Bản án số 135/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 135/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 135/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 135/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa bà N và bà G
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 135/2025/DS-PT
Ngày: 27 - 3 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Cao Khánh.
Các Thẩm phán: Ông Đặng Minh Trung;
Bà Châu Minh Hoàng.
- Thư ký phiên tòa: Trần Phương Linh - Là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Văn Điện- Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Mau xét xử
phúc thẩm ng khai vụ án dân sthụ số 21/2025/TLPT-DS ngày 21 tháng 01
năm 2025.
Do Bản án dân s thẩm số: 421/2024/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 56/2025/QĐ-PT ngày 06
tháng 02 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, giữa:
Nguyên đơn: Nguyễn Cẩm N; sinh m: 1986; trú tại: Ấp E, T,
thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Bị đơn: Huỳnh Thị G; sinh năm: 1961; cư trú tại: Ấp C, xã T, thành phố
C, tỉnh Cà Mau.
Do có kháng cáo của:
Huỳnh Thị G là bị đơn.
Nguyễn Cẩm N, bà Huỳnh Thị G có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án được bổ sung
tại phiên tòa, nguyên đơn Nguyễn Cẩm N trình bày: Từ năm 2017, G hỏi
vay tôi nhiều lần và trả nhưng không làm biên nhận, đến ngày 02/02/2019
hai bên chốt nợ làm biên nhận G nợ số tiền 35.000.000đ, lãi suất thoả
thuận 2%/tháng. Tuy nhiên từ ngày chốt nợ đến nay G không trả vốn lãi.
2
Nay tôi yêu cầu G trả tôi 35.000.000đ lãi suất 20%/năm từ ngày 02/02/2019
đến ngày 02/10/2024 68 tháng với số tiền lãi 39.508.000đ. Tổng vốn lãi
74.508.000đ. Khi làm biên nhận ngày 02/02/2019 do chốt nhiều khớp chỉ tính
tiền vốn, khi đó chỉ 33 triệu mấy, đưa cho bà G thêm một triệu mấy để chẳn
35 triệu đồng, không tiền lãi. Đối với biên nhận G cung cấp chữ viết của
tôi viết vào ngày 16/9/2019, nhưng đây tiền trả cho khoản tiền vay khác theo 03
biên nhận trước đó của bà G (biên nhận ngày 07/11/2017, biên nhận ngày
07/12/2017 và biên nhận ngày 07/4/2018), hiện cả 03 biên nhận này tôi còn giữ, do
khi trả G chưa trả đủ nên tôi chỉ ghi nội dung bà G trả chkhông tên
vẫn giữ biên nhận, số tiền G trả cho 03 khoản vay này chưa đủ, còn
12.000.000đ nhưng do thấy G khó khăn cũng đã trả lãi nên tôi cho G,
không yêu cầu. Tôi chỉ yêu cầu đối với Biên nhận ngày 02/02/2019 số tiền
35.000.000đ, không có liên quan đến 03 biên nhận.
Huỳnh Thị G trình bày: Trước đây vào tháng 6/2017 tôi vay Nhung
5.000.000đ, sau đó vay nhiều lần, tổng số tiền 12.000.000đ, lãi mỗi tháng tôi
đóng 3.000.000đ, chia làm 3 lần đóng, nhưng tôi không khả năng đóng lãi.
Đến cuối năm 2018 N có tính vốn lãi lên 20.000.000đ, lãi vẫn tính mỗi tháng là
3.000.000đ. Đến tháng 2/2019 thì N tính vốnlãi cộng lên thành 35.000.00
N yêu cầu tôi viết biên nhận, tôi xin N trả vốn gốc 12.000.000đ
ngưng tính lãi nhưng N không đồng ý. Sau đó tôi đưa N từ ngày 30/7/2019 đến
ngày 16/9/2019 số tiền 15.500.00 (lần thứ nhất đưa 4.000.000đ vào ngày
30/7/2019; đưa 4.000.000đ vào ngày 15/8/2019; đưa 6.000.000đ vào ngày
30/8/2019 và đưa 1.500.000đ vào ngày 16/9/2019. Cùng ngày 16/9/2019 tôi có yêu
cầu N viết biên nhận N nói do tôi chưa trả hết số tiền lãi nên N chỉ ghi để nhớ
không tên. Từ ngày 16/9/2019 đến nay tôi không còn đóng tiền cho N nữa.
Nay tôi chỉ thừa nhận còn nợ N số tiền 12.000.000đ tiền gốc như Biên nhận ngày
16/9/2019 và xin bỏ lãi do tôi đã đóng lãi nhiều cho N và hiện hoàn cảnh tôi khó
khăn.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 421/2024/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau quyết định (tóm tắt).
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Cẩm N.
Buộc Huỳnh Thị G trả cho Nguyễn Cẩm N số tiền 74.508.000đ đồng
(trong đó nợ gốc là 35.000.000 đồng và lãi là 39.508.000 đồng).
Ngoài ra, án thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, trường hợp thi
hành án và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 30/12/2024 Huỳnh Thị G kháng cáo một phần bản án thẩm, đề
nghị cấp phúc thẩm xem xét theo hướng chấp nhận lời trình bày theo đơn kháng
cáo của bà.
3
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn Huỳnh Thị G nộp cho Tòa án 01 thẻ nhớ ghi âm ghi hình cuộc
điện thoại giữa N với con của bà, đồng thời G giữ nguyên nội dung kháng
cáo, bà G trình bày:
Số tiền 15.500.00đã trả cho N số tiền trả cho số tiền
35.000.000đ trên giấy nợ nhưng khi đó trả không đủ nên N không làm lại
giấy nợ khác vẫn giữ lại giấy nợ 35.000.000đ. Do đó chỉ còn nợ N
19.500.000đ (trong đó vốn 12.000.000đ). Các mốc thời gian đã trả tiền như
sau:
Ngày 30/7/2019 4.000.000đ; ngày 15/8/2019 4.000.000đ; ngày 30/8/2019
6.000.000đ; ngày 16/9/2019 1.500.000đ.
G xác định trước lúc ghi giấy nợ 35.000.000đ thì đã đóng lãi rất
nhiều lần cho bà N, với lãi xuất t5% đến 10%, bằng chứng file ghi âm cuộc
điện thoại giữa bà N con của bà G. Nay bà G yêu cầu Hội đồng xét xử sửa án sơ
thẩm, chấp nhận kháng cáo là chỉ còn thiếu N 19.500.000đ vốn lãi (vốn
12.000.000đ).
Nguyên đơn Nguyễn Cẩm N yêu cầu Hội đồng xét x không chấp nhận
kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên tòa phát
biểu:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư tiến hành đúng quy định
pháp luật tố tụng dân sự; Các đương sự chấp hành đúng với quyền nghĩa v
theo pháp luật quy định.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của Huỳnh Thị G, giữ nguyên Bản án
dân sự thẩm s421/2024/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét đơn kháng cáo của bị đơn Huỳnh Thị G nộp trong thời hạn qui định của
pháp luật. Vtố tụng, quan hệ tranh chấp, thời hiệu khởi kiện thẩm quyền giải
quyết đã được cấp sơ thẩm xác định và thực hiện đúng theo qui định pháp luật.
Xét kháng cáo của bà Huỳnh Thị G, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] N bà G thừa nhận 04 biên nhận tiêu đề “Biên nhận tiền mặt”,
tuần t vào các ngày 07/11/2017, số tiền 7.000.000đ; ngày 7/12/2017, số tiền
5.000.000đ; ngày 7/4/2018, số tiền 17.000.000đ; ngày 02/12/2019, số tiền
35.000.000đ, 04 biên nhận trên đều do G ký (bút lục 39, 40, 41, 42).
[2] Đối với biên nhận có tiêu đề “Biên nhận” (bút lục 38) thì bà N xác định do
N viết, viết vào ngày 16 tháng 9 nhưng không ghi năm. N G đều xác
4
định vào năm 2019. Nội dung biên nhận thể hiện: “Con Nguyễn Cẩm N nhận gì
Gọn 3 lần 14.000.000 triệu. Nay 16 9 1.500 một triệu năm trăm. Trước tháng 5
còn thiếu con 12.000.000 triệu.”.
[3] Như vậy, giao dịch giữa N G được thể hiện 05 biên nhận cả
hai cùng thừa nhận, gồm:
04 biên nhận tiêu đề “Biên nhận tiền mặt” như mục [1], do G 01
biên nhận tiêu đề “Biên nhận” ngày 16/9/2019 do bà N viết như mục [2].
[4] Tại phiên tòa thẩm phúc thẩm, N giải trình về biên nhận do
viết vào ngày 16/9/2019, như sau:
“Đối với biên nhận bà G cung cấp là chữ viết của tôi viết vào ngày 16/9/2019,
nhưng đây là tiền trả cho khoản tiền vay khác theo 03 biên nhận trước đó của G
(biên nhận ngày 07/11/2017, biên nhận ngày 07/12/2017 và biên nhận ngày
07/4/2018), hiện cả 03 biên nhận này tôi còn giữ, do khi trả G chưa trả đủ n
tôi chỉ ghi nội dung G trả chứ không tên vẫn giữ biên nhận, số tiền
G trả cho 03 khoản vay này chưa đủ, còn 12.000.000đ nhưng do thấy G khó
khăn và cũng đã có trả lãi nên tôi cho G, không yêu cầu. Tôi chỉ yêu cầu đối
với Biên nhận ngày 02/02/2019 số tiền 35.000.000đ”.
[5] Lời trình bày của bà N nêu tại mục [4] như trên có mâu thuẫn, bởi lẽ:
- Đối với 03 biên nhận: Ngày 07/11/2017, số tiền 7.000.000đ; ngày
7/12/2017, số tiền 5.000.000đ; ngày 7/4/2018, số tiền 17.000.000đ, thì tổng số tiền
là 29.000.000đ.
- Theo Biên nhận do N viết vào ngày 16/9/2019 lời trình bày của bà
nhung tại tiểu mục [2.3] thì tổng số tiền G trả cho N đối với 03 biên nhận
ngày 07/11/2017, 7/12/2017 7/4/2018, 15.500.000đ, G còn thiếu
12.000.000đ”.
- Mâu thuẫn: 03 biên nhận G nợ tổng 29.000.000đ, G đã trả
15.500.000đ, thì G phải còn thiếu 13.500.000đ, chứ không phải 12.000.00
như bà N ghi trong biên nhận ngày 16/9/2019 và lời trình bày của bà N tại mục [4].
Do đó, lời trình bày, giải trình của N đối với số tiền 15.500.000đ thể hiện
trong biên nhận ngày 16/9/2019, là G trả cho các khoản vay ngày 07/11/2017,
7/12/2017 và 7/4/2018, là không có căn cứ.
[6] Tại phiên tòa phúc thẩm, G cung cấp chứng cứ mới là 01 thẻ nhớ
(USB) ghi âm cuộc trò chuyện qua điện thoại giữa N với con G chị
Nguyễn Thị Bích Đ ghi vào ngày 24/10/2024. Tại phiên tòa phúc thẩm, sau khi
nghe đoạn ghi âm, N thừa nhận tiếng nói trong đoạn ghi âm tiếng của nói
chuyện với con bà G, nội dung trao đổi như trong đoạn ghi âm là có thật.
Nhận thấy, nội dung đoạn ghi âm có đoạn thể hiện:
Con G (Nguyễn Thị Bích Đ) nói: “Trong những số tiền này cộng dồn
có gồm lãi 5 phân và lãi 10 phân, đúng không, mà nhiều lần”.
5
Bà N nói: Ừ.
[7] Với việc N thừa nhận âm thanh trong USB tiếng nói của nội
dung trao đổi giữa bà và con bà G là có thật, thì nội dung trong đoạn ghi âm là một
phần căn cứ để Hội đồng xét xử xác định G vay tiền của N, lãi suất từ 5%
đến 10%, các biên nhận sau thể hiện cộng dồn vốn và lãi chậm trả.
[8] Tại phiên tòa thẩm phúc thẩm, G giải trình về số tiền vay của
N như sau:
Trước đây vào tháng 6/2017 tôi vay Nhung 5.000.000đ, sau đó vay
nhiều lần, tổng số tiền 12.000.000đ, lãi mỗi tháng tôi đóng 3.000.000đ, chia
làm 3 lần đóng, nhưng tôi không khả năng đóng lãi. Đến cuối năm 2018 N
tính vốn lãi lên 20.000.000đ, lãi vẫn tính mỗi tháng 3.000.000đ. Đến tháng
2/2019 thì N có tính vốn và lãi cộng lên thành 35.000.000đ và N có yêu cầu tôi viết
biên nhận, tôi xin N trả vốn gốc 12.000.000đ và ngưng tính lãi nhưng N
không đồng ý. Sau đó tôi đưa N từ ngày 30/7/2019 đến ngày 16/9/2019 số tiền
15.500.000đ (lần thứ nhất đưa 4.000.000đ vào ngày 30/7/2019; đưa 4.000.000đ
vào ngày 15/8/2019; đưa 6.000.000đ vào ngày 30/8/2019 đưa 1.500.000đ vào
ngày 16/9/2019. Cùng ngày 16/9/2019 tôi có yêu cầu N viết biên nhận N có nói do
tôi chưa trả hết s tiền lãi nên N chỉ ghi để nhớ không tên. Từ ngày
16/9/2019 đến nay tôi không còn đóng tiền cho N nữa. Nay tôi chỉ thừa nhận còn
nợ N số tiền 12.000.000đ tiền gốc như Biên nhận ngày 16/9/2019 lãi
7.500.000đ, tổng số tiền là 19.500.000đ.
[9] Từ những chứng cứ, tình tiết nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định
bản chất của sự việc như sau:
G vay tiền của N, lãi suất từ 5% đến 10%, các biên nhận sau thể hiện
cộng dồn vốn lãi chậm trả, cho đến biên nhận ngày 02/12/2019, số tiền
35.000.000đ. Ngày 16/9/2019 G trả 15.500.000đ là trả cho biên nhận ngày
02/12/2019 (35.000.000đ), còn thiếu 19.500.000đ (bà G cũng thừa nhận còn thiếu
bà N 19.500.000đ nhưng cho là gồm vốn và lãi).
[10] Việc G trình bày bà trả lãi nhiều lần với lãi suất 5% đến 10% nhưng
không chứng minh, giải được về số tiền lãi đã đóng cụ thể, do đó Hội đồng
xét xử không có căn cứ tính lãi lại.
[11] Đối với nội dung ghi cuối biên nhận ngày 16/9/2019: “Trước tháng 5 còn
thiếu con 12.000.000đ”, số tiền này N không có yêu cầu.
[12] Do có căn cứ xác định đến ngày 16/9/2019 bà G còn thiếu bà N
19.500.000đ, nên số tiền này được tính lãi đến ngày 02/10/2024 (theo yêu cầu của
bà N), với lãi suất 20%/năm. Số tiền bà G phải trả, cụ thể:
16/9/2019 đến 02/10/2024 là 60 tháng 16 ngày. Lãi 1,66%/tháng.
(19.500.000đ x 1,66%) x 60 tháng 16 ngày = 19.594.500đ (làm tròn).
Tổng vốn và lãi G phải trả: 19.500.000đ + 19.594.500đ = 39.094.500đ.
6
[13] Bà N bị bác yêu cầu khởi kiện, với số tiền:
74.508.000đ – 39.094.500đ = 35.413.500đ.
[14] Từ tình tiết mới qua đoạn ghi âm, kết hợp với những chứng cứ, phân tích
nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bà Huỳnh
Thị G, sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 421/2024/DS-ST ngày 18 tháng 12
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
[15] Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyễn Cẩm N phải chịu 1.770.000đ (làm tròn).
Huỳnh Thị G là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí, nên được miễn
án phí.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Huỳnh Thị G không phải chịu (đã được miễn
dự nộp án phí).
[16] Các quyết định khác của án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng Dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Huỳnh Thị G.
Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số: 421/2024/DS-ST ngày 18 tháng 12
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
Áp dụng Điều 463, 466, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Cẩm N.
Buộc Huỳnh Thị G trả cho Nguyễn Cẩm N số tiền 39.094.500đ (ba
mươi chín triệu không trăm chín mươi bốn ngàn năm trăm đồng), trong đó nợ gc
là 19.500.000đ và lãi là 19.594.500đ.
Kể từ ngày bà N có đơn yêu cầu thi hành án, G không tự nguyện thi hành
xong, thì phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền thời gian chậm
thi hành.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Cẩm N, với
số tiền 35.413.500đ.
7
3. Án phí
- Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Nguyễn Cẩm N phải chịu 1.770.000đ (một triệu bảy trăm bảy mươi ngàn
đồng). Ngày 03/10/2024 bà N đã dự nộp 1.866.000đ, theo Biên lai số 0009366, của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Mau, Nguyễn Cẩm N được nhận lại
96.000đ.
Huỳnh Thị G được miễn án phí.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Huỳnh Thị G không phải chịu.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân squyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
4. Các quyết định khác của án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau;
- Chi cục THADS Thành Phố Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT (TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Cao Khánh
8
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Đặng Minh Trung - Châu Minh Hoàng
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Cao Khánh
9
Tải về
Bản án số 135/2025/DS-PT Bản án số 135/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 135/2025/DS-PT Bản án số 135/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất