Bản án số 92/2025/DS-PT ngày 20/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 92/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 92/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 92/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 92/2025/DS-PT ngày 20/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 92/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Vì cần tiền nên từ cuối năm 2021 đến năm 2022 ông Dương Văn Đ đã nhiều lần vay số tiền 1.850.000.000 đồng của ông Hoàng Quốc H. Ông H đã nhiều lần yêu cầu ông Đ trả nợ nhưng ông Đ không trả. Ngày 20/7/2023, ông H có thông báo gửi ông Đ yêu cầu trả nợ, tuy nhiên ông Đ vẫn không có bất kỳ phản hồi nào. Do đó, ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Dương Văn Đ phải trả cho ông Hoàng Quốc H số tiền nợ gốc 1.850.000.000 đồng và trả tiền lãi theo lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước với số tiền nợ 1.850.000.000 đồng, tính từ thời điểm vay tiền đến khi Tòa án xét xử, tạm tính là ngày 30/10/2023. Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên buộc ông Đ thanh toán cho ông H số tiền nợ gốc và nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 30/10/2023. Ông Đ cho rằng ông Đ không vay tiền của ông H, mà là vay của ông L (anh rể của ông H) và ông Đ đã thanh toán cho ông L nên không có nghĩa vụ phải thanh toán cho ông H. Không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm, ông Đ có đơn kháng cáo. Tại cấp phúc thẩm, xét thấy bị đơn kháng cáo nhưng không có chứng cứ chứng minh nên không chấp nhận kháng cáo của ông Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 92/2025/DS-PT
Ngày 21-02-2025
V/v
tranh ch
ấ
p
h
ợ
p đ
ồ
ng vay tài s
ả
n
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Ngô Thị Bích Diệp
Ông Nguyễn Trung Dũng
Ông Nguyễn Văn Tài
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Quốc Nhi - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Ngô Kim Duyên - Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 498/2024/TLPT-DS ngày 29 tháng
10 năm 2024 về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 95/2024/DS-ST ngày 29 tháng 7 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 16/2024/QĐ-PT, ngày 02
tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hoàng Quốc H, sinh năm 1986; địa chỉ: tổ A, khu phố
A, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Viết T, sinh năm
1990; địa chỉ: tổ E, khu phố G, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người
đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 20/7/2023); có mặt.
- Bị đơn: Ông Dương Văn Đ, sinh năm 1978; địa chỉ: tổ C, khu phố B,
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương;
2
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Thái Thanh H2, sinh năm 1979 và
ông Lê Thành D, sinh năm 1995; địa chỉ: đường số E, tổ A, khu phố C, phường U,
thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền
ngày 06/11/2023); có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trương Thanh L, sinh năm 1976; địa chỉ: ấp B, xã T, huyện B, tỉnh
Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
2. Bà Chu Thị Thu H3, sinh năm 1988; địa chỉ: ấp B, xã T, huyện B, tỉnh
Bình Dương; vắng mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn ông Dương Văn Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 28 tháng 7 năm 2023, các lời khai trong quá trình
tham gia tố tụng, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày như
sau: Do cần tiền để giải quyết việc gia đình nên từ cuối năm 2021 đến năm 2022
ông Dương Văn Đ đã nhiều lần vay số tiền 1.850.000.000 đồng của ông Hoàng
Quốc H, cụ thể:
+ Ngày 22/11/2021, ông Đ vay số tiền 650.000.000 đồng;
+ Ngày 24/01/2022, ông Đ vay số tiền 400.000.000 đồng;
+ Ngày 14/02/2022, ông Đ vay số tiền 400.000.000 đồng;
+ Ngày 20/10/2022, ông Đ vay số tiền 400.000.000 đồng.
Vì quen biết nhau nên hai bên không lập văn bản thỏa thuận về lãi suất vay
và thời hạn vay. Tuy nhiên, hai bên thống nhất khi ông Đ trả tiền gốc sẽ trả kèm lãi
suất là 2%/tháng; ông Đ đã trực tiếp viết và ký tên, lăn tay trên 04 giấy vay tiền.
Do cần sử dụng tiền nên ông H đã nhiều lần yêu cầu ông Đ trả nợ nhưng ông
Đ không trả. Ngày 20/7/2023, ông H có thông báo gửi ông Đ yêu cầu trả nợ, tuy
nhiên đến nay ông Đ vẫn không có bất kỳ phản hồi nào.
Do đó, ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Dương Văn Đ
phải trả cho ông Hoàng Quốc H số tiền nợ gốc 1.850.000.000 đồng và trả tiền lãi
theo lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước với số tiền nợ 1.850.000.000 đồng,
tính từ thời điểm vay tiền đến khi Tòa án xét xử, tạm tính là ngày 30/10/2023, cụ
thể như sau:
3
+ Số tiền vay 650.000.000 đồng từ ngày 22/11/2021 đến ngày xét xử (tạm
tính là ngày 30/10/2023) là 23 tháng x lãi suất 1%/tháng = 149.500.000 đồng;
+ Số tiền vay 400.000.000 đồng ngày 24/11/2022 đến ngày xét xử (tạm tính
là ngày 30/10/2023) là 18 tháng x lãi suất 1%/tháng = 72.000.000 đồng;
+ Số tiền vay 400.000.000 đồng ngày 14/02/2022 đến ngày xét xử (tạm tính
là ngày 30/10/2023) là 17 tháng x lãi suất 1%/tháng = 68.000.000 đồng;
+ Số tiền vay 400.000.000 đồng ngày 20/10/2022 đến ngày xét xử (tạm tính
là ngày 30/10/2023) là 12 tháng x lãi suất 1%/tháng = 48.000.000 đồng;
Như vậy, ông Dương Văn Đ phải thanh toán cho ông Hoàng Quốc H số tiền
1.850.000.000 đồng + 337.500.000 đồng = 2.187.500.000 đồng (Hai tỷ một trăm
tám mươi bảy triệu năm trăm nghìn đồng).
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn thay đổi một phần
yêu cầu về thời gian tính lãi chậm thanh toán tính từ thời điểm bị đơn có mặt tại
Tòa án để làm việc ngày 02/11/2023 đến ngày Toà án xét xử vụ án (ngày 29/7/2024
là 08 tháng 27 ngày, cụ thể như sau: 1.850.000.000 đồng x 0.83%/tháng x 08 tháng
27 ngày = 136.659.500 đồng.
Như vậy, ông Dương Văn Đ phải thanh toán cho nguyên đơn ông Hoàng
Quốc H nợ gốc 1.850.000.000 đồng + lãi suất 136.659.500 đồng = 1.986.659.500
đồng.
- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Ông Dương Văn Đ và
ông Trương Thanh L, sinh năm 1976, trú tại ấp 2, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương
là bạn làm ăn chung nên có sự quen biết. Cuối năm 2021, do ông Đ cần tiền để làm
ăn nên đã đến nhà ông Trương Thanh L để hỏi vay của ông L số tiền 1.850.000.000
đồng (một tỷ tám trăm năm mươi triệu đồng). Ông L đồng ý cho ông Đ vay tiền với
lãi suất là 6%/tháng và đã giao tiền cho vay cho ông Đ vào các ngày 22/11/2021,
ngày 20/01/2022, ngày 24/01/2022 và ngày 14/02/2022. Khi giao tiền cho ông Đ,
ông L yêu cầu ông Đ viết “Giấy vay tiền” theo nội dung do ông L đọc. Theo đó thì
ông Đ phải viết người cho vay tiền tên là Hoàng Quốc H (là em cột chèo của ông
L) còn tiền vay, tiền lãi thực tế thì ông Đ thực hiện giao nhận với ông L. Tuy nhiên,
mỗi lần viết giấy vay tại nhà ông L xong thì ông Đ ký tên, lăn tay rồi sau đó ông L
(là anh cột chèo với ông H) giao tiền mặt ngay mà không có lập biên nhận tiền, cả
04 lần ông Đ vay tiền đều do ông L trực tiếp giao, tổng cộng là 1.850.000.000 đồng
(Một tỷ tám trăm năm mươi triệu đồng).
Đến tháng 06/2022, ông Đ bán đất cho bà Chu Thị Thu H3 với số tiền là
3.700.000.000 đồng (Ba tỷ bảy trăm triệu đồng). Theo yêu cầu trả nợ gốc, tiền lãi
4
của ông Trương Thanh L thì ông Đ đã nhờ bà Chu Thị Thu H3 chuyển khoản trả nợ
gốc, lãi vay cho ông Trương Thanh L số tiền 2.700.000.000 đồng (Hai tỷ bảy trăm
triệu đồng). Ông Trương Thanh L nói ông Đ còn nợ lãi ông L số tiền 800.000.000
đồng (Tám trăm triệu đồng) nên ông L không cho ông Đ lấy lại các giấy vay tiền
mà trước đó ông Đ đã viết.
Vì vậy, ông Đ chỉ liên quan việc vay nợ tiền với ông L mà không nợ tiền của
ông H. Ông H cho rằng ngày 20/07/2023 đã gửi thông báo đòi nợ cho ông Đ nhưng
theo thông tin bưu gửi do ông Đ cung cấp thì ông Đ không nhận được thông báo
đòi nợ của ông H và bưu điện đã phát hoàn thành công thông báo đòi nợ trả lại cho
ông H. Căn cứ Điều 469 Bộ luật Dân sự thì ông H chưa đủ điều kiện khởi kiện, đề
nghị Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án. Trường hợp không đình chỉ thì đề nghị không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Quốc H.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Chu Thị Thu H3 trình bày: Bà
H3 là người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của
ông Dương Văn Đ, sinh năm 1978, địa chỉ tổ 3, khu phố B, phường T, thành phố T,
tỉnh Bình Dương với giá tiền 3.700.000.000 (Ba tỷ bảy trăm triệu đồng), đặt cọc
400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng), bà H3 và ông Đ thỏa thuận khi hợp đồng
chuyển nhượng được công chứng thì bà H3 thanh toán đủ tiền chuyển nhượng cho
ông Đ. Ngày 22/06/2023, khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
H3 và ông Đ được công chứng thì ông Đ nhờ bà H3 chuyển khoản số tiền
2.700.000.000 đồng (Hai tỷ bảy trăm triệu đồng) vào tài khoản số 050041453882,
tên tài khoản là Trương Thanh L tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín. Do hạn chế
số tiền mỗi lần chuyển khoản của Ngân hàng nên để chuyển đủ số tiền
2.700.000.000 đồng, bà H3 đã phải chuyển tiền 06 lần. Cụ thể, bà H3 dùng tài
khoản của bà H3 tên Chu Thị Thu H3, số tài khoản 0281000515296 tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) chuyển 06 lần tiền vào tài khoản số
050041453882 của ông Trương Thanh L tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank), mỗi lần chuyển với số tiền như sau: Lần 1: 490.000.000 đồng; lần 2:
490.000.000 đồng; lần 3: 490.000.000 đồng; lần 4: 490.000.000 đồng; lần 5:
490.000.000 đồng; lần 6: 250.000.000 đồng. Việc bà H3 chuyển tiền vào tài khoản
số 050041453882 của ông Trương Thanh L tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín là
theo yêu cầu của ông Đ, coi như bà H3 thanh toán tiền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Đ. Còn lý do vì sao ông Đ yêu cầu bà
H3 chuyển tiền vào tài khoản nêu trên thì bà H3 không rõ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Thanh L trình bày:
Ông L là anh vợ của ông H và là bạn làm ăn mua bán đất đai lâu năm với ông
Dương Văn Đ. Trước đây, ông Đ nhiều lần cùng ông L mua bán đất đai, những lúc
5
chưa xoay sở đủ tiền thì ông Đ có hỏi mượn của ông L và sau đó trả tiền mặt hoặc
chuyển khoản trả lại cho ông L. Có lần ông L không đủ tiền cho ông Đ mượn thì
ông Đ có mượn của ông H. Tính đến nay, giữa ông L và ông Đ không còn nợ nần
gì nhau. Về vấn đề tranh chấp tiền vay giữa ông H và ông Đ thì ông L chỉ biết ông
Đ có vay tiền của ông H chứ việc ông Đ trả tiền cho ông H hay chưa thì không rõ.
Việc ông H và ông Đ có tranh chấp thì ông L không có liên quan. Do vậy, ông L đề
nghị Tòa án không đưa ông L tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 95/2024/DS-ST ngày 29 tháng 7 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Quốc H đối với ông Dương
Văn Đ về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.
- Buộc ông Dương Văn Đ có nghĩa vụ thanh toán cho ông Hoàng Quốc H
tổng số tiền 1.986.659.500 đồng (Một tỷ chín trăm tám mươi sáu triệu sáu trăm
năm mươi chín nghìn năm trăm đồng), trong đó nợ gốc 1.850.000.000 đồng và nợ
lãi là 136.659.500 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi
hành án xong, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong khoản tiền nêu trên
thì hàng tháng còn phải trả cho người được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của bị đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng
mặt nên đương sự không thực hiện việc thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Ý kiến của Kiểm sát viên: Về thủ tục tố tụng những người tiến hành tố tụng
và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Về nội dung vụ án; xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử có căn cứ nên
không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ
khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứ hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa ý kiến của đương
sự và ý kiến của Kiểm sát viên
6
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: người đại diện của bị đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng
mặt, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Thanh L có đơn
yêu cầu xét xử vắng mặt, bà Chu Thị Thu H3 vắng mặt nhưng là phiên tòa lần thứ
hai nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 296 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ
gốc 1.850.000.000 đồng theo 04 giấy vay tiền ngày 22/11/2021, ngày 20/01/2022,
ngày 24/01/2022 và ngày 14/02/2022, 04 giấy vay tiền đó thể hiện nội dung người
cho vay là nguyên đơn và người vay là bị đơn, bị đơn thừa nhận 04 giấy vay tiền
này bị đơn viết và ký tên lăn tay. Như vậy, có căn cứ để xác định bị đơn có vay tiền
của nguyên đơn. Tuy nhiên, bị đơn nói rằng thực tế bị đơn vay tiền của ông L, ông
L yêu cầu bị đơn viết giấy người cho vay là nguyên đơn nhưng ông L không thừa
nhận, nguyên đơn cũng không thừa nhận mà bị đơn không có chứng cứ để chứng
minh nên lời khai của bị đơn không có cơ sở chấp nhận. Nguyên đơn cho rằng bị
đơn chưa trả số tiền gốc. Bị đơn cho rằng đã trả cho nguyên đơn số tiền
2.700.000.000 đồng bằng hình thức nhờ bà H3 chuyển khoản giùm cho bị đơn qua
tài khoản của ông L, nhưng ông L không thừa nhận, nguyên đơn cũng không nhận
số tiền 2.700.000.000 đồng do ông L đưa. Đồng thời, nguyên đơn, bị đơn không có
thỏa thuận việc trả nợ giùm như bị đơn khai nên lời khai của bị đơn không có căn
cứ. Việc bị đơn cho rằng đã nhờ bà H3 chuyển khoản trả tiền cho ông L thì giữa
ông L, bà H3 và bị đơn sẽ giải quyết vụ án khác khi các đương sự có đơn yêu cầu.
Việc vay tiền giữa nguyên đơn và bị đơn không có thỏa thuận về thời gian trả
nợ. Nguyên đơn có thông báo cho bị đơn để yêu cầu trả nợ trước khi khởi kiện
nhưng bị đơn không nhận được thông báo của nguyên đơn. Việc thông báo này để
xác định thời gian tính lãi do đó nguyên đơn không yêu cầu tính lãi ngày nguyên
đơn thông báo mà Tòa án cấp sơ thẩm tính lãi sau đó là ngày 02/11/2023 là đảm
bảo quyền lợi cho bị đơn nên không ảnh hưởng đến việc bị đơn chưa nhận được
thông báo cho nên bị đơn viện lý do này yêu cầu đình chỉ việc giải quyết vụ án do
chưa đủ điều kiện khởi kiện là không có căn cứ. Về yêu cầu tính lãi của Tòa án cấp
sơ thẩm là có căn cứ. Xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử có căn cứ nên không có căn
cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, cần phải giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ
thẩm là có căn cứ.
Án phí dân sự phúc thẩm: người kháng cáo phải nộp.
Vì các lẽ trên,
7
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 148 và khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Dương Văn Đ.
2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 95/2024/DS-ST ngày 29 tháng 7
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn Dương Văn Đ phải nộp số tiền 300.000
đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng theo Biên lai thu số 0000405 ngày
13/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố T;
- TAND thành phố T;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Ngô Thị Bích Diệp
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 222/2025/DS-PT ngày 01/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 198/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Bản án số 195/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Bản án số 207/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Bản án số 177/2025/DS-PT ngày 21/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm