Bản án số 140/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 140/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 140/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 140/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 140/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Tháp |
Số hiệu: | 140/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG THÁP
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 140/2025/DS-PT
Ngày: 25-3-2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng
mua bán tài sản và hợp đồng
vay tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hứa Quang Thông
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Tuấn Anh
Ông Ngô Tấn Lợi
- Thư ký phiên toà: Ông Lê Vũ Đình Quang - Thư k Tòa án nhân dân tỉnh
Đng Tháp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp tham gia phiên toà:
Bà Trần Thị Điểu - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 20/01, ngày 20/02, ngày 20/3 và ngày 25/3/2025 tại trụ sở
Tòa án nhân dân tỉnh Đng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ l
số: 480/2024/TLPT-DS ngày 31 tháng 10 năm 2024, về việc “Tranh chấp hợp
đồng mua bán tài sản và hợp đồng vay tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2024/DS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Hng Ngự bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 768/2024/QĐ-PT ngày
27 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Phước T, sinh năm 1966 – Chủ Hộ kinh doanh cơ
sở chế biến, mua bán lúa gạo Phước Thành Ngọc H (Có mặt).
Địa điểm kinh doanh: Đường N, Khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh
Đng Tháp.
Địa chỉ cư trú: Ấp C, xã P, huyện T, tỉnh Đng Tháp.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Phước T: Luật
sư Dương Thị Như Ý là Luật sư của Văn phòng L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ
(Có mặt).
2. Bị đơn: Nguyễn Văn M, sinh năm 1957 (Có mặt).
Địa chỉ: Số F, đường N, Khóm D, phường A, thành phố H, tỉnh Đng Tháp.
2
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn M: Bà Nguyễn Thị M1,
sinh năm 1963 (Có mặt). Địa chỉ: Tổ B, khóm M, Phường C, thành phố C, tỉnh
Đng Tháp (Hợp đng ủy quyền ngày 03/8/2024).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Dương Thị Á, sinh năm 1963.
Địa chỉ: Số F, đường N, Khóm D, phường A, thành phố H, tỉnh Đng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Dương Thị Á: Bà Nguyễn Thị M1,
sinh năm 1963 (Có mặt). Địa chỉ: Tổ B, khóm M, Phường C, thành phố C, tỉnh
Đng Tháp (Hợp đng ủy quyền ngày 10/3/2025).
3.2. Nguyễn Thị Thanh T1, sinh năm 1967 (Có mặt).
3.3. H Tấn K, sinh năm 1964 (Có mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện H, Đng Tháp.
4. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Phước T - Chủ Hộ kinh doanh cơ sở
chế biến, mua bán lúa gạo Phước Thành Ngọc H là nguyên đơn, ông Nguyễn
Văn M là bị đơn, bà Dương Thị Á, bà Nguyễn Thị Thanh T1 là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG V ÁN:
Nguyên đơn ông Nguyễn Phước T – Chủ Hộ kinh doanh cơ sở chế biến,
mua bán lúa gạo Phước Thành Ngọc H trình bày: Ông là chủ Hộ kinh doanh
cơ sở chế biến, mua bán lúa gạo Phước Thành Ngọc H, từ năm 2018 đến năm
2019 ông có bán thức ăn chăn nuôi cá tra cho ông Nguyễn Văn M nhiều lần, tính
tổng cộng tới ngày 15/9/2019 chốt công nợ thì ông M còn nợ tổng số tiền là
3.770.275.000 đng, ông M có k biên nhận công nợ cho ông vào ngày
15/9/2019, do ông tính toán sai nên trong biên nhận công nợ ngày 15/9/2019 ông
ghi nhầm là 3.759.550.000 đng, chứ thật sự số tiền ông M thiếu là
3.770.275.000 đng. Ông M hẹn tới 30/6/2022 sẽ trả dứt điểm số nợ này và lãi
cho ông, nhưng cho tới nay ông M vẫn không trả cho ông, lãi suất hai bên thống
nhất thỏa thuận là 4%/tháng.
Sau khi ông M k biên nhận công nợ ngày 15/9/2019 thì sau đó ông không
nhớ ngày tháng cụ thể thì ông M có trả cho ông được số tiền là 400.000.000
đng, số tiền này ông M chuyển trả lãi cho ông. Nay ông thống nhất cấn trừ
400.000.000 đng này vào tiền lãi.
Theo đơn khởi kiện, ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn
M và vợ là bà Dương Thị Á liên đới trả số tiền mua thức ăn chăn nuôi còn thiếu
là 7.860.653.500 đng (Bảy tỷ tám trăm sáu mươi triệu sáu trăm năm mươi ba
nghìn năm trăm đng), trong đó tiền gốc là 3.770.275.000 đng và tiền lãi đến
ngày 31/10/2023 là 4.090.378.500 đng, lãi tính 02%/tháng từ ngày mua đến
3
ngày khởi kiện và yêu cầu tiếp tục tính tiền lãi phát sinh cho đến khi kết thúc vụ
kiện.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện về tiền
lãi, ông chỉ yêu cầu tính lãi với lãi suất là 1,66%/tháng, ông yêu cầu ông M và
bà Á liên đới trả số tiền mua thức ăn chăn nuôi còn thiếu là 7.693.947.500 đng,
trong đó tiền gốc là 3.770.275.000 đng và tiền lãi theo lãi suất là 1,66%/tháng
là 3.923.672.500 đng.
Ông thừa nhận là ông có vay và thiếu bà Nguyễn Thị Thanh T1 số tiền gốc
là 2.800.000.000 đng, vay nhiều lần, không nhớ cụ thể ngày tháng vay, thời
gian vay đầu tiên khoảng năm 2018, lãi suất thỏa thuận là 4%/tháng, vay không
thế chấp tài sản. Do không có tiền trả gốc và lãi nên vào ngày 22/6/2019 ông mới
ký biên nhận tổng nợ cho bà T1 với số tiền thiếu bà T1 là 3.840.000.000 đng,
nhưng trong số này chỉ có 2.800.000.000 đng là gốc, còn lại là tiền lãi bà T1
cộng vào gốc luôn. Sau đó không nhớ ngày nào thì ông trả cho bà T1 được số
tiền là 420.000.000 đng tiền lãi và còn thiếu lại gốc và lãi lại bà T1 cho tới ngày
hôm nay. Nay, bà T1 yêu cầu ông trả 540.000.000 đng tiền gốc thì ông cũng
thống nhất trả, về lãi suất thì yêu cầu Tòa án tính lãi suất đối với tiền vay của bà
T1 là 0,83%/tháng.
Việc ông M và bà T1 trình bày là có việc thỏa thuận cấn trừ nợ và giao nền
đất gì đó thì ông không thống nhất, không biết việc này, đó là việc giữa bà T1 và
ông M, không liên quan gì đến ông và cũng không liên quan gì đến số tiền mà
ông M thiếu ông. Ông yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án đúng quy định của pháp
luật. Việc ông thiếu tiền bà T1 và việc ông M thiếu tiền ông là hai chuyện khác
nhau, không liên quan gì đến nhau, nên ông không thống nhất là có việc thỏa
thuận cấn trừ nợ này. Ngoài ra, không yêu cầu hay trình bày gì thêm.
Bị đơn ông Nguyễn Văn M trình bày: Ông với nguyên đơn ông Nguyễn
Phước T là bạn bè chí cốt với nhau. Giữa ông với ông T cũng làm ăn mua bán
qua lại với nhau, trước đây ông có nuôi cá tra và có mua thức ăn cho cá của cửa
hàng ông T, việc làm ăn giữa ông và ông T cũng lâu năm, vì bạn bè nên tin tưởng
nhau. Ông mua thiếu ri trả chứ không nợ ông T. Do việc nuôi cá tra không thuận
lợi, kinh tế làm ăn thất bại nên vào năm 2021 ông và ông T mới chốt sổ lại với
nhau và ông có nợ lại ông T số tiền mua thức ăn cho cá số tiền là 3.700.000.000
đng (Ba tỷ bảy trăm triệu đng), sau đó ông trả cho ông T số tiền là 400.000.000
đng (Bốn trăm triệu đng) và còn nợ lại 3.300.000.000 đng (Ba tỷ ba trăm
triệu đng). Do làm ăn kinh tế không thuận lợi nên không có tiền mặt trả cho ông
T được nên giữa ông, ông T và bà Nguyễn Thị Thanh T1 (cả ba là bạn bè chơi
thân với nhau) thống nhất thỏa thuận với nhau là cấn trừ số nợ của ông đang thiếu
ông T qua cho bà T1, vì ông T hiện còn thiếu nợ tiền vay của bà T1 khoảng
4
3.900.000.000 đng (Ba tỷ chín trăm triệu đng). Như vậy, ông không còn nợ
ông T nữa, mà ông T còn nợ lại bà T1 số tiền khoảng là 600.000.000 đng (Sáu
trăm triệu đng). Việc thỏa thuận cấn trừ này có làm văn bản, nhưng lúc đó ông
T nói bận nên không k tên vào văn bản thỏa thuận này, chỉ có ông và bà T1 ký
tên vào văn bản thỏa thuận này.
Sau khi việc thống nhất cấn trừ giữa 03 bên xong thì giữa ông và bà T1 bàn
bạc và đi đến thống nhất là ông sẽ chuyển nhượng phần đất của ông diện tích
khoảng 390m
2
(chiều ngang 13m, chiều dài là 30m), đất thuộc một phần thửa số
28, tờ bản đ số 2, đất tọa lạc tại phường A, thành phố H, tỉnh Đng Tháp hiện
ông đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T1 với giá là
3.300.000.000 đng (Ba tỷ ba trăm triệu đng) vào năm 2021. Phần đất này hiện
ông đang thế chấp Ngân hàng N để vay tiền, chưa giải chấp ra nên không làm
thủ tục sang tên chuyển nhượng đất cho bà T1 được. Tuy nhiên, ông đã giao đất
cho bà T1 quản l từ năm 2021. Sau đó từ năm 2021 đến nay bà T1 cho ông thuê
lại phần đất này mỗi năm giá là 12.000.000 đng/năm.
Nay qua yêu cầu khởi kiện của ông T thì ông không thống nhất vì ông đã
cấn trừ số nợ này qua cho bà T1 ri và ông cũng đã chuyển nhượng và giao đất
cho bà T1 ri, nên ông không còn thiếu tiền gì ông T nữa.
Chữ viết và chữ k trong Thông báo công nợ đề ngày 15/9/2019 (gốc trên
đầu bên phải) và ngày 18/10/2018 (gốc dưới bên trái) thì chữ viết là của ông T
viết, còn chữ k là của ông k, vì lúc đó khoảng 21 giờ tối, ông không nhớ ngày
tháng năm cụ thể, cách đây khoảng 02 đến 03 năm thì ông T có lại ao gần nhà
ông và kêu ông k tên vào biên nhận này, thấy tình nghĩa anh em, bun vì chuyện
làm ăn không thuận lợi và trong người cũng có rượu nên ông k tên cho qua
chuyện, vì lúc đó ông hiện còn đang thiếu tiền mua thức ăn của ông T như nêu ở
trên. Lúc k tên thì chỉ biết k vậy cho qua chuyện, chứ giữa ông và ông T cũng
chưa kết đối chiếu sổ sách lại là thiếu bao nhiêu tiền cụ thể. Đây là chỉ là bản
thông báo nợ chứ không phải bản đối chiếu công nợ, vì giữa ông và ông T chưa
có đối chiếu lại công nợ cụ thể là bao nhiêu. Ông không tranh chấp hay yêu cầu
Tòa án giải quyết gì. Đề nghị Tòa án giải quyết đúng pháp luật. Ngoài ra, không
yêu cầu hay trình bày gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh T1 trình
bày: Vào khoảng năm 2018 đến năm 2019 thì ông T có vay của bà nhiều lần,
không nhớ rõ ngày tháng, lúc vay thì không có biên nhận vì tình nghĩa anh em
bạn bè ngoài xã hội. Sau đó ngày 22/6/2019 thì giữa bà và ông T mới chốt lại
công nợ thì ông T còn nợ số tiền gốc là 3.840.000.000 đng, lãi suất thỏa thuận
là 4%/tháng. Sau đó từ tháng 6/2019 đến tháng 9/2019 ông T có trả được số tiền
5
lãi là 420.000.000 đng, không nhớ trả ngày nào và còn thiếu lại tiền lãi là
41.280.000 đng. Từ đó cho tới nay ông T không trả gốc và lãi cho bà nữa.
Vì giữa bà, ông T và ông M là bạn bè chơi chung với nhau ngoài xã hội
nên vào tháng 3/2021 cả ba mới đi đến thống nhất là cấn trừ số nợ của ông M đối
với ông T sang qua bà. Như vậy là ông M nợ bà, ông M không còn nợ ông T nữa
và ông T còn nợ bà số tiền sau khi tính toán cấn trừ giữa ba bên là 540.000.000
đng gốc và lãi tính từ tháng 10/2019 cho tới nay, cộng với tiền lãi còn nợ trước
là 41.280.000 đng từ tháng 6/2019 đến tháng 9/2019 chưa trả xong. Ba bên có
viết tờ thỏa thuận, nhưng do ông T nói bận việc nên không k vào thỏa thuận
này. Sau đó cũng năm 2021 thì ông M và bà thống nhất là ông M chuyển nhượng
cho bà diện tích đất là 390m
2
(chiều ngang 13m, chiều dài là 30m), thuộc một
phần thửa số 28, tờ bản đ số 2, đất tọa lạc tại phường A, thành phố H, tỉnh Đng
Tháp của ông M đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất qua bà để
cấn trừ toàn bộ số nợ này. Phần diện tích đất này hiện ông M đang thế chấp Ngân
hàng N để vay tiền, chưa giải chấp ra nên chưa làm thủ tục sang tên được. Sau
đó bà thống nhất cho ông M thuê lại phần đất này với giá là 12.000.000 đng/năm
cho đến nay.
Như vậy, theo thỏa thuận trên thì hiện nay ông T nợ tiền bà, ông M không
còn nợ ông T nữa. Yêu cầu Tòa án giải quyết theo đúng quy định pháp luật và
ghi nhận thỏa thuận giữa ba bên nêu trên là hợp pháp. Vì sau đó ông T có nhắn
tin zalo cho bà với nội dung về việc cấn trừ nợ nêu trên, nói bà đòi nợ ông M đi
và trong biên nhận vay tiền ngày 03/02/2019 và 15/5/2019 thì ông T nhận tiền
vay tiền của bà thì ông T có ghi trong biên nhận là ông M bảo lãnh số tiền vay
này.
Nay bà có yêu cầu độc lập, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn
Phước T trả cho bà số tiền vay còn thiếu sau khi cấn trừ tiền của ông M là
2.030.280.000 đng (Hai tỷ không trăm ba mươi triệu hai trăm tám mươi nghìn
đng), trong đó tiền gốc là 540.000.000 đng, tiền lãi 1.490.280.000 đng, lãi
suất 20%/01 năm. Trong đó tiền lãi cũ còn thiếu là 41.280.000 đng, tiền lãi từ
tháng 9/2019 đến ngày 26/3/2021 của số tiền 3.840.000.000 đng thời gian 18
tháng là 1.152.000.000 đng, tiền lãi từ ngày 27/3/2021 đến ngày 15/01/2024
của số tiền gốc 540.000.000 đng thời gian 33 tháng là 297.000.000 đng và yêu
cầu tính lãi số tiền gốc 540.000.000 đng đến khi vụ án giải quyết xong.
Việc các bên thỏa thuận cấn trừ nợ là tự nguyện và các bên cũng đã thỏa
thuận ri nên bây giờ phải thực hiện theo, ông T không được lật lọng. Việc thỏa
thuận này là hợp pháp vì các bên đã thống nhất. Yêu cầu Tòa án công nhận việc
thỏa thuận cấn trừ nợ này giữa ba bên. Bà không khởi kiện tranh chấp buộc ông
T trả cho bà tổng tiền mà ông T vay của bà. Trong trường hợp nếu Tòa án giải
6
quyết không công nhận thỏa thuận cấn trừ giữa bà, ông T và ông M nêu trên thì
bà sẽ khởi kiện ông T đối với số tiền vay gốc mà ông T thiếu còn lại là
3.300.000.000 đng (tổng số tiền ông T vay thiếu là 3.840.000.000 đng trừ số
tiền mà bà yêu cầu ông T trả trong vụ án này là 540.000.000 đng) bằng vụ án
khác. Đối với hợp đng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cấn trừ nợ giữa bà và
ông M thì bà cũng không tranh chấp hay yêu cầu Tòa án giải quyết gì trong vụ
án này. Trong trường hợp nếu Tòa án giải quyết không công nhận thỏa thuận cấn
trừ nợ giữa bà, ông T và ông M nêu trên thì bà và ông M tự giải quyết với nhau
đối với hợp đng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này, còn nếu sau đó giữa bà
và ông M có tranh chấp thì bà sẽ khởi kiện ông M bằng vụ án khác. Ngoài ra
không yêu cầu hay trình bày gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hồ Tấn K trình bày: Thống
nhất theo lời trình bày và yêu cầu của vợ là bà Nguyễn Thị Thanh T1, không
trình bày hay yêu cầu gì bổ sung thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Dương Thị Á: Vắng mặt,
không có kiến.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2024/DS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự (viết tắt bản án sơ thẩm) đã xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Phước T – Chủ Hộ kinh doanh cơ sở chế biến, mua bán lúa gạo Phước Thành
Ngọc H.
Buộc ông Nguyễn Văn M và bà Dương Thị Á phải có nghĩa vụ liên đới trả
cho ông Nguyễn Phước T – Chủ Hộ kinh doanh cơ sở chế biến, mua bán lúa gạo
Phước Thành Ngọc H số tiền mua thứa ăn chăn nuôi còn nợ là 7.106.142.000
đng (Bảy tỷ một trăm lẻ sáu triệu một trăm bốn mươi hai nghìn đng). Trong
đó 3.759.550.000 đng gốc và lãi là 3.346.592.000 đng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Thanh T1.
Buộc ông Nguyễn Phước T phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Thanh
T1 số tiền vay còn nợ là 1.822.396.000 đng (Một tỷ tám trăm hai mươi hai triệu
ba trăm chín mươi sáu nghìn đng). Trong đó gốc 540.000.000 đng và lãi là
1.282.396.000 đng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
7
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Văn M và bà Dương Thị Á là người cao tuổi nên được miễn
nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Phước T phải chịu án phí sơ thẩm là 94.183.500 đng. Tiền
án phí được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà ông T đã nộp là 58.130.000
đng theo biên lai thu số 0001753, ngày 03/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Hng Ngự, tỉnh Đng Tháp. Ông Nguyễn Phước T phải nộp thêm
số tiền án phí sơ thẩm là 36.053.500 đng (Ba mươi sáu triệu không trăm năm
mươi ba nghìn năm trăm đng).
Bà Nguyễn Thị Thanh T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 10.394.000
đng. Tiền án phí được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà T1 đã nộp là
36.302.500 đng theo biên lai thu số 0001956, ngày 16/02/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố Hng Ngự, tỉnh Đng Tháp. Bà T1 được nhận lại số
tiền đã nộp là 25.908.500 đng (Hai mươi lăm triệu chín trăm lẻ tám nghìn năm
trăm đng).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên thời hạn, quyền kháng cáo và quyền,
nghĩa vụ, thời hiệu thi hành án của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm. Ông Nguyễn Phước T - Chủ Hộ kinh doanh cơ sở
chế biến, mua bán lúa gạo Phước Thành Ngọc H là nguyên đơn, ông Nguyễn
Văn M là bị đơn, bà Dương Thị Á, bà Nguyễn Thị Thanh T1 là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan không thống nhất bản án sơ thẩm, nên đã kháng cáo.
1. Ông Nguyễn Phước T – Chủ hộ kinh doanh cơ sở chế biến, mua bán lúa
gạo Phước Thành Ngọc H yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm
theo hướng:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T buộc ông Nguyễn Văn
M và bà Dương Thị Á có trách nhiệm liên đới trả cho ông T số tiền mua thức ăn
cho cá còn thiếu là 7.670.665.000 đng bao gm tiền nợ gốc là 3.759.550.000
đng và tiền lãi là 4.311.115.339 đng.
- Không chấp nhận yêu cầu của bà T1 về việc buộc ông T có trách nhiệm
trả cho bà T1 số tiền còn nợ là 1.822.396.000 đng (trong đó gốc là 540.000.000
đng, tiền lãi là 1.282.396.000 đng), yêu cầu điều chỉnh lại mức lãi suất
0,83%/tháng.
2. Ông Nguyễn Văn M yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm,
ông M không đng trả tiền mua thức ăn nuôi cá, không đng trả lãi suất
8
1,66%/tháng và không đng cấn trừ 400.000.000 đng trả vào tiền lãi suất, yêu
cầu giám định chữ k, chữ viết tay trong bản thông báo vì không phải chữ k và
chữ viết của ông ở hàng cuối.
3. Bà Dương Thị Á yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm, bà
Á không đng trả tiền mua thức ăn nuôi cá, không đng trả lãi suất
1,66%/tháng và không đng cấn trừ 400.000.000 đng trả vào tiền lãi suất.
4. Bà Nguyễn Thị Thanh T1 yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ
thẩm, không chấp nhận khởi kiện của ông T, chấp nhận sự thỏa thuận cấn trừ nợ
giữa 03 bên: bà T1, ông T và ông M, cấn trừ vốn và lãi mà ông M nợ ông T số
tiền 3.300.000.000 đng và đã cấn trừ xong.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Luật sư Dương Thị Như Ý là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
ông Nguyễn Phước T trình bày: Ông T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị
Hội đng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của ông T buộc ông Nguyễn Văn M và bà Dương Thị Á có trách nhiệm liên
đới trả cho ông T số tiền mua thức ăn cho cá còn thiếu là 7.670.665.000 đng
bao gm tiền nợ gốc là 3.759.550.000 đng và tiền lãi đến ngày xét xử sơ thẩm
là 4.311.115.339 đng. Không chấp nhận yêu cầu của bà T1 về việc buộc ông T
có trách nhiệm trả cho bà T1 số tiền còn nợ là 1.822.396.000 đng (trong đó gốc
là 540.000.000 đng, tiền lãi là 1.282.396.000 đng), yêu cầu điều chỉnh lại mức
lãi suất 0,83%/tháng. Bởi các căn cứ sau:
Thứ nhất, phần tiền lãi cấp sơ thẩm tính từ ngày 15/9/2019, không tính lãi
theo từng đợt ông M, bà Á mua hàng nợ ông T và ông T có giao nộp cho Tòa án
sơ thẩm bảng kê tính lãi theo từng đợt mua hàng của ông M, khi mua bán hai bên
có thống nhất thỏa thuận lãi chậm trả trên từng lần mua hàng là 4%/tháng.
Thứ hai, Biên nhận ngày 22/6/2019, ông T chỉ nợ bà T1 số tiền
3.790.000.000 đng, trong đó gốc 2.800.000.000 đng và tiền lãi 990.000.000
đng. Số tiền 50.000.000 đng là bà T1 ghi thêm chứ ông T không có đng và
không có k tên. Hai bên thống nhất sau khi k biên nhận ngày 22/6/2019 thì bà
T1 ngưng không tính lãi. Sau đó, ông T có trả được cho bà T1 được số tiền
420.000.000 đng trong tổng số tiền 3.790.000.000 đng nên tới thời điểm hiện
tại ông T chỉ còn nợ bà T1 3.370.000.000 đng.
Đối với kháng cáo của ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thanh T1 thì ông
T không thống nhất.
- Ông Nguyễn Phước T trình bày: Thống nhất trình bày của Luật sư, không
bổ sung gì thêm.
9
- Bà Nguyễn Thị M1 là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn
M trình bày: Không đng kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị Hội đng xét xử
sửa bản án sơ thẩm theo hướng ông M không đng trả tiền mua thức ăn nuôi cá,
không đng trả lãi suất 1,66%/tháng và không đng cấn trừ 400.000.000 đng
trả vào tiền lãi suất, yêu cầu giám định chữ k, chữ viết tay trong bản thông báo
vì không phải chữ k và chữ viết của ông ở hàng cuối. Bởi các l do:
Thứ nhất, ông M, ông T và bà T1 đã thỏa thuận cấn trừ gốc và lãi
3.300.000.000 đng qua cho bà T1 nên ông M không còn nợ gì ông T nữa. Ông
T có xác nhận trong tin nhắn điện thoại ngày 21/3/2022 “Kể từ ngày hôm nay tôi
không đòi Út Mương nữa, chị tự xử đi”.
Thứ hai, ông M không thống nhất Thông báo của ông T giao nộp vì thông
báo không có ngày tháng năm, không thể hiện người nhận hàng, số lượng mua
bán không đúng, không phải là bản đối chiếu công nợ giữa hai bên. Ông M có ký
tên vào thông báo nhưng thời điểm k tên là ông M không được tỉnh táo do đã sử
dụng rượu, bia và không có tâm trạng bị người mua giựt tiền mua cá. Còn phần
cuối ở tờ giấy là do ông T tự ghi thêm, không có ngày tháng.
Thứ ba, ông M và ông T chỉ thỏa thuận mua bán thức ăn nuôi cá, không có
thỏa thuận lãi suất chậm trả và không có thỏa thuận thời gian trả nợ nên ông M
không chấp yêu cầu tính lãi 1,66%/tháng.
Trường hợp, không chấp nhận kháng cáo của ông M thì đề nghị Hội đng
xét xử cho đối chất làm rõ số lượng hàng hóa, người nhận vì thực tế ông M chỉ
thừa nhận có nhận hàng theo các hóa đơn có người làm thuê của ông M k nhận
tổng số tiền 1.741.250.000 đng, các hóa đơn không có thể hiện người nào hay ai
k nhận thì không đng trả.
- Bà Nguyễn Thị M1 là người đại diện theo ủy quyền của bà Dương Thị Á
trình bày: Không thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Á không đng
trả tiền mua thức ăn nuôi cá, không đng trả lãi suất 1,66%/tháng và không
đng cấn trừ 400.000.000 đng trả vào tiền lãi suất, vì bà Á hoàn toàn không
biết việc mua bán thức ăn nuôi cá giữa ông M và ông T.
- Bà Nguyễn Thị Thanh T1 trình bày: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa
Bản án sơ thẩm, không chấp nhận khởi kiện của ông T, chấp nhận sự thỏa thuận
cấn trừ nợ giữa 03 bên: bà T1, ông T và ông M, cấn trừ vốn và lãi mà ông M nợ
ông T số tiền 3.300.000.000 đng. Kể từ ngày cấn trừ nợ thì ông M, bà Á đã thỏa
thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà theo sự cấn trừ nợ.
- Ông H Tấn K trình bày: Không có kiến, thống nhất trình bày của bà
Nguyễn Thị Thanh T1, không bổ sung gì thêm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đng Tháp phát biểu kiến:
10
Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm: Thủ tục kháng cáo của ông Nguyễn Phước T, ông Nguyễn Văn
M, bà Dương Thị Á, bà Nguyễn Thị Thanh T1 thực hiện đúng quy định và hợp
lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm
phán, Hội đng xét xử và Thư k phiên tòa kể từ khi thụ l vụ án đến thời điểm
xét xử phúc thẩm đã chấp hành và thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự; Người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và
nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đng xét xử áp dụng khoản 1
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn
Phước T, ông Nguyễn Văn M, bà Dương Thị Á, bà Nguyễn Thị Thanh T1, giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 44/2024/DS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Hng Ngự.
(Kèm theo Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm số 609/PB-
VKS-DS ngày 20/3/2025).
NHN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong h sơ, được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời phát biểu của đại diện
Viện kiểm sát, Hội đng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố Hng Ngự thụ l và giải quyết
sơ thẩm vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và hợp đồng vay tài sản”
là đúng quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1
Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án.
Việc nguyên đơn ông Nguyễn Phước T nộp đơn kháng cáo ngày 29/8/2024, bị
đơn ông Nguyễn Văn M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Dương Thị
Á nộp đơn kháng cáo ngày 27/8/2024 và bà Nguyễn Thị Thanh T1 nộp đơn kháng
cáo ngày 30/8/2024 là trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273 Bộ
luật Tố tụng dân sự, nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Nguyên đơn ông Nguyễn Phước T – Chủ Hộ kinh doanh cơ sở chế biến,
mua bán lúa gạo Phước Thành Ngọc H (gọi tắt là nguyên đơn hay ông Nguyễn
Phước T hay ông T) khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn
M và bà Dương Thị Á liên đới trả số tiền mua thức ăn chăn nuôi còn nợ. Ông M
thừa nhận có nợ tiền mua thức ăn chăn nuôi của ông T, nhưng ông không thống
nhất với yêu cầu khởi kiện của ông T, vì ông cho rằng giữa ông, ông T và bà T1
đã thỏa thuận là cấn trừ số nợ mà ông đang nợ ông T sang qua cho bà T1, vì ông
T cũng đang nợ tiền vay bà T1, nên nay ông không còn nợ ông T nữa, mà ông
11
chỉ còn nợ bà T1. Bà T1 thống nhất với lời trình bày của ông M và yêu cầu ông
T trả cho bà số tiền vay còn nợ sau khi tính toán cấn trừ qua lại với nhau. Ông T
thống nhất là ông có vay và còn nợ tiền bà T1, nhưng ông cho rằng việc ông nợ
tiền bà T1 và việc ông M nợ tiền ông là hai chuyện khác nhau, ông không thống
nhất có việc thỏa thuận cấn trừ nợ qua lại nhau như lời trình bày của ông M và
bà T1.
Từ đó, đã làm phát sinh tranh chấp giữa các đương sự về hợp đng mua
bán tài sản và hợp đng vay tài sản được quy định tại Điều 430 và Điều 463 Bộ
luật Dân sự.
[3] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Phước T:
[3.1]. Kháng cáo yêu cầu chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T
buộc ông Nguyễn Văn M và bà Dương Thị Á có trách nhiệm liên đới trả cho ông
T số tiền mua thức ăn cho cá còn thiếu là 7.670.665.000 đng bao gm tiền nợ
gốc là 3.759.550.000 đng và tiền lãi là 4.311.115.339 đng.
Hội đng xét xử xét thấy:
Các đương sự thừa nhận: Việc ông M nợ tiền mua thức ăn chăn nuôi của
ông T và việc ông T nợ tiền vay của bà T1 là có thật.
Ông M và bà T1 cho rằng cả ba bên (ông T, ông M, bà T1) đã thống nhất
thỏa thuận cấn trừ nợ với nhau, ông M không còn nợ ông T nữa mà cấn trừ qua
ông M nợ bà T1, ông T không nợ bà T1 nữa, thông qua biên nhận nợ đề ngày
26/3/2021, nội dung tin nhắn và 02 biên nhận ngày 03/02/2019, ngày 15/5/2019
âm lịch. Ông T không thống nhất có việc thỏa thuận cấn trừ nợ nêu trên.
Xét thấy lời trình bày của ông M và bà T1 là không có căn cứ, bởi biên
nhận nợ đề ngày 26/3/2021 chỉ có chữ k của ông M, bà Á và sự thống nhất của
bà T1, không có chữ k của ông T. Đối với các tài liệu, chứng cứ theo h sơ vụ
án và đã được thẩm tra tại phiên tòa không thể hiện nội dung ông T thống nhất
cấn trừ nợ giữa ba bên và không phù hợp với thời gian nợ tiền của từng người
với nhau. Do đó, việc thỏa thuận cấn trừ nêu trên không có hiệu lực buộc các bên
phải thi hành theo, nên ông M nợ tiền của ông T thì ông M phải có nghĩa vụ trả
cho ông T và ông T nợ tiền của bà T1 thì ông T phải có nghĩa vụ trả cho bà T1.
Thông báo đề ngày 15/9/2019 nội dung thể hiện số tiền tổng mà ông M nợ
ông T là 3.759.550.000 đng và công nợ trên chưa tính lãi suất theo thỏa thuận
4%/tháng. Thông báo do kế toán của ông Thành lập, có chữ k xác nhận của
khách hàng Nguyễn Văn M. Trong Thông báo còn thể hiện nội dung: “để anh Ú
sắp xếp thanh toán khi bán cá và còn lại đến 30/6/2022 có lãi xuất hai bên đã
thỏa thuận” và có chữ k xác nhận của ông M. Trong quá trình giải quyết và tại
phiên tòa sơ thẩm ông M thừa nhận có nợ tiền mua thức ăn chăn nuôi của ông T
12
3.700.000.000 đng và thừa nhận chữ k trong trong Thông báo ngày 15/9/2019
là của ông, nhưng thời điểm k tên ông không được tỉnh táo do đã sử dụng rượu,
bia, vào trời tối, nghĩ tình nghĩa bạn bè và không có tâm trạng bị người mua giựt
tiền mua cá, kinh doanh không thuận lợi nên k cho qua chuyện, chứ giữa ông
và ông T chưa đối chiếu công nợ lại số tiền cụ thể bao nhiêu. Ông T trình bày số
tiền mà ông M còn nợ gốc là 3.770.275.000 đng nhưng do kế toán tính nhầm
nên mới ghi 3.759.550.000 đng. Nhưng, ông T và ông M đều không có tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình nêu trên là có căn cứ.
Do đó, xác định ông M có nợ ông T số tiền gốc mua thức ăn chăn nuôi là
3.759.550.000 đng và phải có nghĩa vụ trả số tiền này cho ông T.
Thông báo đề ngày 15/9/2019 thể hiện các bên thỏa thuận lãi suất
4%/tháng. Ông T trình bày sau khi ông M k xác nhận trong thông báo ngày
15/9/2019 thì ông M có trả lãi cho ông được số tiền là 400.000.000 đng, nhưng
không xác định được thời gian cụ thể. Ông M trình bày số tiền 400.000.000 đng
này là trả vào tiền gốc chứ không phải trả lãi. Xét thấy, các bên trình bày việc
mua bán giữa các bên diễn ra trước đó, sau này mới k xác nhận ở thông báo
ngày 15/9/2019, các bên không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh hai
bên thống nhất cách thức tính lãi và thời gian tính lãi như thế nào, theo từng đợt
nhận hàng hay sau khi chốt công nợ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tính lãi
1,66%/tháng tính từ ngày 15/9/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm 16/8/2024 và khấu
trừ số tiền ông M trả lãi 400.000.000 đng có cơ sở chấp nhận.
Bà Dương Thị Á cho rằng bà hoàn toàn không biết việc mua bán thức ăn
nuôi cá giữa ông M và ông T nên không đng yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, không đng liên đới trả nợ là không có căn cứ. Bởi, việc mua bán thức ăn
giữa ông T và ông M diễn ra thời gian dài, bà và ông M vẫn còn là vợ chng,
chung sống với nhau. Ngoài ra, bà còn k tên ở biên nhận nợ ngày 26/3/2021 và
thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà T1 để cấn trừ nợ.
Ông M cho rằng mua thứa ăn chăn nuôi để kinh doanh sinh lợi nhuận phục vụ
kinh tế gia đình. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà Á có nghĩa vụ liên đới cùng
ông M trả cho ông Nguyễn Phước T – Chủ Hộ kinh doanh cơ sở chế biến, mua
bán lúa gạo Phước Thành Ngọc H số tiền mua thứa ăn chăn nuôi còn nợ là
7.106.142.000 đng (Trong đó gốc là 3.759.550.000 đng và lãi là 3.346.592.000
đng) là phù hợp.
[3.2]. Kháng cáo yêu cầu không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà T1 về
việc buộc ông T có trách nhiệm trả cho bà T1 số tiền còn nợ là 1.822.396.000
đng (trong đó gốc là 540.000.000 đng, tiền lãi là 1.282.396.000 đng), yêu cầu
điều chỉnh lại mức lãi suất 0,83%/tháng.
Hội đng xét xử xét thấy:
13
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông T thống nhất với biên nhận ngày 22/6/2019 mà
bà T1 khởi kiện, nhưng ông chỉ k tên số tiền thiếu bà T1 là 3.790.000.000 đng,
còn số tiền 50.000.000 đng phía dưới là do bà T1 tự ghi ông không thống nhất.
Căn cứ các tài liệu trong h sơ vụ án thể hiện ông T thừa nhận số tiền
3.840.000.000 đng đã bao gm lãi, gốc chỉ có 2.800.000.000 đng. Ông T
không có tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc thay đổi lời trình bày của mình
và lời trình bày của ông T không được bà T1 thừa nhận nên xác định ông T nợ
bà T1 số tiền gốc là 3.840.000.000 đng.
Bà T1 không yêu cầu ông T trả cho bà tổng tiền mà ông T vay còn nợ bà
trong vụ án này, mà chỉ khởi kiện yêu cầu ông T trả tiền gốc là 540.000.000 đng
và lãi theo từng giai đoạn của từng khoản tiền. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ
xem xét giải quyết yêu cầu này của bà T1 là phù hợp.
Ông T cho rằng có vay của bà T1 với lãi suất thỏa thuận là 4%/tháng, vay
không thế chấp tài sản. Sau khi k biên nhận ngày 22/6/2019 thì ông có trả lãi
cho bà T1 được số tiền là 420.000.000 đng, không xác định được thời gian trả.
Bà T1 cho rằng tháng 6/2019 đến tháng 9/2019 ông T có trả lãi được số tiền
420.000.000 đng, không nhớ trả ngày nào và còn nợ lại tiền lãi là 41.280.000
đng. Từ đó cho tới nay ông T không trả gốc và lãi cho bà nữa nên bà T1 yêu
cầu ông T trả cho bà số tiền vay còn nợ là 2.030.280.000 đng, trong đó tiền gốc
là 540.000.000 đng, tiền lãi 1.490.280.000 đng, lãi suất là 20%/01 năm, trong
đó tiền lãi cũ còn nợ là 41.280.000 đng, tiền lãi từ tháng 9/2019 đến ngày
26/3/2021 của số tiền 3.840.000.000 đng là 18 tháng là 1.152.000.000 đng,
tiền lãi từ ngày 27/3/2021 đến 15/01/2024 của số tiền 540.000.000 đng là 33
tháng là 297.000.000 đng và yêu cầu tính lãi số tiền gốc 540.000.000 đng đến
khi vụ án giải quyết xong.
Do việc thỏa thuận lãi suất 4%/tháng của các đương sự là vượt quá lãi suất
theo quy định pháp luật nên áp dụng mức lãi suất 1,66%/tháng. Số tiền lãi sẽ
được tính như sau:
+ Tiền lãi của số tiền gốc 3.840.000.000 đng x 1,66% x 21 tháng 04 ngày
(tính từ ngày 22/6/2019 đến ngày 26/3/2021) = 1.347.123.000 đng, khấu trừ số
tiền lãi ông T đã trả 420.000.000 đng thì ông T còn nợ lãi là 927.123.000 đng
(1.347.123.000 đng - 420.000.000 đng).
+ Tiền lãi của số tiền gốc 540.000.000 đng x 1,66% x 39 tháng 19 ngày
(tính từ ngày 27/3/2021 đến ngày 16/8/2024) = 355.273.000 đng.
Như vậy, tổng tiền lãi ông T phải trả cho bà T1 là 1.282.396.000 đng
(927.123.000 đng + 355.273.000 đng).
[3.3]. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Phước T vẫn giữ nguyên yêu
14
cầu kháng cáo. Từ những phân tích nêu trên, Hội đng xét xử xét thấy trình bày
của ông T là không có đủ căn cứ, đng thời ông T cũng không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có cơ sở, nên
không được Hội đng xét xử chấp nhận.
[4] Xét kháng của ông Nguyễn Văn M:
[4.1] Kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng ông M không đng
trả tiền mua thức ăn nuôi cá, không đng trả lãi suất 1,66%/tháng và không
đng cấn trừ 400.000.000 đng trả vào tiền lãi suất.
Hội đng xét xử xét thấy:
Từ những phân tích nêu trên [3] và tại phiên tòa phúc thẩm, ông M không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là
có cơ sở, nên không được Hội đng xét xử chấp nhận.
[4.2] Kháng cáo yêu cầu giám định chữ k, chữ viết tay trong bản thông
báo vì không phải chữ k và chữ viết của ông ở hàng cuối.
Hội đng xét xử xét thấy:
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 12/12/2023, Biên bản hòa giải ngày
05/01/2024, Biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày
05/01/2024, Biên bản hòa giải ngày 07/5/2024 ông Nguyễn Văn M thừa nhận chữ
viết và chữ k trong Thông báo công nợ đề ngày 15/9/2019 (gốc trên đầu bên
phải) và ngày 18/10/2018 (gốc dưới bên trái) thì chữ viết là của ông T viết, còn
chữ k là của ông k. Do đó, yêu cầu giám định chữ k, chữ viết nêu trên của ông
M là không có cơ sở chấp nhận.
[5] Xét kháng cáo của bà Dương Thị Á yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, bà
không đng trả tiền mua thức ăn nuôi cá, không đng trả lãi suất 1,66%/tháng
và không đng cấn trừ 400.000.000 đng trả vào tiền lãi suất, vì bà hoàn toàn
không biết việc mua bán thức ăn nuôi cá giữa ông M và ông T và kháng cáo của
bà Nguyễn Thị Thanh T1 yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận khởi kiện
của ông T, chấp nhận sự thỏa thuận cấn trừ nợ giữa 03 bên: bà T1, ông T và ông
M, cấn trừ vốn và lãi mà ông M nợ ông T số tiền 3.300.000.000 đng. Kể từ ngày
cấn trừ nợ thì ông M, bà Á đã thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
bà theo sự cấn trừ nợ.
Hội đng xét xử xét thấy:
Từ những phân tích nêu trên [3] và tại phiên tòa phúc thẩm, bà Á và bà T1
không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của
mình là có cơ sở, nên không được Hội đng xét xử chấp nhận.
15
[6] Đối với đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông
Nguyễn Phước T tại phiên tòa như nêu trên. Hội đng xét xử xét thấy không đủ
cơ sở, nên không được chấp nhận.
[7] Đối với quan điểm và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa như nêu
trên. Hội đng xét xử xét thấy là có cơ sở và phù hợp pháp luật nên được chấp
nhận.
[8] Về án phí: Do kháng cáo của ông Nguyễn Phước T, ông Nguyễn Văn
M, bà Dương Thị Á, bà Nguyễn Thị Thanh T1 không được chấp nhận, nên phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên, ông M, bà Á do thuộc diện người cao
tuổi nên được xét miễn án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại điểm đ khoản
1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản l và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Phước T - Chủ
Hộ kinh doanh cơ sở chế biến, mua bán lúa gạo Phước Thành Ngọc H.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn M.
3. Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Dương Thị Á và bà Nguyễn Thị Thanh T1.
4. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2024/DS-ST ngày 16 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hng Ngự, tỉnh Đng Tháp.
4.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Phước T – Chủ Hộ kinh doanh cơ sở chế biến, mua bán lúa gạo Phước Thành
Ngọc H.
Buộc ông Nguyễn Văn M và bà Dương Thị Á phải có nghĩa vụ liên đới trả
cho ông Nguyễn Phước T – Chủ Hộ kinh doanh cơ sở chế biến, mua bán lúa gạo
Phước Thành Ngọc H số tiền mua thứa ăn chăn nuôi còn nợ là 7.106.142.000
đng (Bảy tỷ một trăm lẻ sáu triệu một trăm bốn mươi hai nghìn đng). Trong
đó 3.759.550.000 đng gốc và lãi là 3.346.592.000 đng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
16
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4.2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Thanh T1.
Buộc ông Nguyễn Phước T phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Thanh
T1 số tiền vay còn nợ là 1.822.396.000 đng (Một tỷ tám trăm hai mươi hai triệu
ba trăm chín mươi sáu nghìn đng). Trong đó gốc 540.000.000 đng và lãi là
1.282.396.000 đng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4.3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Văn M và bà Dương Thị Á là người cao tuổi nên được miễn
nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Phước T phải chịu án phí sơ thẩm là 94.183.500 đng. Tiền
án phí được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà ông T đã nộp là 58.130.000
đng theo biên lai thu số 0001753, ngày 03/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Hng Ngự, tỉnh Đng Tháp. Ông Nguyễn Phước T phải nộp thêm
số tiền án phí sơ thẩm là 36.053.500 đng (Ba mươi sáu triệu không trăm năm
mươi ba nghìn năm trăm đng).
Bà Nguyễn Thị Thanh T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 10.394.000
đng. Tiền án phí được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà T1 đã nộp là
36.302.500 đng theo biên lai thu số 0001956, ngày 16/02/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố Hng Ngự, tỉnh Đng Tháp. Bà T1 được nhận lại số
tiền đã nộp là 25.908.500 đng (Hai mươi lăm triệu chín trăm lẻ tám nghìn năm
trăm đng).
5. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Văn M và bà Dương Thị Á được miễn án phí dân sự phúc
thẩm.
Ông Nguyễn Phước T - Chủ Hộ kinh doanh cơ sở chế biến, mua bán lúa
gạo Phước Thành Ngọc H phải chịu 300.000 đng án phí dân sự phúc thẩm, được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đng, theo biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011990 ngày 29/8/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Hng Ngự, tỉnh Đng Tháp.
Bà Nguyễn Thị Thanh T1 phải chịu 300.000 đng án phí dân sự phúc thẩm,
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đng, theo biên lai
17
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011992 ngày 30/8/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố Hng Ngự, tỉnh Đng Tháp.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều
2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND Tỉnh;
- Phòng TT,KT&THA TAND Tỉnh;
- TAND thành phố Hng Ngự;
- Chi cục THADS TP Hng Ngự;
- Đương sự;
- Lưu: VT, HSVA, TDS
(Quang)
.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký tên và đóng dấu)
Hứa Quang Thông
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Bản án số 222/2025/DS-PT ngày 01/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 198/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 207/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 177/2025/DS-PT ngày 21/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm