Bản án số 555/2024/DS-PT ngày 22/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 555/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 555/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 555/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 555/2024/DS-PT ngày 22/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 555/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Mạnh T. Hủy Bản án án dân sự sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 555/2024/DS-PT
Ngày: 22/10/2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Việt Hà;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Vũ Đông;
Ông Nguyễn Mạnh Tiến.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Hà Trang, Thư ký viên Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thanh Phương - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 22 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
xét xử công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 365/2024/TLPT-DS ngày 26
tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”, do có kháng cáo của nguyên đơn đối với Bản án dân sự sơ thẩm số
27/2024/DS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 10695/2024/QĐ-PT ngày
13 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn:
- Ông Lê Mạnh T, sinh năm 1966; vắng mặt
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968; vắng mặt
Cùng địa chỉ: Số B đường P, TDP T, phường V, thị xã S, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Lê Thị Minh A, sinh năm
1959; địa chỉ: Số A L, phường L, thị xã S, thành phố Hà Nội; có mặt.
* Bị đơn:
- Ông Phạm Đình D, sinh năm 1957; có mặt
- Bà Lê Thị Ánh T1, sinh năm 1961; vắng mặt
Người đại diện theo ủy quyền của bà T1: ông Phạm Đình D, sinh năm 1957;
Cùng địa chỉ: Tổ A phường X, thị xã S, TP Hà Nội ; có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Đức M – Chi cục trưởng
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Văn Hồng Y – Chức vụ: Phó Chi cục
trưởng; có mặt
Địa chỉ: Đường La Thành, phường Phú Thịnh, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà
Nội
2. Ủy ban nhân dân thị xã S, thành phố Hà Nội, vắng mặt.
Đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Đình N – Chủ tịch UBND thị xã
Địa chỉ: Số A phố P, phường Q, thị xã S, TP .Hà Nội;
3. Bà Lê Hạnh V, sinh năm 1973; vắng mặt
4. Ông Phùng Khắc D1, sinh năm 1973; vắng mặt
Người đại diện theo ủy quyền của ông D1: Bà Lê Hạnh V, sinh năm 1973;
Cùng địa chỉ: số A, tổ B phường X, thị xã S, thành phố Hà Nội; đều vắng mặt.
5. Bà Nguyễn Thị Bích Đ, sinh năm 1968; vắng mặt.
Địa chỉ: số A, tổ B phường X, thị xã S, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, Bản tự khai và các lời trình bày tiếp theo tại Tòa án,
nguyên đơn ông Lê Mạnh T, bà Nguyễn Thị H và người đại diện theo ủy quyền
thống nhất trình bày:
Ngày 13/7/2000, vợ chồng ông T, bà H và vợ chồng bà T1, ông D có ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Ngày 17/7/2000,
hợp đồng nêu trên đã được UBND phường X, thị xã S, tỉnh Hà Tây xác nhận:
1. Nguồn gốc thừa đất đem chuyển nhượng “Nguồn gốc thửa đất xin chuyển
nhượng trên đã được UBND thị xã S cấp quyết định sử dụng số 477/QĐ/UB ngày
25/9/1989. Ranh giới rõ ràng.
2. Hợp đồng nêu trên được 2 bên thoả thuận phạm vi đất chuyển nhượng
nằm trong quy hoạch đất khu dân cư, không có tranh chấp với các gia đình xung
quanh. Đề nghị cho làm thủ tục chuyển nhượng. Giá chuyển nhượng là 50.000.000
đồng. Cùng ngày 17/7/2000, UBND phường X, thị xã S, tỉnh Hà Tây đã lập biên
bản xác định mốc giới.
Hợp đồng chuyển nhượng cùng hồ sơ kèm theo đã được gửi đến Phòng địa
chính thị xã S để làm thủ tục sang tên theo quy định và đã được tiếp nhận Sau khi
ký hợp đồng chuyển nhượng nêu trên, ông T, bà H đã nhận nhà đất và lợp thêm
mái tôn trên nóc nhà và quản lý sử dụng.
Tuy nhiên, vợ chồng bà T1, ông D có vay tiền của một số người, do không
có tiền trả nên 5 người cho vợ chồng bà T1 ông D vay tiền đã khởi kiện ra Toà án
thị xã S. Tòa án thị xã S và Toà án tỉnh Hà Tây đã xét xử buộc bà T1, ông D trả
cho các chủ nợ cả gốc và lãi là 44.273.000 đồng. Tại thời điểm này, vợ chồng bà
T1, ông D cũng khởi kiện một số cá nhân khác trên địa bàn thị xã S trả nợ. Tại các
bản án dân sự sơ thẩm số 29, 30, 31 và 10 ngày 26/10/2000 Toà án nhân dân thị xã
Sơn Tây đã buộc những người vay tiền phải trả cho bà T1, ông D số tiền 35.584.100
3
đồng. Bà T1, ông D đã có đơn yêu cầu cơ quan Thi hành án Dân sự thị xã S thi
hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật mà vợ chồng bà T1, ông D được thi hành
để trả cho những người mà bà T1 và ông D phải trả và ngày 10/9/2002 bà T1, ông
D đã tự nguyện nộp 12.800.000 đồng để thi hành những bản án mà bà T1, ông D
có nghĩa vụ phải thi hành.
Nhưng không hiểu vi lý do gì mà ngày 16/5/2001, cơ quan thi hành án dân
sự thị xã S vẫn kê biên một phần nhà đất của ông bà T, H đã mua sau đỏ bản đầu
giá lấy tiền thanh toán nghĩa vụ của bà T1, ông D. Khi Đội thi hành án dân sự thị
xã S tổ chức bán đấu giá bà Lê Hạnh V đã mua được nhà đất nêu trên.
Đến ngày 20/3/2003, UBND thị xã S đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho bà V với thông tin cụ thể như sau: Giấy chứng nhận QSDĐ số T515002 do
UBND thị xã S cấp ngày 20/3/2003 cho bà Lê Hạnh V. Địa chỉ mảnh đất: số A tổ
A phường X, thị xã S, tỉnh Hà Tây nay là số nhà C ngõ G tổ G, phường X, thị xã
S, thành phố Hà Nội.
Sau đó, bà Lê Hạnh V có đơn khởi kiện ra Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây
đề nghị ông bà T, H trả lại nhà đất. Tại bản án sơ thẩm số 09/2007/DSST ngày
27/7/2007, Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây quyết định: Xác nhận ngôi nhà 2 tầng,
công trình phụ trên diện tích đất 180 m2 đất thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng
của bà Lê Hạnh V. Xác định 30 m mái tôn là tài sản do ông T, bà H tạo lập thêm.
Buộc bà T1, ông D và ông T, bà H phải trả căn nhà và đất nêu trên cho bà V. Ngày
09/8/2007, ông bà T, H và bà T1 có đơn kháng cáo.
Tại bản án phúc thẩm số 21/2008/DSPT ngày 16/4/2008, Toà án nhân dân
tỉnh Hà Tây quyết định: Xác nhận căn nhà 2 tầng, nhà cấp 4, sân gạch, tường hoa,
tường bao, trụ cổng, cổng sắt, 05 cây nhãn, 04 cây na, 02 khóm cau cảnh trên diện
tích đất 180 m2 tại số A tổ A phường X, thì xã S, tỉnh Hà Tây thuộc quyền sở hữu
và sử dụng của bà Lê Hạnh V. Bà V được sở hữu 30 m2 mái tôn và phải thanh toán
cho ông T bà H 4.600.000 đồng. Buộc bà T1, ông D, ông T và bà H phải trả lại
quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng 180 m2 đất tại số A tổ A phường X, thì xã
S, tỉnh Hà Tây cho bà Lê Hạnh V.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông bà T, H và bà T1, ông D có đơn khiếu nại.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 282/2012/DS-GĐT ngày 25/6/2012 của
Tòa Dân sự, Toà án nhân dân tối cao quyết định: Huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc
thẩm số 21/2008/DSPT ngày 16/4/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây và huỷ
toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 09/2007/DSST ngày 27/7/2007, Toà án nhân dân
thị xã Sơn Tây về việc “Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất" giữa
nguyên đơn là bà Lê Hạnh V với bị đơn là ông Lê Mạnh T, bà Lê Thị T. Giao hồ
sơ vụ án cho Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại
vụ án.
4
Ngày 07/8/2012 bà Lê Hạnh V rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận.
Toà án nhân dần thị xã S, thành phố Hà Nội đã ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự số 25/2012/QĐST-DS ngày 07/8/2012. Như vậy vụ án vẫn chưa được
giải quyết triệt để, quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình đã và đang bị xâm phạm
nghiêm trọng.
Trong Quyết định kháng nghị số 234/2011/KN-ĐS ngày 13/4/2011 của
Chánh án Toà án nhân dân tối cao có nêu: Có cơ sở xác định ngày 16/5/2001, cơ
quan thi hành án Dân sự thị xã S kê biên một phần nhà đất của vợ chồng ông T,
sau đó bán đấu giá lấy tiền thanh toán nghĩa vụ của bà T1 là không đúng. Hơn nữa
khi kê biên, bản đấu giả thì cơ quan Thi hành án Dân sự không thông báo cho vợ
chồng ông T (người đang quản lý nhà đất) là không đúng quy định của pháp luật
Do việc kê biên, bản đấu giá nhà đất của cơ quan thi hành án Dân sự không đúng
quy định của pháp luật. Do đó, hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền
sử dụng đất do đấu giả giữa bà V với cơ quan thi hành án dân sự thị xã S ngày
16/10/2002 là trái pháp luật, lỗi thuộc về cơ quan thị hành án.
Nay nguyên đơn đề nghị:
1. Toà án nhân dân thành phố Hà Nội công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ngày 13/7/2000, giữa ông Lê Mạnh T. bà
Nguyễn Thị H với bà Lê Thị T1, ông Phạm Đinh D2 là hợp pháp. Yêu cầu bà Lê
Thị T1 và ông Phạm Đình D giao lại quyền sử dụng đất cho ông Lê Mạnh T và bà
Nguyễn Thị H.
Hiện quyền sử dụng đất đang tranh chấp đã bị Cơ quan thi hành án phát mại
đấu giá một phần cho bà Lê Hạnh V, bà V đã chuyển nhượng cho bà Đ nên nguyên
đơn yêu cầu Tòa án buộc Cơ quan Thi hành án dân sự, bà Đ và bà V trả lại quyền
sử dụng đất cho bà H và ông T.
2. Toà án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên huỷ Giấy chứng nhận QSDĐ số
T515002 do UBND thị xã S cấp ngày 20/3/2003 cho bà Lê Hạnh V. Địa chỉ mảnh
đất: số A tổ A phường X, thì xã S, tỉnh Hà Tây nay là số nhà C ngõ G tổ G, phường
X, thì xã S, thành phố Hà Nội
3. Buộc Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây bồi thường thiệt hại cho
ông T, bà H với số tiền là 500.000.000 đồng.
*Bị đơn là ông Phạm Đình D và bà Lê Thị T1 thống nhất trính bày:
Ngày 13/7/2000, ông bà và vợ chồng ông Lê Mạnh T, bà Nguyễn Thị H có ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất với giá 50.000.000
đồng theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/7/2000, hợp đồng nêu trên đã được UBND phường X, thị xã S, tỉnh
Hà Tây xác nhận: 1. Nguồn gốc. thừa đất đem chuyển nhượng “Nguồn gốc thừa
đất xin chuyển nhượng trên đã được UBND thị xã S cấp quyết định sử dụng số
477/QĐ/UB ngày 25/9/1989. Ranh giới rõ ràng. 2, Hợp đồng nêu trên được 2 bên
5
thoả thuận phạm vi đất chuyển nhượng năm trong quy hoạch đất khu dân cư, không
cỏ tranh chấp với các gia đình xung quanh. Đề nghị cho làm thủ tục chuyển
nhượng.
Cùng ngày 17/7/2000, UBND phường X, thị xã S, tỉnh Hà Tây đã lập biên
bản xác định mốc giới.
Hợp đồng chuyển nhượng cùng hồ sơ kèm theo đã được gửi đến Phòng địa
chính thị xã S để làm thủ tục sang tên theo quy định và đã được tiếp nhận.
Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng nêu trên, ông bà đã nhận đủ tiền từ vợ
chồng bà H, ông T và chuyển giao nhà đất cho vợ chồng bà H, ông T quản lý sử
dụng. Tuy nhiên, ông bà có vay tiền của một số người, do không có tiền trả nên 5
người cho vợ chồng ông bà vay tiền đã khởi kiện ra Toà án thị xã S yêu cầu ông
bà trả tiền. Toà án thị xã S và Toà án tỉnh Hà Tây đã xét xử buộc ông bà trả cho
các chủ nợ cả gốc và lãi là 44.273.000 đồng. Tại thời điểm này, ông D và bà T1
cũng khởi kiện yêu cầu một số cá nhân khác trên địa bàn thị xã S trả nợ. Tại các
bản án dân sự sơ thẩm số 29, 30,31 và 10 ngày 26/10/2000 Toà án nhân dân thị xã
Sơn Tây đã buộc những người vay tiền của ông bà phải trả cho ông bà tổng số tiền
là 35.584.100 đồng. Ông D và bà T1 đã có đơn yêu cầu cơ quan thi hành án Dân
sự thị xã S thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật mà ông bà được thi hành
và ngày 10/9/2002 ông bà đã tự nguyên nộp 12.800.000 đồng để thi hành những
bản án mà ông bà có nghĩa vụ phải thi hành.
Nhưng không hiểu vì lý do gì mà ngày 16/5/2001, cơ quan thi hành án dân
sự thị xã S vẫn kê biên một phần nhà đất mà ông bà đã ký hợp đồng chuyển nhượng
cho ông T, bà H sau đó bán đấu giá lấy tiền thanh toán nghĩa vụ của ông bà. Trong
suốt quá trình Cơ quan thi hành án S tiến hành kê biên, phát mại thửa đất ông bà
và vợ chồng bà H, ông T không hề được thông báo, Khi Đội thi hành án dân sự thị
xã S đã tổ chức bán đấu gia bà Lê Hạnh V, sinh năm 1973 đã mua được nhà đất
nêu trên. Sau đó, bà Lê Hạnh V có đơn khởi kiện ra Toà án nhân dân thị xã Sơn
Tây đề nghị vợ chồng ông T, bà H trả lại nhà đất. Tại bản án sơ thẩm số
09/2007/DSST ngày 27/7/2007, Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây quyết định: Xác
nhận ngôi nhà 2 tầng, công trình phụ trên diện tích đất 180m2 đất thuộc quyền sở
hữu và quyền sử dụng của bà Lê Hạnh V. Xác định 30 m2 mái tôn là tài sản do
ông T, bà H tạo lập thêm. Buộc ông bà và ông T, bà H phải trả căn nhà và đất nêu
trên cho bà V. Ngày 09/8/2007, ông bà và vợ chồng ông T, bà H có đơn kháng cáo.
Tại bản án phúc thẩm số 21/2008/DSPT ngày 16/4/2008, Toà án nhân dân tỉnh Hà
Tây quyết định: Xác nhận căn nhà 2 tầng, nhà cấp 4, sân gạch, tường hoa, tưởng
bao, trụ cổng, cổng sắt, 05 cây nhân, 04 cây na, 02 khóm cau cảnh trên diện tích
đất 180 m" tại số A tổ A phường X, thì xã S, tỉnh Hà Tây thuộc quyền sở hữu và
sử dụng của bà Lê Hạnh V, Bà V được sở hữu 30 m mái tôn và phải thanh toán
cho ông T bà H 4.600.000 đồng. Buộc vợ chồng và, vợ chồng ông Lê Mạnh T và
bà Nguyễn Thị H, phải trả lại quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng 180 m2 đất
6
tại số A tổ A P, thì xã S, tỉnh Hà Tây cho bà Lê Hạnh V. Sau khi xét xử phúc thẩm,
ông bà và vợ chồng ông T, bà H có có đơn khiếu nại. Trong Quyết định kháng nghị
số 234/2011/KN-DS ngày 13/4/2011 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao có nêu:
Có cơ sở xác định ngày 16/5/2001, cơ quan thi hành án Dân sự thị xã S kê biên
một phần nhà đất của vợ chồng ông T, sau đó bán đấu giả lấy tiền thanh toán nghĩa
vụ của bà T1 là không đúng. Hơn nữa khi kê biên, bán đấu giá thì cơ quan Thi hành
án Dân sự không thông báo cho vợ chồng ông T (người đang quản lý nhà đất) là
không đúng quy định của pháp luật. Do việc kê biên, bán đấu giả nhà đất của cơ
quan thi hành án Dân sự không đúng quy định của pháp luật. Do đó, hợp đồng mua
bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất do đấu giá giữa bà V với cơ quan
thi hành án dân sự thị xã S ngày 16/10/2002 là trái pháp luật, lỗi thuộc về cơ quan
Thi hành án dân sự.
Nay vợ chồng bà H, ông T có đơn khởi kiện yêu cầu công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất giữa ông bà và vợ chồng
bà H, ông T, ông bà đề nghị:
1. Toà án nhân dân thành phố Hà Nội công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ngày 13/7/2000, giữa ông bà với vợ chồng
ông Lê Mạnh T, bà Nguyễn Thị H là hợp pháp.
2. Toà án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên huỷ Giấy chứng nhận QSDĐ số
7515002 do UBND thị xã S cấp ngày 20/3/2003 cho bà Lê Hạnh V, Địa chỉ mảnh
đất: Số A tổ A phường X, thị xã S, tỉnh Hà Tây nay là số nhà C ngõ G tổ G, phường
X, thị xã S, thành phố Hà Nội.
* Đại diện người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Chi cục Thi hành án
dân sự thị xã Sơn Tây, TP .Hà Nội, ông Văn Hồng Y trình bày:
1. Quá trình thực hiện các thủ tục về thi hành án kê biên, phát mại thừa đất
tại địa chỉ số A, tổ A, phường X, thị xã S, thành phố Hà Nội, nay là số nhà C ngõ
G, tổ G, phường X, thị xã S:
Năm 2001, Đội Thi hành án dân sự thị xã S tổ chức thi hành 05 bản án đối
với: Người phải thi hành án là: Ông Phạm Đinh D2, bà Lê Thị T1, khoản phải thi
hành:
- Bản án số 38/DSST ngày 30/11/2000 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây
uder tuyên buộc vợ chồng ông D2, bà T1 phải trả cho bà Đặng Thị T2 số tiền En
qar 2.184.000 đồng và lãi xuất chậm thi hành án.
- Bản án số 39/DSST ngày 30/11/2000 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây
tuyên buộc bà T1 phải trả cho bà Hoàng Thị V1 số tiền 4.755.000 đồng và lãi xuất
chậm thi hành án.
- Bản án số 41/DSST ngày 30/11/2000 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây
tuyên buộc vợ chồng ông D2, bà T1 phải trả cho bà Đồng Thị T3 số tiền 3.160.000
đồng và lãi xuất chậm thi hành án.
7
Bản án số 42/DSST ngày 30/11/2000 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây
tuyên buộc vợ chồng ông D2, bà T1 phải trả cho bà Lại Thị Hằng S tiền 23.915
500 đồng và lãi xuất chậm thi hành án.
- Bản án số 07/DSST ngày 19/112001 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây
tuyên buộc vụ chồng ông D2 và bà T1 phải trả cho bà Dương Thị S1 số tiền
10.358.700 do và lãi xuất chậm thi hành án Quá trình tổ chức thi hành án, Đội Thi
hành án dân sự thị xã S (Nay là Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây đã tiến
hành các trình tự thủ tục theo quy định). Ông D3, bà T1 mặc dù có điều kiện nhưng
không tự nguyện thi hành án.
Do vậy, Đội Thi hành án dân sự thị xã S đã tiến hành xác minh, kê biển tài
sản của ông D2, bà T1 tại số A, tổ A, phường X, thị xã S để đảm bảo thi hành án.
Việc kê biên, bán đấu giá tài sản của ông Phạm Đình D, bà Lê Thị T1 đã được chấp
hành viên Đội Thi hành án dân sự thị xã S thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật.
Cụ thể:
Về tài sản đã kê biên là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số
A, tổ A, phường X, thị xã S vẫn thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông D, bà T1 do
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T và bà T1 được UBND
phường X xác nhận vào ngày 17/7/2000 nhưng tại thời điểm chấp hành viên kê
biên tài sản, ông T vẫn chưa hoàn tất thủ tục sang tên chuyển quyển sử dụng đất
theo quy định tại Điều 444 Bộ luật dân sự năm 1995.
- Sau khi bán đấu giá thành, Đội Thi hành án đã tiến hành phối hợp với các
cơ quan chức năng, chính quyền địa phương giao tài sản cho người mua trúng đấu
giá là bà Lê Hạnh V. Bà V đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Quá trình giải quyết đơn khiếu nại,
tố cáo của ông Lê Mạnh T, bà Nguyễn Thị H thì các cơ quan Thi hành án dân sự
tỉnh Hà Tây, Cục Thi hành án dân sự Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã
Sơn Tây và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đều có quan điểm chung là
việc Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự thị xã S áp dụng biện pháp cưỡng
chế kê biên, bán đấu giá tài sản nhà đất tại số A, số A, phường X, thị xã S là cần
thiết và có cơ sở pháp lý, không chấp nhận khiếu nại của các đương sự. Hơn nữa
tại Công văn số 1737/BTP-TTB ngày 02/6/2009 của Bộ Tư pháp về việc trả lời
đơn thư khiếu nại, tố cáo của ông Lê Mạnh T, bà Lê Thị H1 đã khẳng định việc kê
biên, bán đấu giá tài sản trên của Đội Thi hành án dân sự thị xã S là có cơ sở, không
trái luật.
- Sau khi có Quyết định kháng nghị số 234/2011/KN-DS ngày 13/4/2011 và
Quyết định Giám đốc thẩm số 282/2012/DS-GĐT ngày 25/6/2012 của Tòa án nhân
dân Tối cao, Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây đã thực hiện xét xử lại nhưng bà Lê
8
Hạnh V đã rút đơn khởi kiện, còn ông Lê Mạnh T đã không được Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội chấp nhận đơn kháng cáo do kháng cáo quá hạn.
2. Quan điểm của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây đối với việc yêu
cầu bồi thường thiệt hại của ông Lê Mạnh T, bà Nguyễn Thị H:
Chi cục Thi hành ăn dân sự thị xã S không chấp nhận yêu cầu bồi thường
thiệt hại của ông Lê Mạnh T, bà Nguyễn Thị H, do
- Quá trình tổ chức việc thi hành án của Đội Thi hành án dân sự thị xã Sơn
Tây nay là Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây được thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật. Chưa có cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào xác định
việc tổ chức thi hành án của Đội Thi hành án dân sự thị xã S là trái quy định của
pháp luật.
- Sau khi kê biên, Chấp hành viên Đội thi hành án dân sự thị xã S đã dành
thời gian 90 ngày và hướng dẫn ông T khởi kiện ra tòa để ông T bảo vệ quyền, lợi
ích của mình theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông T không thực hiện như
được hướng dẫn. Như vậy, ông T đã từ bỏ quyền lợi của minh.
- Tại Điều 588 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về thời hiệu khởi kiện yêu
cầu bồi thường thiệt hại quy định: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt
hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Như vậy, theo quy định tại Bộ luật dân sự
năm 2015, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại cụ thể là ba năm kể từ
ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm phạm.
- Theo Điều 6 Luật TNBTCNN 2017, Thời hiệu yêu cầu bồi thường là 03
năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường quy định tại các khoản 1, 2 và
3 Điều 5 của Luật này nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 52 của Luật này và trường hợp yêu cầu phục
c hồi danh dự. Nay thời hiệu khởi kiện đã không còn nên Chi cục Thi hành án dân
sự đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án vì đã hết thời hiệu.
Do vậy Chi cục không chấp nhận yêu cầu bồi thường của ông T và bà H.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Hạnh V trình bày:
Bà V có được quyền sử dụng đất tại số A, số A, phường X, thị xã S qua đấu
giá tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây và được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên.
Đến năm 2004, bà V đã bán thửa đất trên cho bà Nguyễn Thị Bích Đ và ông
Nguyễn Hoàng S2 với giá 60.000.000 đồng. Bà V đã nhận đủ tiền và bàn giao Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông S2 và bà Đ. Nay bà V2 xác định quyền sở
hữu thửa đất trên của bà Nguyễn Thị Bích Đ. Sau khi mua bán vào năm 2004, bà
Đ là người trực tiếp quản lý sử dụng thửa đất trên, không còn liên quan đến bà V.
9
Nay ông T, bà H yêu cầu trả lại quyền sử dụng đất bà không đồng ý bởi đất
trên là đất do gia đình trúng đấu giá của Nhà nước, đã quản lý sử dụng từ lâu đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nay thời hiệu khởi kiện về hợp đồng mua bán nhà đất giữa ông T và bà T1
đã hết nên đề nghị Tòa án định chỉ giải quyết vụ án.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Bích Đ trình
bày:
Năm 2004, bà Đ và em trai là ông Nguyễn Hồng S3, sinh năm 1970 có mua
chung thửa đất diện tích 180m2 tại số A tổ A phường X, thị xã S, TP . Hà Nội
của bà Lê Hạnh V, sinh năm 1973, địa chỉ tại số A tổ B phường X, thị xã S, TP .
Hà Nội với giá 60.000.000 đồng, trong đó ông S3 và bà Đ mỗi người góp
30.000.000 đồng. Khi mua bà V có cung cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên bà V đối với thửa đất. Khi mua các bên thống nhất để ông S3 đứng tên
trên Giấy tờ mua bán. Bà V có lập Giấy chuyển nhượng nhà đất ngày 26/02/2004
với ông S3. Sau khi lập giấy mua bán, bà Đ và ông S3 đã thanh toán đủ cho bà V
số tiền 60.000.000 đồng, bà V có bàn giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông S3 giữ. Vào thời điểm mua trên đất có 01 nhà 02 tầng. Sau đó bà Đ và
ông S3 để gia đình anh trai ông bà là ông Nguyễn Quốc T4, sinh năm 1963 ở
nhờ, đến sau những năm 2018-2020 mới chuyển đi. Quá trình quản lý sử dụng thì
gia đình bà Đ có đổ đất, lắp hệ thống điện, nước và xây dựng tường bao, và sửa
chữa các công trình trên đất. Đến khoảng năm 2018-2020, ông S3 có chuyển
nhượng cho bà toàn quyền sử dụng thửa đất và tài sản công trình trên đất trên, bà
Đ phải thanh toán thêm cho ông S3 250.000.000 đồng. Việc thỏa thuận và giao
tiền này không lập thành văn bản. Sau đó bà Đ quản lý và cho thuê nhà đất này
để lấy tiền chi tiêu.Ngày 07/4/2022, ông Lê Mạnh T có đến phá dỡ công trình
trên đất, bà Đ có làm đơn tố cáo với Công an nhưng hiện chưa được giải quyết
triệt để. Hiện bà Đ vẫn quản lý, sử dụng trực tiếp thửa đất.
Bà Đ1 đề nghị Tòa án công nhận việc mua bán giữa bà Đ với bà Lê Hạnh V
là hợp pháp, công nhận quyền sử dụng đất của bà đối với thửa đất diện tích 180m2
tại số A tổ A phường X, thị xã S, TP .Hà Nội.
Nay thời hiệu khởi kiện về hợp đồng mua bán nhà đất giữa ông T và bà T1
đã hết nên đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án.
Đại diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân thị xã S
trình bày:
Căn cứ hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 515002 do UBND
thị xã S cấp ngày 20/3/2003 cho bà Lê Hạnh V đối với thửa đất tại địa chỉ số A, tổ
A phường X, thị xã S (nay là số nhà B, ngõ G, tổ G, phường X, thị xã S) hiện nay
đang lưu trữ tại phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã S, hồ sơ cấp GCNQSD đất
gồm có 11 loại tài liệu sau:
10
1. Biên bản kê biên tài sản lập ngày 16/05/2001 của Đội Thi hành án thị xã
S;
2. Sơ đồ hiện trạng thừa đất.
3. Văn bản bán đấu giá tài sản lập ngày 16/10/2002. 4. Biên bản bàn giao tài
sản.
5. Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất.
6. Biên bản xác định mốc giới lập ngày 25/12/2002.
7. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 25/12/2002 giữa
Đội Thi hành án S với ông Phùng Khắc D1 và bà Lê Hạnh V.
8. Giấy tiền vào ngân sách nhà nước.
9. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T515002 do UBND thị xã S cấp
ngày 20/3/2003 cho Hộ ông bà Lê Hạnh V đối với 180,0m2 đất ở tại số A tổ A
phường X, thị xã S, tỉnh Hà Tây.
10. Tờ trình số 42-CV/GCNQSDĐ ngày 20/3/2003 của phòng Địa chính đề
nghị cấp GCNQSD đất cho 01 hộ tại phường X.
11. Quyết định số 159/QĐ-UB ngày 28/3/2003 của UBND thị xã S cấp
GCNQSD đất điện tích 180,0m2 đất ở cho hộ bà Lê Hạnh V tại số A tổ A phường
X.
Thửa đất tại địa chỉ số A tổ A, phường X, thị xã S đã được Đội Thi hành án
thị xã S kê biên tài sản, thực hiện bản đấu giá tài sản, có biên bản bản giao tài sản.
Căn cứ vào hồ sơ thi hành án đối với thửa đất tại địa chỉ số A tổ A, phường X, thị
xã S và đơn xin đăng ký quyền sử dụng của bà Lê Hạnh V (người mua được tài
sản nêu trên), ngày 20/3/2003 UBND thị xã S đã cấp Giấy chứng quyền sử dụng
đất số T515002 cho hộ ông bà Lê Hạnh V đối với 180,0m2 đất ở tại số A tổ A
phường X, thị xã S, tỉnh Hà Tây đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật. UBND
thị xã S không đồng ý với đề nghị hủy GCNQSD đất số T 515002 của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 5 Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 35, khoản 1 Điều 39,
các điều 147, 156, 157, 184, 217, 262, 264, 266, 267, 271, 277, 278 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 131, Điều 444 Bộ luật Dân sự năm 2005;
Các điều 138, 427, Điều 607 Bộ luật Dân sự năm 2005; Các điều 133, 429, 588 Bộ
luật dân sự năm 2015. Các điều 3, 5, 6, 7 Luật Bồi thường trách nhiệm nhà nước
năm 2017 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội; Xử:
11
1. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ngày 13/7/2000, giữa ông Lê Mạnh T, bà
Nguyễn Thị H với vợ chồng bà Lê Thị T1, ông Phạm Đình D;
2. Bác yêu cầu tuyên huỷ Giấy chứng nhận QSDĐ số T515002 do UBND
thị xã S cấp ngày 20/3/2003 cho bà Lê Hạnh V của ông Lê Mạnh T và bà Nguyễn
Thị H.
3. Bác yêu cầu của ông Nguyễn Mạnh T5, bà Nguyễn Thị H đòi bà Lê Hạnh
V giao trả nhà đất tại địa chỉ: Số A tổ A phường X, thị xã S, tỉnh Hà Tây nay là số
nhà C ngõ G tổ G, phường X, thị xã S, thành phố Hà Nội;
4. Bác yêu cầu của ông Lê Mạnh T và bà Nguyễn Thị H buộc Chi cục Thi
hành án dân sự thị xã Sơn Tây, TP . Hà Nội bồi thường thiệt hại số tiền 500.000
(Năm trăm triệu) đồng.
Ngoài ra, tòa án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo đối với
người tham gia tố tụng.
Ngày 02/5/2024, nguyên đơn ông Lê Mạnh T có đơn kháng cáo toàn bộ bản
án.
Tại phiên toà phúc thẩm,
Người đại diện theo ủy của ông Lê Mạnh T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, yêu cầu kháng cáo.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Lê Thị Minh A trình bày:
Tôi không nhất trí với bản án sơ thẩm, gia đình ông D và bà T1 đã chuyển nhượng
cho bà H và đơn đăng ký chuyển nhượng đã được Ủy ban xác nhận, sau khi nhận
tiền thì nhà ông T bà H đã chuyển vào sinh sống. Đến thời điểm ông D bà T1 trả
nợ thì đã đề nghị bên cơ quan Thi hành án thị xã S trả dần; thời điểm ông D bà T1
chuyển nhượng thì không có bản án nào có hiệu lực pháp luật, không có văn bản
cấm việc chuyển dịch của vợ chồng ông D và bà T1. Do đó, cơ quan Thi hành án
thu mảnh đất mà ông D bà T1 bán cho ông T bà H là sai quy định của pháp luật.
Đội thi hành án thị xã S đã làm ảnh hưởng nghiệm trọng đến quyền lợi của ông T
bà H, nay nguyên đơn ông T kháng cáo đề nghị hủy bản án dân sự sơ thẩm, vì Tòa
án sơ thẩm không giải quyết yêu cầu khởi kiện của gia đình ông T bà H.
Bị đơn ông Phạm Đình D trình bày: Tôi không có ý kiến gì, đồng tình với
đơn kháng cáo của ông T và bà H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ôngVăn Hồng Y (Đại diện theo ủy
quyền của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây) trình bày: Sau khi được
phân công thì đội thi hành án đã yêu cần người phải thi hành án, chấp hành viên
đã tổ chức kê biên tài sản theo quy định. Việc ông T và bà H yêu cầu Chi cục thi
hành án bồi thường là không có căn cứ. Vì tại thời điểm kê biên thì đất vẫn đứng
tên ông D và bà T1, đề nghị Tòa cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu ý kiến:
12
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người
tham gia tố tụng đã chấp hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định hết thời hiệu khởi kiện là
không có căn cứ, không đúng pháp luật. Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ
luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo của
ông Lê Mạnh T, hủy bản án sơ thẩm; chuyển hồ sơ cho Tòa án sơ thẩm giải quyết,
xét xử lại theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn là ông Lê Mạnh T nộp trong thời hạn
và đúng với quy định tại Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên hợp lệ,
được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.
[1.2] Về việc vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa: Những người tham
gia tố tụng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tuy nhiên, một số người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm của nguyên đơn
là ông Lê Mạnh T, thấy:
[2.1]. Ông Lê Mạnh T và bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu Toà án nhân
dân thành phố Hà Nội công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất ngày 13/7/2000, giữa ông Lê Mạnh T, bà Nguyễn Thị H với
vợ chồng bà Lê Thị T1, ông Phạm Đình D là hợp pháp. Yêu cầu bà Lê Thị T1 và
ông Phạm Đình D giao lại quyền sử dụng đất cho ông Lê Mạnh T và bà Nguyễn
Thị H. Hiện quyền sử dụng đất đang tranh chấp đã bị Cơ quan thi hành án phát
mại đấu giá một phần cho bà Lê Hạnh V, bà V đã chuyển nhượng cho bà Đ nên
nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc Cơ quan Thi hành án dân sự, bà Đ và bà V trả
lại quyền sử dụng đất cho bà H và ông T. Do đó, tại Bản án sơ dân sự sơ thẩm số
27/2024/DS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội đã quyết định: 1. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ngày 13/7/2000, giữa ông
Lê Mạnh T, bà Nguyễn Thị H với vợ chồng bà Lê Thị T1, ông Phạm Đình D.
[2.2]. Theo quy định tại Điều 500 Bộ luật dân sự 2015hợp đồng về quyền
sử dụng đất là: Hợp đồng về quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó người sử dụng đất chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng
cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất hoặc thực hiện quyền khác theo quy
định của Luật đất đai cho bên kia; bên kia thực hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp
đồng với người sử dụng đất.
13
[2.3]. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự:
- “Điều 184. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự:
1. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực
hiện theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu
của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi
Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng
thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ.”
- “Điều 185. Áp dụng quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu:
Các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng
dân sự.”
[2.4]. Theo quy định của Bộ luật dân sự:
[2.4.1]. Về thời hiệu:
- Khoản 1 Điều 149 BLDS 2015định: “Thời hiệu là thời hạn do luật quy
định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo
điều kiện do luật quy định. Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này,
luật khác có liên quan”.
- “Điều 150 BLDS 2015 quy định các loại thời hiệu:
1. Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó
thì chủ thể được hưởng quyền dân sự.
2. Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn
đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ.
3. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu
cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu thời hạn
đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu.”
[2.4.2]. Về thời hiệu khởi kiện:
- Trường hợp thứ nhất, quy định cụ thể thời hiệu khởi kiện:
(1) Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng: Điều 429 BLDS 2015 quy định: “Thời
hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ
ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của
14
mình bị xâm phạm”.
(2) Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại: Điều 588 BLDS 2015
quy định: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày
người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm phạm”.
– Trường hợp thứ hai, không áp dụng thời hiệu khởi kiện:
Điều 155 BLDS 2015 quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong
các trường hợp sau đây:
“1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.
2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác.
3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai.
4. Trường hợp khác do luật quy định.”
– Trường hợp thứ ba, áp dụng quy định về thời hiệu yêu cầu áp dụng về
thời hiệu của đương sự. Trường hợp này, khoản 2 Điều 149 BLDS 2015 quy định
như sau: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời
hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước
khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc”. Theo quy định
tại khoản 2 Điều 149 BLDS 2015 thì việc áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu
cầu của đương sự phải có điều kiện. Điều kiện đó là thời hiệu mà đương sự thực
hiện thì đương sự báo cho Tòa án cấp sơ thẩm biết trước khi Tòa án cấp sơ thẩm
ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án.
[2.5]. Như vậy, đối chiếu với các quy định nêu trên, có thể xác định: Ông
Lê Mạnh T và bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân thành phố Hà
Nội, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
ngày 13/7/2000; là đang tiếp tục thực hiện hợp đồng, chứ không có tranh chấp
hủy hợp đồng chuyển nhượng và giải quyết tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu;
cũng như yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện.
[2.6]. Việc Bà V và bà Đ đề nghị Tòa án áp dụng quy định về thời hiệu khởi
kiện để đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Lê Mạnh T và bà Nguyễn
Thị H. Hội đồng xét xử thấy: Bà V và bà Đ mua diện tích đất và nhà mà ông T
đang khởi kiện do Đội thi hành án dân sự thị xã S tổ chức bán đấu giá. Năm 2007
bà Lê Hạnh V có đơn khởi kiện ra Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây đề nghị ông
bà T, H trả lại nhà đất.
Tại Quyết định kháng nghị số 234/2011/KN-ĐS ngày 13/4/2011 của Chánh
án Toà án nhân dân tối cao có nêu: Có cơ sở xác định ngày 16/5/2001, cơ quan thi
hành án Dân sự thị xã S kê biên một phần nhà đất của vợ chồng ông T, sau đó bán
đấu giá lấy tiền thanh toán nghĩa vụ của bà T1 là không đúng. Hơn nữa khi kê
15
biên, bản đấu giả thì cơ quan Thi hành án Dân sự không thông báo cho vợ chồng
ông T (người đang quản lý nhà đất) là không đúng quy định của pháp luật. Do
việc kê biên, bản đấu giá nhà đất của cơ quan thi hành án Dân sự không đúng quy
định của pháp luật. Do đó, hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử
dụng đất do đấu giả giữa bà V với cơ quan thi hành án dân sự thị xã S ngày
16/10/2002 là trái pháp luật, lỗi thuộc về cơ quan thị hành án.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 282/2012/DS-GĐT ngày 25/6/2012 của
Tòa Dân sự, Toà án nhân dân tối cao quyết định: Huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc
thẩm số 21/2008/DSPT ngày 16/4/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây và huỷ
toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 09/2007/DSST ngày 27/7/2007, Toà án nhân
dân thị xã Sơn Tây về việc “Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất"
giữa nguyên đơn là bà Lê Hạnh V với bị đơn là ông Lê Mạnh T, bà Lê Thị T. Giao
hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm
lại vụ án.
Ngày 07/8/2012 bà Lê Hạnh V rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận.
Toà án nhân dần thị xã S, thành phố Hà Nội đã ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự số 25/2012/QĐST-DS ngày 07/8/2012. Như vậy, vụ án vẫn chưa
được giải quyết triệt để, quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và đang bị
xâm phạm nghiêm trọng.
[2.7]. Do vậy, gữa bà V và bà Đ không có liên quan đến việc xác lập giao
dịch dân sự, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
ngày 13/7/2000, nên không có quyền áp dụng thời hiệu kiện đối với việc vợ chồng
ông T và vợ chồng bà T1 công nhận hợp đồng. Nếu có liên quan chỉ là tranh chấp
quyền sử dụng đất giữa bà V và bà Đ với ông T, bà H, ông D và bà T1. Tuy nhiên,
tranh chấp quyền sử dụng đất này đã được bà V khởi kiện và đã bị Quyết định
giám đốc thẩm hủy về giải quyết lại, sau đó bà V đã rút yêu cầu khởi kiện đòi lại
ông T đất. Như vậy, đến nay chưa có bản án, quyết định nào thay thế Quyết định
giám đốc thẩm, nên chưa có cơ sở đề xác định Cơ quan thi hành án Dân sự thị xã
S kê biên một phần nhà đất của vợ chồng ông T, sau đó bán đấu giá cho bà V lấy
tiền thanh toán nghĩa vụ của bà T1 là đúng pháp luật. Mặt khác, theo quy định tại
khoản 3 điều 155 BLDS quy định: Không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với
tranh chấp quyền sử dụng đất.
[2.8]. Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy: Tòa án cấp sơ
thẩm xác định yêu cầu khởi kiện của ông T công nhận hợp đồng chuyển nhượng
đất là hết thời hiệu và đình chỉ yêu cầu kiện là chưa đúng pháp luật. Do Tòa án
cấp sơ thẩm chưa thu thập tài liệu, chứng cứ đầu đủ, cũng như chưa xem xét đến
yêu cầu khởi kiện của ông T công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất, nên cấp
phúc thẩm không khắc phục được. Nếu xem xét sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của các đương sự, cũng như quyền kháng cáo của các đương sự. Do đó, cần chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của ông T hủy Bản án dân sự sơ thẩm để giải quyết, xét
16
xử lại.
[2.9]. Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Lê Mạnh T không
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng
dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Mạnh T.
2. Hủy Bản án án dân sự sơ thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 22 tháng 4 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn ông Lê Mạnh T, bà
Nguyễn Thị H và bị đơn ông Phạm Đình D, bà Lê Thị Ánh T1; giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết lại theo đúng quy định của pháp
luật.
3. Về án phí: Ông Lê Mạnh T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm,
hoàn lại cho ông T 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm theo Biên lai số 0023335 ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Cục Thi hành án dân
sự thành phố Hà Nội.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND thành phố Hà Nội;
- VKSND thành phố Hà Nội;
- Cục THADS thành phố Hà Nội;
- Các đương sự (theo địa chỉ).
- Lưu HS, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẤM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Việt Hà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm