơn đề nghị vào các ngày 12/8/2023,
28/8/2023, 22/9/2023 về việc đề nghị khám giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ
thể. Ông H cung cấp hồ sơ gồm 05 loại giấy tờ: Đơn đề nghị giám định lại tỷ lệ
tổn thương cơ thể đối với thương binh của ông H ngày 06/6/202 theo mẫu số 33,
Giấy ra viện ngày 09/8/2023 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang, Bệnh án
nội trú y học cổ truyền ngày 09/8/2023 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên
Quang, Giấy ra viện ngày 25/7/2010 của Bệnh viện H2, bản sao Bệnh án ngày
22/9/2011 của Bệnh viện H2.
9
Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang khi nghiên cứu hồ
sơ do ông H cung cấp, nhận thấy hồ sơ còn thiếu Bản tóm tắt bệnh án điều trị vết
thương tái phát của bệnh viện tuyến huyện hoặc trung tâm y tế hoặc tương
đương trở lên (bao gồm cả bệnh viện Q, công an), nếu đã phẫu thuật phải có
thêm Phiếu phẫu thuật theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 40 Nghị định số
131/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành pháp lệnh ưu đãi người
có công với cách mạng, do đó chưa đủ điều kiện để giám định lại. Ông H chỉ
cung cấp được bản sao Bệnh án bệnh viện H2 là chưa đúng theo quy định, ngoài
ra ông H chưa cung cấp được Phiếu phẫu thuật như nội dung trình bày trong đơn
đề nghị của ông năm 2008 chứng minh việc ông bị liệt toàn bộ chân phải phải
tiến hành phẫu thuật thay khớp háng tại Bệnh viện H2 do khô cứng khớp dẫn
đến hoại tử háng do tổn thương nhánh thần kinh hông bên phải. Vì vậy, ông H
không tài liệu chứng minh đã phẫu thuật thay khớp háng chính là cắt đoạn chi.
Do đó, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang chưa có cơ sở để
xem xét đề nghị khám giám định vết thương tái phát đối với ông H là đúng quy định.
Việc Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang đã trả lời đơn
đề nghị của ông H tại các Công văn số 1348 ngày 24/8/2023, số 1412 ngày
06/9/2023 và số 1581 ngày 29/9/2023, với nội dung: Ông H chưa nộp đủ thủ tục
hồ sơ đề nghị khám giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể để Sở Lao động
Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang có cơ sở trình Bộ L6 và Xã hội thẩm
định và đề nghị ông H hoàn thiện, bổ sung hồ sơ theo đúng quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 41 Nghị định số 131 ngày 30/12/2021 của Chính phủ là đúng quy
định của pháp luật.
Do đó, ông Vũ Mộng H đề nghị Tòa án buộc Sở Lao động Thương binh và
Xã hội tỉnh Tuyên Quang ra văn bản đề nghị Cục Người có công Bộ L6 Thương
binh và Xã hội cho đi khám giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể và đề nghị hủy
các Công văn số 1348 ngày 24/8/2023, số 1412 ngày 06/9/2023 và Công văn số
1581 ngày 29/9/2023 của Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên
Quang là không có căn cứ.
[2.2] Xét tính hợp pháp và có căn cứ của các Văn bản có liên quan:
Đối với Công văn số 1413/NCC-CS1 ngày 07/11/2022 của Cục người có
công gửi Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Tuyên Quang và Công văn
số 55/NCC-CS1 ngày 07/3/2023 của Cục người có công Bộ L6. Tòa án xác định
đây là các văn bản có tích chất nội bộ, không phải quyết định hành chính nên đã
không xem xét là có căn cứ pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận
các yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của ông Vũ Mộng H và ý kiến của
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông H;
10
[2.3] Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[3] Về án phí: Ông Vũ Mộng H là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí
nên được miễn án phí hành chính phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Vũ Mộng H;
Giữ nguyên Bản án án hành chính sơ thẩm số 06/2024/HC-ST ngày 19
tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
2. Về án phí: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho ông Vũ Mộng H.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Tuyên Quang;
- VKSND tỉnh Tuyên Quang;
- Cục THADS tỉnh Tuyên Quang;
- Các đương sự (theo đ/c);
- Lưu HS; HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Việt Hà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 60/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Bản án số 53/2025/DS-PT ngày 12/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm