Bản án số 120/2025/HC-PT ngày 11/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 120/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 120/2025/HC-PT ngày 11/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 120/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/02/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Lê Văn H và bác kháng cáo của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk ; giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 192/2024/HC-ST ngày 23/9/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 120/2025/HC-PT
Ngày: 11/02/2025.
V/v khiếu kiện quyết định xử phạt
vi phạm hành chính hành vi
hành chính trong lĩnh vực quản
đất đai.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phn Hi đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa:
Các Thm phán:
bà Trn Th Kim Liên
ông Lê T
ông Trần Đức Kiên
- Thư ký phiên tòa: ông Trn Xuân Lc, Thư ký Tòa án nhân dân cp cao
tại Đà Nẵng.
- Đại din Vin Kim sát nhân n cp cao tại Đà Nng tham gia phiên
tòa: ông Phm Tn Ánh - Kim sát viên.
Ngày 11 tháng 02 năm 2025, tại điểm cầu trung m trụ sở Toà án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng điểm cầu thành phần trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk. Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên toà trực tuyến xét xử phúc
thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 420/TLPT-HC ngày 13 tháng 11 năm
2024 vviệc “Khiếu kiện quyết định xphạt vi phạm hành chính hành vi
hành chính trong lĩnh vực quảnđất đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số 192/2024/HC-ST ngày 23/9/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 343/2025/QĐ-PT ngày
20 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: ông Văn H
Địa chỉ: thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: ông Võ Đình S; địa chỉ:
số A đường S, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (văn bản y quyền ngày
24/4/2024). Có mặt.
2. Người bị kiện:
2
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk ;
Người đại diện theoy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk
: ông Nguyễn Thiên V; chức vụ: Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk (văn bản
ủy quyền số 5353/QUQ-UBND ngày 18/6/2024). đơn đnghị xét xvắng
mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk
: ông Minh Đ, Phó Giám đốc Sở T và ông Hồ Đức V1, chuyên viên Phòng
Quảnđất đai - Sở T. Vắng mặt.
- y ban nhân dânE, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của y ban nhân dân xã E: ông Đinh Hữu Q;
chức vụ: Phó Chủ tịch UBND E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (văn bản ủy quyền
số 02/UQ-UBND ngày 10/6/2024). Vắng mặt.
4. Người kháng cáo: người khởi kiện ông Văn H người bị kiện Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk .
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền của
người khởi kiện trình bày:
Về nguồn gốc sdụng đất: thửa đất số 42, 59, tờ bản đồ s84, diện tích
12.628,9m
2
thuộc thôn E, E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk nguồn gốc do Nhà
nước giao cho Liên hiệp m nông ng nghiệp Ea Súp thuộc tiểu khu B do Lâm
trường Rừng xanh quản sdụng trước năm 1993. Năm 1993, Ủy ban nhân
dân tỉnh Đắk Lắk cho phép Liên hiệp Lâm nông ng nghiệp Ea Súp khai hoang,
phục hóa một số diện tích đất rừng nghèo trên vùng đất thung lũng trống không
khả năng khai thác rừng sản xuất đchuyển đổi sang đất trồng cây lương thực
(chủ yếu là trồng lúa).
Ngày 12/3/1994, Liên hiệp Lâm nông công nghiệp E (bên A) ký Hợp đồng
liên kết sản xuất nông sản với ông Nguyễn Văn S1 (bên B) - ông S1 đại diện cho
nhóm hộ dân liên kết sản xuất trồng lúa, c này người phtrách lực lượng lao
động tại chỗ là ông Phan Văn H1 (hiện nay cả ông S1 ông H1 đều đã chết).
Các bên Hợp đồng liên kết sản xuất nông sản số 258 ngày 12/3/1994 để
liên kết sản xuất nông sản. Từ thời điểm năm 1994 đến nay các hộ dân vẫn sử
dụng đất đtrồng a trong đó hgia đình ông Văn N (là bố của ông
Văn H), c hộ dân sdụng đất n định, liên tục lâu i từ năm 1994 đến
khoảng năm 2006 - 2007 thì ông N giao lại cho ông H tiếp tục sử dụng đến nay.
Ngày 10/4/2024, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định x
phạt vi phạm hành chính số 1114/QĐ-UBND để xphạt với ông Văn H về
hình vi: chiếm đất ng nghiệp đất trồng lúa tại khu vực nông thôn với diện
tích 12.628,9m
2
đất, tại thửa đất số 42, 59, tờ bản đsố 84 thuộc khu vực thôn
E, E, huyện E. Hình thức xử phạt chính: phạt tiền 105.000.000đồng. Biện
pháp khắc phục hậu quphải thực hiện: buộc ông Văn H khôi phục lại nh
3
trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm và buộc trả lại đất đã lấn chiếm cho
UBND xã E, huyện E để quản lý theo quy định và buộc ông Văn H phải nộp
lại số lợi bất hợp pháp được do thực hiện hành vi vi phạm, với số tiền
10.584.029đồng. Xét thấy, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1114/QĐ-
UBND ngày 10/4/2024 là vi phạm quy định của pháp luật, bởi lẽ:
Thứ nhất: ông Văn H không hành vi lấn chiếm đất, ông H sdụng
đất theo hợp đồng vào năm 1993 nên đã khai hoang rừng nghèo để trồng a. Tại
thời điểm ông S1, ông H1 đại diện các hdân hợp đồng liên kết với Liên hiệp
Lâm ng công nghiệp E, sau đó ông H sdụng đất đtrồng lúa thì Ủy ban nhân
dân huyện E Ủy ban nhân dân xã E đều biết rõ nguồn gốc đất và có xác nhận
điều kiện sản xuất của nhóm hộ gia đình liên kết sản xuất. Cho n vào năm
1994, diện ch đất tại Tiểu khu B (trong đó thửa đất số 42, 59, tbản đồ số
84 hiện nay) đã được các quan chức năng thẩm quyền cho phép khai hoang
chuyển mục đích sử dụng từ đất lâm nghiệp sang đất trồng lúa chứ không
phải đất chưa sử dụng.
Thứ hai: thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đã hết vì theo quy định của
pháp luật tthời hiệu xử phạt vi phạm nh chính là 02 năm ktngày phát
hiện hành vi vi phạm về đất đai. Tuy nhiên, khi ông Lê Văn N (cha của ông
Văn H) sdụng đất thì chính quyền địa phương đã biết nhưng không ý kiến
gì.
Thứ ba: vào thời điểm năm 1997, Nhà nước đã tiến hành đo đạc để lập
bản đồ giải thửa và bản đồ địa chính đối với một số hộ dân tại khu vực tiểu khu
B , sau đó đến năm 1998 t một số hộ dân đã được lập bản đồ giải thửa, bản
đồ địa chính được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại thời điểm này
ông Văn H chưa được lập bản đồ giải thửa nên chưa được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Năm 2001, một số hộ dân được lập bản đồ giải thửa
tiếp tục được cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất (hộ ông Hoàng Văn B,
Hoàng Văn S2…). Do đó, tnăm 2001 đến năm 2005, Nhà nước đã chủ
trương, kế hoạch giao đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia
đình, cá nhân người trực tiếp sản xuất nông nghiệp trong khu vực 59 ha thuộc
tiểu khu B cũ này.
Ngoài ra, ông H đã nhiều lần liên hệ với Ủy ban nhân dân xã E để tiến hành
đăng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 42, 59, tờ bản đồ số 84. Tuy nhiên,
Ủy ban nhân dân K thực hiện việc lập hồ cấp đất theo quy định của pháp
luật. Do đó, ông Văn H khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết:
- Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1114/QĐ-UBND ngày
10/4/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk .
- Buộc Ủy ban nhân dân E thực hiện việc lập thủ tục kê khai, đăng ký
đất đai đỦy ban nhân dân huyện E cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất
cho hộ gia đình ông Văn H theo quy định.
4
* Người đại diện theo uquyền của nời bkiện Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh Đắk Lắk là ông Nguyễn Thiên V trìnhy:
1. Nguồn gốc và diễn biến quá trình sử dụng đất:
Diệnch 5.015 ha đất tại các Tiểu khu: 195, 203, 204, 219, 220, 221, 229,
230, 233, 234 có nguồn gốc do Uỷ ban nhân dân tỉnh thu hồi của Lâm trường
Rừng Xanh giao cho y ban nhân dân huyện E quản tại Quyết định số
2871/QĐ-UB ngày 30/10/2002, trong đó có: Tiểu khu 195 (708ha) 203
(225,5ha) thuộc địa giới hành chính E. Ngày 15/01/2003, Ủy ban nhân dân
huyện E đã bàn giao lại toàn bộ diện tích đất 935,5 ha đất tại Tiểu khu A và Tiểu
khu B cho Ủy ban nhân dân E quản (trong đó phần diện tích đất hiện
nay ông Văn H đang chiếm sdụng). Diện tích 12.628,9m² đất ông Văn
H đang chiếm sử dụng thuộc tiểu khu B, xã E, huyện E thuộc một phần diện tích
đất đã được Ủy ban nhân dân huyện E giao cho Ủy ban nhân dân xã E quản lý.
2. Việc xử lý vi phạm hành chính đối với ông Lê Văn H:
Ngày 12/3/2024, Ủy ban nhân dân E, huyện E tiến hành kiểm tra hiện
trạng và lập Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC đối với ông Văn
H về hành vi chiếm đất nông nghiệp là đất trồng lúa tại khu vực nông thôn, với
diện tích 12.628,9m² đất, tại các thửa đất số 42, 59, tờ bản đồ số 84 thuộc khu
vực thôn E, xã E, huyện E, vi phạm quy định tại điểm e khoản 3 Điều 14 Ngh
định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ quy định về xphạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Ngày 13/3/2024, Ủy ban nhân dân E Công văn số 44/UBND-ĐC về
việc chuyển hồ vi phạm hành chính đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Sở
T để xử lý theo thẩm quyền.
Xét đề nghị của Ủy ban nhân dân xã E tại Công văn số 44/UBND-ĐC ngày
13/3/2024 ý kiến của Sở T tại ng văn số 1135/STNMT-TTra ngày
10/4/2024; căn cứ quy định tại Điều 57, Điều 68, Điều 70, Điều 87 của Luật X
lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định s1114/QĐ-XPHC ngày 10/4/2024 v
việc xphạt vi phạm nh chính đối với ông Văn H, với các nh thức xử
phạt như sau:
- Hình thức xphạt chính: phạt tiền 105 triệu đồng (áp dụng mức trung
bình của khung tiền phạt).
- Biện pháp khắc phục hậu quả: buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của
đất trước khi vi phạm buộc trả lại đất đã chiếm cho Ủy ban nhân dân E,
huyện E để quản lý; đồng thời, buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực
hiện hành vi vi phạm, với số tiền 10.584.029đồng.
Việc Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 1114/QĐ-
XPHC ngày 10/4/2024 về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Văn
H là đúng theo quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Toà án bác đơn khởi kiện
5
của ông Văn H ginguyên Quyết định số 1114/-XPHC ngày 10/4/2024
về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Lê Văn H.
* Người đại diện theo uquyền của người bkiện Ủy ban nhân dân xã E
trình bày:
Về nguồn gốc đất đối với diện tích đất mà ông Văn H hành vi chiếm
đất nông nghiệp là đất trồng lúa tại khu vực nông thôn như sau:
- Ngày 30/10/2002, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Quyết định
số 2871/QĐ-UB Vviệc thu hồi quyền sử dụng đất 5.015 ha đất của m trường
Rừng Xanh giao cho Ủy ban nhân dân huyện E quản tại các Tiểu khu: 195,
203, 204, 219, 220, 221, 229, 230, 233, 234, trong đó Tiểu khu A (708ha) và
203 (225,5ha) thuộc địa giới hành chính E.
- Ngày 15/01/2003, Ủy ban nhân dân huyện E đã bàn giao lại toàn bộ diện
tích đất 935,5 ha tại Tiểu khu A Tiểu khu B cho Ủy ban nhân dân xã E quản
lý, sử dụng. Toàn bộ diện tích đất ông Văn H hành vi chiếm đấtng
nghiệp là đất trồng lúa tại khu vực nông thôn thuộc vào Tiểu khu B, đất do Ủy
ban nhân dân E quản lý.
Qua kiểm tra đối chiếu hồ sơ địa chính (tờ bản đồ giải thửa số 04, sổ Mục
, sổ Địa chính) đã được thành lập năm 1997-1998 thì toàn bộ diện tích đất mà
ông Văn H hành vi chiếm đất tại các thửa đất số 42, 59, tờ bản đđịa chính
số 84 hiện nay thuộc tbản đồ s04, xã E được đo đạc m 1998. Người sử
dụng đất đã được thể hiện trong sổ Mục kê, sổ Địa chính là Ủy ban nhân dân
E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Khi lập Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB–VPHC đối với ông Lê Văn
H về hành vi lấn chiếm đất ng nghiệp đất trồng a tại khu vực nông thôn
với diện tích 12.628,9m
2
, Ủy ban nhân dân C vào kết quả đo đạc hiện trạng
do chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai huyện E đo đạc với tổng diện tích
12.628,9m
2
tại các thửa 42, 59, tờ bản đồ số 84.
- Đối với nội dung: buộc y ban nhân dân xã E thực hiện đầy đủ thủ tục kê
khai, đăng về đất đai để UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng
đất cho ông Văn H: căn cquy định tại Điều 95, Điều 99, Điều 100, Điều
101, Điều 102 của Luật Đất đai năm 2013 thì người sử dụng đất đầy đcác
điều kiện theo quy định của pháp luật hiện hành thì được cơ quan thẩm quyền
xem xét, cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất theo quy định của pháp luật.
Qua kiểm tra hồ sơ địa chính tại xã E: ông Lê Văn N (bố ông Lê Văn H), sau đó
ông Văn H không hồ khai đăng đất đai thửa đất s42, 59 tờ
bản đồ số 84. Tại sổ mục kê, sổ địa chính thì người sử dụng đất Ủy ban nhân
dân E.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 192/2024/HC-ST ngày 23/9/2024 của
Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 3 Điều 32; khoản 2 Điều 157; Điều 158;
Điều 164; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng Hành chính; điểm
6
c khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Luật Xử vi phạm hành chính; Nghị định số
91/2019/-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ về xphạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai ược sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 04/2022/NĐ-CP
ngày 06/01/2022); khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Văn H về việc: hủy
một phần Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1114/QĐ-UBND ngày
10/4/2024 của Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk đối với hình thức xphạt chính:
phạt tiền 105.000.000đồng.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H về việc:
- Hủy một phần Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1114/-
UBND ngày 10/4/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk về biện
pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi
vi phạm buộc trả lại đất đã chiếm cho Ủy ban nhân dân xã E, huyện E để quản
lý; đồng thời buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp được do thực hiện hành vi vi
phạm, với số tiền 10.584.029đồng.
- Buộc Ủy ban nhân dân E thực hiện việc lập thủ tục kê khai, đăng ký
đất đai đỦy ban nhân dân huyện E cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất
cho hộ gia đình ông Văn H theo quy định.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định ván phí thông báo quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 04/10/2024, người khởi kiện ông Lê Văn H kháng cáo một phần bản
án sơ thẩm với nội dung: yêu cầu Toà án huỷ một phần Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính về biện pháp khắc phục hậu qubuộc Ủy ban nhân dân xã
E thực hiện việc lập thủ tục kê khai, đăng ký đất đai để UBND huyện E cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông.
Ngày 16/10/2024, người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk
kháng cáo một phần bản án sơ thẩm. Không đồng ý việc tuyên humột phần
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1114/QĐ-XPHC ngày 10/4/2024 của
Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk đối với nh thức xử phạt chính: phạt tiền
105.000.000đồng. Đề nghị Toà án giữ nguyên Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện
ông Võ Đình S giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, về phần
thủ tục tố tụng giai đoạn phúc thẩm đảm bảo đúng quy định pháp luật. Đề nghị
Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện ông Lê Văn H và bác kháng
cáo của người bkiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk , giữ nguyên quyết
định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
7
Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết
quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền
của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk ông Nguyễn Thiên
V đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người bị kiện y ban nhân dân E, người
bảo vquyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh Đắk Lắk đều vắng mặt. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 4 Điều 225 của Luật Tố tụng Hành
chính tiến hành xét xử vắng mặt họ. Hội đồng xét xử căn cứ o khoản 4 Điều
225 của Luật Tố tụng Hành chính, quyết định tiến hành phiên toà phúc thẩm xét
xử vắng mặt họ.
[2] Xét nội dung kháng cáo của người khởi kiện ông Lê Văn H người bị
kiện Chủ tịch Uỷ ban nhân tỉnh Đắk Lắk, Hội đồng xét xử thấy:
[2.1] Ngày 12/3/1994, giữa ông Nguyễn Văn S1 (là người đại diện cho
nhóm hộ dân liên kết sản xuất nông sản) và Liên hiệp Lâm nông công nghiệp E
Hợp đồng liên kết sản xuất nông sản (trồng a) số 258/KH với diện tích
700ha thuộc các khu vực: Lâm trường Rừng Xanh gồm: 500ha, Lâm trường E
gồm: 100ha, Lâm trường EaHMơ gồm 100ha trên vùng đất thungng trồng
khả năng sản xuất. Ông Văn N (là cha của ông Văn H) được phân chia đất
thuộc Tiểu khu B, xã E do Lâm trường R quản lý để trồnga. Đến năm 2006 -
2007, ông N giao lại cho ông H tiếp tục sử dụng. Ngày 30/10/2002, Ủy ban nhân
dân tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Quyết định số 2871/QĐ-UB về việc thu hồi quyền
sử dụng đất 5.015ha đất của Lâm trường Rừng Xanh (thuộc Liên hiệp Lâm nông
công nghiệp E) giao cho y ban nhân dân huyện E quản tại các Tiểu khu: 195,
203, 204, 219, 220, 221, 229, 230, 233, 234, trong đó Tiểu khu A (708ha) và
Tiểu khu B (225,5ha) thuộc địa giới hành chính E. Ngày 15/01/2003, Ủy ban
nhân dân huyện E đã bàn giao lại toàn bộ diện ch đất 935,5ha tại Tiểu khu A
Tiểu khu B cho Ủy ban nhân dân xã E quản , sdụng. Như vậy, diện ch
đất mà ông Nguyễn Văn S1 Hợp đồng liên kết với Liên hiệp Lâm nông công
nghiệp E (trong đó phần diện tích ông Lê Văn H sdụng) đã bthu hồi vào
năm 2002 và hiện do Ủy ban nhân dân xã E quản lý. Việc ông Văn H tự ý sử
dụng diện ch 12.628,9m
2
đất trồng lúa tại khu vực nông thôn thuộc các thửa
đất số 42, 59, tờ bản đồ s84, thôn E, xã E (trước đây là Tiểu khu B) khi chưa
được Ủy ban nhân dân E cho phép hành vi chiếm đất nông nghiệp đất
trồng a, quy định tại điểm e khoản 3 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP
ngày 19/11/2019 của Chính phủ. Do đó, Ủy ban nhân dân E lập Biên bản vi
phạm hành chính chuyển hồ đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk
để ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ, đúng trình tự,
thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
[2.2] Xét thời hiệu ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính s
1114/QĐ-XPHC ngày 10/4/2024 của Chtịch y ban nhân n tỉnh Đắk Lắk
thì thấy: tại Biên bản làm việc ngày 11/3/2024 Biên bản vi phạm hành chính
8
số 11/BB-VPHC ngày 12/3/2024 đều xác định thời điểm ông Văn H chiếm
đất là năm 2008. Nvậy, tnăm 2008 Ủy ban nhân dân E đã phát hiện ra
hành vi lấn chiếm đất của ông Văn H nhưng không lập biên bản vi phạm hành
chính đến ngày 12/3/2024 Ủy ban nhân dân E mới lập Biên bản vi phạm
hành chính về hành vi chiếm đất của ông H đến ngày 10/4/2024, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định xphạt vi phạm hành chính
số 1114/QĐ-XPHC đối với ông H là đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 6; khoản 1, điểm b, khoản 2 Điều 4
Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ và vi phạm điểm
c khoản 1 Điều 65 của Luật X vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, b
sung năm 2020. Việc Ủy ban nhân dân xã E cho rằng thời điểm phát hiện vi
phạm ngày 11/3/2024, không đúng. Do đó, nội dung kháng cáo này của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk không có cơ sở chấp nhận.
[2.3] Về biện pháp khắc phục hậu quả: mặc dù thời hiệu xử phạt vi phạm
hành chính đã hết nhưng người có thẩm quyền vẫn phải áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quđối với hành vi vi phạm hành chính đúng quy định tại khoản 2
Điều 65 của Luật Xử vi phạm hành chính. Việc Chủ tịch y ban nhân n
tỉnh Đắk Lắk buộc ông Lê Văn H khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước
khi vi phạm buộc trlại diện tích đất đã chiếm cho Ủy ban nhân dân xã E
quản lý theo quy định là đúng quy định của pháp luật. Mặc dù Biên bản m việc
ngày 11/3/2024 Biên bản vi phạm hành chính ngày 12/3/2024 xác định thời
điểm ông H chiếm đất m 2008. Tuy nhiên, Nghị định s91/2019/NĐ-CP
của Chính phủ hiệu lực pháp luật ktừ ngày 05/01/2020 n việc Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk xác định số năm vi phạm được tính tngày
05/01/2020 đến ngày phát hiện vi phạm là ngày 11/3/2024, là đúng với quy định
tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ược sửa đổi, bsung tại
khoản 2 Điều 1 Nghị định số 04/2022/NĐ-CP). Như vậy, việc Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh Đắk Lắk áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như đã nêu trên,
đồng thời buộc ông H nộp lại số tiền thu lợi bất hợp pháp 10.584.029đồng phù
hợp quy định tại Điều 28 của Luật Xử vi phạm hành chính; c điểm a, b, d
khoản 3 Điều 5 Nghđịnh số 91/2019/NĐ-CP của Chính phủ n Hội đồng xét
xử không chấp nhận nội dung kháng cáo này của ông H.
[2.4] Đối với nội dung kháng cáo của ông Văn H về việc buộc Ủy ban
nhân dân xã E thực hiện việc lập thủ tục khai, đăng ký đất đai để Ủy ban nhân
dân huyện E cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho hgia đình ông theo
quy định, Hội đồng xét xử thấy: ông H cho rằng đã nộp hồ tại Ủy ban nhân
dânE để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng Ủy ban
nhân dân E không tiếp nhậnkhông xem xét, giải quyết cho ông, tuy nhiên,
ông H không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh là đã nộp hồ sơ. Mặt
khác, tại công văn số 147/UBND-ĐC ngày 07/8/2024 của Ủy ban nhân dân
E c định: y ban nhân dân E không nhận được hồ khai đăng các
thửa đất s42, 59, tbản đồ số 84 của ông Lê Văn N cũng như ông Văn H.
9
Do đó, Hội đồng xét xử không căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo này
của ông H.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xxét thấy Toà án cấp thẩm
xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H về việc yêu cầu Toà án huỷ một phần
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1114/QĐ-XPHC ngày 10/4/2024 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với nh thức xử phạt chính: phạt
tiền 105.000.000đồng, đồng thời xc yêu cầu khởi kiện của ông H đối với
yêu cầu huỷ một phần Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1114 nêu trên
về biện pháp khắc phục hậu quvà yêu cầu buộc y ban nhân dân E thực
hiện việc lập thtục kê khai, đăng đất đai đy ban nhân dân huyện E cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông theo quy định, là đúng
quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử bác kháng cáo của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk bác kháng cáo của ông Lê Văn H như đề nghị
của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giữ nguyên quyết
định của bản án sơ thẩm.
[4] Do nội dung kháng cáo của ông Lê Văn H Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh Đắk Lắk không được chấp nhận nên ông Văn H Chủ tịch y ban
nhân dân tỉnh Đắk Lắk phải nộp tiền án phí hành chính phúc thẩm theo quy định
tại khoản 1 Điều 34 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vQuốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp,
quản và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[5] Quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị nên không xét.
các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính,
Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Văn H và c kháng cáo của
người bkiện Chủ tịch y ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk ; giữ nguyên quyết định
của Bản án hành chính sơ thẩm số 192/2024/HC-ST ngày 23/9/2024 của Toà án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
Áp dụng Điều 28, điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Luật X vi phạm
hành chính; Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai (được sửa đổi, bổ sung theo
Nghđịnh số 04/2022/-CP ngày 06/01/2022); khoản 1 Điều 34 Nghquyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn H về việc yêu cầu Toà án
giải quyết: hủy một phần Quyết định xphạt vi phạm hành chính số 1114/-
UBND ngày 10/4/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk vphần
10
hình thức xử phạt chính: phạt tiền 105.000.000đồng (một trăm lẻ năm triệu
đồng).
2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lê n H về việc yêu cầu Toà án giải
quyết:
- Hủy một phần Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1114/QĐ-
UBND ngày 10/4/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk vphần
biện pháp khắc phục hậu quả: buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước
khi vi phạm, buộc trả lại đất đã chiếm cho Ủy ban nhân dân E, huyện E để
quản lý và buộc ông Lê Văn H nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện
hành vi vi phạm số tiền 10.584.029đồng (mười triệu năm trăm tám mươi bốn
ngàn không trăm hai mươi chín đồng).
- Buộc Ủy ban nhân dân E thực hiện việc lập thủ tục kê khai, đăng ký
đất đai đỦy ban nhân dân huyện E cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất
cho hộ gia đình ông Văn H theo quy định.
3. Về án phí: ông Lê Văn H Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk -
mỗi người phải chịu 300.000đồng án phí hành chính phúc thẩm, được khấu trừ
tại các Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0014099 ngày
14/10/2024 (do ông Võ Đình S nộp thay) và s0014156 ngày 25/10/2024 (do
Nguyễn Thị Hoàng Y nộp thay) của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đăk Lăk.
4. Quyết định khác còn lại của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
* Nơi nhận:
- Toà án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- Cục THADS tỉnh Đắk Lắk;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Trần Thị Kim Liên
Tải về
Bản án số 120/2025/HC-PT Bản án số 120/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 120/2025/HC-PT Bản án số 120/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất