Bản án số 168/2025/DS-PT ngày 20/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 168/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 168/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 168/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 168/2025/DS-PT ngày 20/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 168/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà P1 và ông K1. Sau khi thực hiện đo đạc lại thì thấy diện tích đất của mình bị ông A và bà P lấn chiếm. Ngoài ra ông P, bà A có hành vi ngăn cản thợ do ông H thuê đến thực hiện các công việc cho ông H trong phần đất của ông H. Do đó, ông H khởi kiện yêu cầu ông A, bà P trả lại diện tích đất đang lấn chiếm, tháo dỡ các công trình trên đất và chấm dứt các hành vi cản trở. Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông H là có căn cứ. Tuyên buộc ông A, bà P trả lại diện tích đất lấn chiếm của ông H và chấm dứt các hành vi trái pháp luật. Cho rằng phần đất mà nguyên đơn cho rằng là lấn chiếm thực tế là do thỏa thuận giữa ông D (cha ông A) và bà P1 (người chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông H) chừa làm lối đi sử dụng chung nên ông A, bà P kháng cáo. Tại cấp phúc thẩm, xét thấy ông A kháng cáo nhưng không chứng minh được sự thỏa thuận giữa ông D và bà P1. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của ông A, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với yêu cầu kháng cáo của bà P, HĐXX đình chỉ giải quyết vì bà P đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt hai lần, xem như từ bỏ quyền kháng cáo. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 168/2025/DS-PT
Ngày 20-3-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
(ranh đất); yêu cầu chấm dứt hành vi
trái pháp luật và yêu cầu bồi thường
thi
ệt hại ngo
ài h
ợp đồng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Ngô Thị Bích Diệp
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết
Ông Nguyễn Văn Tài
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Quốc Nhi - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Bà Ngô Kim Duyên - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 13 và 20 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
449/2024/TLPT-DS ngày 15/10/2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất
(ranh đất); yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật và yêu cầu bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 96/2024/DS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 462/2024/QĐ-PT,
ngày 07 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973; địa chỉ: số A, khu phố
B, phường B, thành phố TĐ, Thành phố H; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Dương Cẩm T, sinh năm
1997; địa chỉ thường trú: Ấp C, xã V, huyện G tỉnh K; địa chỉ liên lạc: Số B, tổ
G, khu phố BB, phường B, thành phố T, tỉnh BD; có mặt.
- Bị đơn:
2
1. Ông Phạm Bá Quốc A, sinh năm 1979; địa chỉ thường trú: số C đường
H, Phường N, quận P, Thành phố H; địa chỉ tạm trú: Số D, khu phố B, phường
B, thành phố T, tỉnh BD; có mặt.
2. Bà Lý Kim P, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ A, ấp A, xã C, huyện T, tỉnh
Đ; địa chỉ liên hệ: Số D, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh BD; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bà P: Ông Trương Duy K, sinh năm 1971;
địa chỉ cư trú: số E, đường L, Phường G, quận B, Thành phố H; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phạm Bá Nghĩa D, sinh năm 1959; địa chỉ thường trú: số E, đường
L, Phường G, quận B, Thành phố H; địa chỉ liên hệ: Số D, khu phố B, phường
B, thành phố T, tỉnh BD; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của ông D: Ông Trương Duy K, sinh năm 1971;
địa chỉ cư trú: số E, đường L, Phường G, quận B, Thành phố H; vắng mặt.
2. Bà Phạm Thị Lan P1, sinh năm 1983; địa chỉ thường trú: số F, đường
T, Phường A, quận G, Thành phố H; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
3. Ông Trần Hoàng K1, sinh năm 1977; địa chỉ thường trú: số G, đường
P, Phường L, quận B, Thành phố H; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
4. Ông Nguyễn Long V, sinh năm 1969 và bà Lê Thị P2, sinh năm 1967;
địa chỉ thường trú: D4, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh BD; nơi ở hiện
tại: Nhà không số, đường, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh BD; vắng
mặt.
5. Ông Trần Nguyên H1, sinh năm 1984; địa chỉ thường trú: số H, đường
B, Phường X, quận B, Thành phố H; có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
6. Các cháu Phạm Bá Quốc T1 và Phạm Bá Thiên A1 (là con chưa thành
niên của ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P), do ông Phạm Bá Quốc A đại
diện theo pháp luật; ông Phạm Bá Quốc A có mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện ngày 17/10/2022, đơn khởi kiện bổ sung ngày
06/10/2023, quá trình tố tụng, nguyên đơn trình bày: Năm 2022, nguyên đơn
ông Nguyễn Văn H nhận chuyển nhượng của bà Phạm Thị Lan P1 quyền sử
dụng đất và tài sản trên đất thuộc thửa đất số 1060, tờ bản đồ số 4, tại khu phố
BT, phường BN, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Khi thỏa thuận chuyển nhượng,
hiện trạng đất có thể hiện cổng chính đi vào sân bê tông. Bà Phạm Thị Lan P1
có thông báo về việc sân bê tông do bà Phạm Thị Lan P1 làm nhưng không đo
đạc nên nếu có lấn qua thửa đất số 92 thì phải trả lại đất cho thửa đất số 92 thì
nguyên đơn đồng ý. Ngày 22/3/2022, nguyên đơn được Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp
giấy chứng nhận CS12294.
3
Sau khi nhận bàn giao đất và tài sản gắn liền với đất, nguyên đơn tiến hành
xây dựng các công trình trên đất để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt thì gặp phải
sự cản trở của ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P là chủ sử dụng thửa đất số
92, tờ bản đồ số 4, liền kề với đất của nguyên đơn, cụ thể ông Phạm Bá Quốc A
và bà Lý Kim P có hành vi khóa cổng ra vào, ngăn cản không cho đội ngũ thi
công công trình vào đất của nguyên đơn để thực hiện công việc và chiếm dụng
luôn phần sân bê tông. Do bị đơn có hành vi ngăn cản không cho nguyên đơn
thực hiện các quyền sử dụng đất, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn
nên nguyên đơn khởi kiện và khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Buộc ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P chấm dứt hành vi chiếm
dụng và trả lại cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn H quyền sử dụng đất qua đo
đạc thực tế 98,9m
2
gắn liền tài sản trên đất.
- Buộc ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P phải tháo dỡ phần công trình
đã xây dựng trên phần đất để trả lại hiện trạng ban đầu.
- Buộc ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P bồi thường thiệt hại cho
nguyên đơn với tổng số tiền 71.150.000 đồng (bảy mươi mốt triệu một trăm năm
mươi nghìn đồng) do hành vi cản trở nguyên đơn thực hiện liên quan đến phần
đất đang tranh chấp.
Quá trình tố tụng, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc
ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn với
tổng số tiền 71.150.000 đồng.
Nguyên đơn thống nhất với kết quả xem xét, thẩm định, định giá ngày
01/3/2023, thống nhất với Mảnh trích lục địa chính có đo đạc, chỉnh lý số 234-
2023 ngày 07/9/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai.
- Quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Phạm Bá Quốc A trình bày:
Ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P được cha là ông Phạm Bá Nghĩa D
tặng cho quyền sử dụng đất thửa đất số 92, tờ bản đồ số 4 tại khu phố BT,
phường BN, thành phố T, tỉnh Bình Dương và được Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp
giấy chứng nhận CS08329 ngày 26/9/2017. Nguồn gốc thửa đất số 92 là do ông
Phạm Bá Nghĩa D nhận chuyển nhượng vào khoảng năm 2009. Sau khi nhận
chuyển nhượng, đến khoảng năm 2012, giữa ông Phạm Bá Nghĩa D và bà Phạm
Thị Lan P1 có thỏa thuận mỗi bên bỏ ra một phần diện tích để làm lối đi cho hai
gia đình sử dụng chung, lối đi đó là phần đất đang tranh chấp hiện nay. Sau khi
thỏa thuận xong thì ông Phạm Bá Nghĩa D đã bỏ tiền và công ra để làm lối đi,
cổng ra vào và nhà để xe để hai bên cùng sử dụng, lối đi được sử dụng từ đó cho
đến nay và không có tranh chấp. Do bà Phạm Thị Lan P1 chuyển nhượng đất
cho nguyên đơn nhưng không thông báo cho bị đơn nên khi nguyên đơn đột
ngột đưa người đến đập cổng, bị đơn đã ngăn cản, không cho đập cổng để bảo
vệ tài sản của mình. Riêng thợ của nguyên đơn thì bị đơn vẫn mở cửa để đi vào
làm việc bình thường. Do đó, đối với yêu cầu khởi kiện, khởi kiện bổ sung của
nguyên đơn thì bị đơn không có yêu cầu phản tố và không đồng ý vì lối đi đang
4
có tranh chấp là đất do bị đơn và bà Phạm Thị Lan P1 thống nhất sử dụng làm
lối đi chung và hiện tại lối đi này là lối đi duy nhất của bị đơn. Bị đơn đề nghị
Tòa án xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giữ nguyên
hiện trạng để đảm bảo quyền lợi của bị đơn. Đối với yêu cầu về việc bồi thường
thiệt hại do nguyên đơn đã rút yêu cầu nên bị đơn không có ý kiến.
Bị đơn không có ý kiến đối với kết quả xem xét, thẩm định, định giá ngày
01/3/2023 và Mảnh trích lục địa chính có đo đạc, chỉnh lý số 234-2023 ngày
07/9/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai.
- Bị đơn bà Lý Kim P do ông Trương Duy K trình bày: Thống nhất với trình
bày của bị đơn ông Phạm Bá Quốc A về nguồn gốc, quá trình sử dụng và
nguyên nhân dẫn đến tranh chấp. Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, khởi kiện
bổ sung của nguyên đơn, không có yêu cầu phản tố.
Bị đơn không có ý kiến đối với kết quả xem xét, thẩm định, định giá ngày
01/3/2023 và Mảnh trích lục địa chính có đo đạc, chỉnh lý số 234-2023 ngày
07/9/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Bá Nghĩa D do ông
Trương Duy K trình bày: Thống nhất với trình bày của bị đơn ông Phạm Bá
Quốc A về nguồn gốc, quá trình sử dụng đối với phần đất đang có tranh chấp và
nguyên nhân dẫn đến tranh chấp. Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, khởi kiện
bổ sung của nguyên đơn, không có yêu cầu độc lập. Người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan không có ý kiến đối với kết quả xem xét, thẩm định, định giá ngày
01/3/2023 và Mảnh trích lục địa chính có đo đạc, chỉnh lý số 234-2023 ngày
07/9/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng K1, bà Phạm Thị
Lan P1 trình bày: Ông K1 và bà P1 là vợ chồng, bà P1 là người đại diện đứng
tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1060, tờ bản đồ
số 4, tại khu phố BT, phường BN, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Quá trình sử
dụng, do đất ở khu vực này mềm lún, xe ô tô đi vào không thuận tiện nên ông
K1, bà P1 đã dựng cổng, nhà để xe và xây một lối bê tông đi vào nhà để xe để sử
dụng (hiện là phần đất đang tranh chấp). Do bà P1 và ông K1 hàng ngày đi làm
ở Thành phố Hồ Chí Minh nên khi xây dựng lối đi và các công trình trên phần
đất này thì ông K1, bà P1 nhờ ông Phạm Bá Nghĩa D trông coi thợ, còn tiền thì
do ông K1, bà P1 chi trả. Do bà P1 và ông Phạm Bá Nghĩa D là bà con họ hàng
xa và hai thửa đất của ông D, bà P1 giáp nhau nên bà P1 có cho gia đình ông D
đi qua cổng để vào đất của ông D. Riêng đối với nhà xe thì được ông K1, bà P1
sử dụng riêng nên nguồn điện sử dụng nhà xe cũng được kéo từ nhà ông K1, bà
P1. Khi làm lối bê tông này thì ông K1, bà P1 không tiến hành đo đạc để xác
định ranh mà chỉ ước chừng trên đất. Do đó, khi chuyển nhượng đất cho nguyên
đơn thì ông K1, bà P1 có đề cập đến việc nếu lối đi đó có lấn qua đất của gia
đình ông D thì phải trả lại phần diện tích bị lấn cho gia đình ông D. Sau khi hai
bên thỏa thuận thống nhất xong thì ông K1, bà P1 đã bàn giao đất, tài sản trên
đất cho nguyên đơn. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông K1, bà P1
5
đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật, không có ý kiến và
không có yêu cầu độc lập.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Long V và bà Lê Thị
P2: Qua đo đạc thực tế thể hiện thửa đất số 1062, tờ bản đồ số 4, được cấp cho
ông Nguyễn Long V và bà Lê Thị P2 bị thửa đất số 92, tờ bản đồ số 4 của ông
Phạm Bá Quốc A lấn ranh với diện tích 30,4m
2
. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông
Nguyễn Long V và bà Lê Thị P2 đến Tòa án để làm việc nhưng ông V, bà P2
không đến Tòa án để làm việc cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với
phần diện tích đất bị lấn. Trường hợp sau này có tranh chấp thì được quyền khởi
kiện bằng một vụ án khác.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Nguyên H1: Ông Trần
Nguyên H1 là người được cấp quyền sử dụng thửa đất số 1061, tờ bản đồ số 4.
Quá trình sử dụng, ông Trần Nguyên H1 đã xây dựng nhà cửa để sinh sống và
không xảy ra tranh chấp đối với người được cấp quyền sử dụng đất của thửa
1060, tờ bản đồ số 4. Do đó, ông Trần Nguyên H1 không có ý kiến, không có
yêu cầu độc lập. Trường hợp sau này có tranh chấp thì sẽ khởi kiện bằng một vụ
án khác.
Tại phiên toà sơ thẩm: Nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc
buộc ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P phải tháo dỡ phần công trình đã xây
dựng trên phần đất nêu trên để trả lại hiện trạng ban đầu. Nguyên đơn chỉ yêu
cầu Tòa án xem xét buộc ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P chấm dứt hành
vi chiếm dụng và trả lại cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn H quyền sử dụng đất
qua đo đạc thực tế là 98,9m
2
cùng tài sản trên đất.
Bị đơn ông Phạm Bá Quốc A không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn. Đối với phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn đã rút thì bị đơn không
có ý kiến.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 86/DS- ST ngày 08/8/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố T, tỉnh Bình Dương tuyên xử:
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H
về việc:
Buộc bị đơn ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P liên đới bồi thường cho
ông Nguyễn Văn Hoà số tiền 71.150.000 đồng do hành vi vi phạm pháp luật gây
ra.
Buộc bị đơn ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P phải tháo dỡ phần công
trình đã xây dựng trên phần đất tranh chấp để trả lại hiện trạng ban đầu.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H đối với
bị đơn ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất”.
Buộc ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P chấm dứt hành vi chiếm dụng
và trả lại cho ông Nguyễn Văn H phần quyền sử dụng đất diện tích 98,9m
2
(CLN), thuộc thửa đất số 1060, tờ bản đồ số 4 toạ lạc tại khu phố BT, phường
6
BN, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Đất có các cạnh như sau: Chiều dài cạnh
hướng Đông Nam (giáp thửa đất 126) là 7,21m, chiều dài cạnh hướng Đông Bắc
(giáp thửa đất 92) là 19,04 m, chiều dài cạnh hướng Tây Bắc (giáp đường nội
bộ) là 3,73m, chiều dài cạnh hướng Tây Nam (giáp thửa 1060) là 18,58m, được
ký hiệu “B” và “C” trên sơ đồ bản vẽ (có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H về việc tháo dỡ
toàn bộ công trình xây dựng trên đất tranh chấp (thuộc loại đất CLN) khi cơ
quan Nhà nước có yêu cầu.
Đối với phần diện tích đất 74m
2
lấn rạch ông Nguyễn Văn Hoà có nghĩa vụ
tháo dỡ phần công trình đã gia cố khi cơ quan chức năng thẩm quyền yêu cầu.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P kháng
cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của Kiểm sát viên: Về thủ tục tố tụng, những người tiến hành tố tụng
và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Về nội dung vụ án, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử có căn cứ nên
không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của
đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Phạm Bá Nghĩa D, bà Phạm Thị Lan P1, ông
Trần Hoàng K1, ông Nguyễn Long V, và bà Lê Thị P2 vắng mặt nhưng đã được
triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo
quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bà Lý Kim P là người
kháng cáo nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng tại phiên tòa được mở lần
thứ hai xem như bà Lý Kim P từ bỏ quyền kháng cáo, Hội đồng xét xử đình chỉ
xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bà Lý Kim P theo quy định tại
khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án, đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất: ông
Nguyễn Văn H được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS12294 ngày
22/3/2022 thửa đất số 1060, tờ bản đồ số 4, tại khu phố BT, phường BN, thành
phố T, tỉnh Bình Dương. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện:
Chiều dài cạnh phía Đông Nam của thửa đất số 1060 là 31,61m. Qua đo đạc
thực tế, chiều dài chỉ còn 24,41m. Trong khi đó, theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS08329 ngày 26/9/2017 được cấp cho
bị đơn ông Phạm Bá Quốc A thì chiều dài cạnh hướng Đông Nam của thửa đất
số 92 tiếp giáp với thửa đất số 1060 là 64,29m. Qua đo đạc thực tế là 71,5m.
7
Chiều dài cạnh hướng Tây Bắc của thửa đất số 92 tiếp giáp với thửa 1060 là
67,65m. Qua đo đạc thực tế là 71,38m. Đối chiếu diện tích và độ dài cạnh hướng
Đông Nam của thửa đất số 1060 và hướng Tây Bắc của thửa đất số 92 theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất so với số liệu đo đạc thực tế tại Mảnh trích lục
địa chính có đo đạc, chỉnh lý số 234-2023 ngày 07/9/2023 của Chi nhánh Văn
phòng Đăng ký đất đai có cơ sở xác định đất tranh chấp tổng diện tích 98,9m
2
(CLN) hoàn toàn thuộc thửa đất số 1060, tờ bản đồ số 4 được cấp cho nguyên
đơn.
Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Bá Nghĩa D
cho rằng giữa bà Phạm Thị Lan P1, ông Trần Hoàng K1 trước đây có thỏa thuận
với ông Phạm Bá Nghĩa D về việc mỗi bên bỏ ra một phần đất để sử dụng làm
lối đi chung nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Trong khi đó,
bà Phạm Thị Lan P1 và ông Trần Hoàng K1 xác định bà P1 và ông K1 chỉ cho
ông Phạm Bá Nghĩa D và ông Phạm Bá Quốc A đi nhờ, không thỏa thuận việc
góp đất làm lối đi chung. Lời trình bày này phù hợp với lời khai của ông Phạm
Bá Quốc A tại phiên toà về việc khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ
ông Phạm Bá Nghĩa D, giữa ông D và ông Quốc A không lập văn bản thể hiện
có việc bàn giao đất thể hiện có góp đất làm lối đi chung, phù hợp với giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho ông Phạm Bá Quốc A cũng như
biên bản xác minh tại địa phương về việc lối đi này không được nhà nước công
nhận là lối đi nội bộ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, ý kiến của
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Bá Nghĩa D là không
có cơ sở chấp nhận nên bị đơn phải chấm dứt việc chiếm dụng và trả lại cho
nguyên đơn diện tích 98,9m
2
là phù hợp.
Đối với tài sản trên đất tranh chấp là 01 nhà tạm để xe, sân bê tông và cổng
sắt. Tại phiên toà sơ thẩm, ông Phạm Bá Quốc A khai phần tài sản này là do ông
D xây dựng dùng làm lối đi chung và để xe ô tô. Bị đơn còn xác nhận tại thời
điểm ông D và bà Lan Phương thoả thuận xây dựng lối đi và nhà để xe thì bị
đơn chưa có xe ô tô để sử dụng nhưng lại dựng nhà để xe ô tô. Bà P1 và ông K1
xác định công trình trên đất là do ông K1 và bà P1 bỏ tiền ra xây dựng để làm
lối đi vào nhà để xe ô tô.
Qua xem xét, thẩm định thực tế, nguồn điện chiếu sáng sử dụng cho nhà để
xe được kết nối từ điện của nguyên đơn. Bị đơn thừa nhận bị đơn không phải là
người thanh toán điện chiếu sáng cho nhà để xe. Bên cạnh đó, theo hình ảnh
cung cấp về sinh hoạt trước đây của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Phương đều thể hiện trước đây nhà để xe cũng như sân bê tông đều
được gia đình bà P1 sử dụng và sinh hoạt mỗi ngày nên có cơ sở xác định phần
công trình trên đất do bà P1 và ông K1 xây dựng và chuyển giao cho nguyên
đơn. Tất cả các chứng cứ trên có cơ sở xác định tài sản tồn tại trên đất tranh
chấp là của nguyên đơn.
Theo nguyên đơn, công trình xây dựng trên đất tranh chấp không xin phép
cơ quan có thẩm quyền và xây dựng trên đất nông nghiệp nên nguyên đơn tự
nguyện tháo dỡ toàn bộ công trình tồn tại trên phần đất có tranh chấp khi có yêu
8
cầu của cơ quan có thẩm quyền, đây là ý chí tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi
nhận.
Nguyên đơn rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về việc: Buộc bị đơn bồi
thường thiệt hại và buộc bị đơn tháo dỡ phần công trình trên đất tranh chấp.
Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện là ý chí tự nguyện của nguyên đơn nên Tòa
án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn là phù hợp.
Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần
Nguyên H1, ông Nguyễn Long V và bà Lê Thị P2 không có yêu cầu giải quyết
đối với diện tích đất bị lấn ranh nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải
quyết là phù hợp. Nếu sau này có tranh chấp thì được giải quyết bằng một vụ án
khác.
Đối với thửa đất số 1060 của nguyên đơn bị lấn rạch thì nguyên đơn xác
định, trong quá trình sử dụng đất trước đây, do sợ xảy ra tình trạng sạt lở đất nên
chủ sử dụng đất cũ đã thực hiện việc gia cố phần bờ rạch, nhưng không sử dụng
phần rạch đã được gia cố. Khi nhận chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất,
nguyên đơn cũng không sử dụng phần diện tích này. Trường hợp sau này cơ
quan chức năng có thẩm quyền yêu cầu liên quan đến việc tháo dỡ gia cố thì
nguyên đơn sẽ phối hợp cùng cơ quan chức năng để thực hiện theo đúng quy
định pháp luật.
Xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử có căn cứ nên không có căn cứ chấp nhận
kháng cáo của bị đơn Phạm Bá Quốc A, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ
thẩm là có căn cứ.
Án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 3 Điều 296 và khoản 1 Điều 308 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Phạm Bá Quốc A.
2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Lý
Kim P.
3. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 86/DS-ST ngày 08/8/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phạm Bá Quốc A phải nộp số tiền
300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng theo biên lai thu số 0002809
9
ngày 18/9/2024 Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương và bà
Lý Kim P phải nộp số tiền 300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng theo
biên lai thu số 0002870 ngày 03/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- TAND TP. T;
- CCTHADS TP. T;
- Các đương sự;
- Lưu Tòa Dân sự, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Ngô Th
ị Bích Diệp
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm