Bản án số 168/2025/DS-PT ngày 20/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 168/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 168/2025/DS-PT ngày 20/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 168/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà P1 và ông K1. Sau khi thực hiện đo đạc lại thì thấy diện tích đất của mình bị ông A và bà P lấn chiếm. Ngoài ra ông P, bà A có hành vi ngăn cản thợ do ông H thuê đến thực hiện các công việc cho ông H trong phần đất của ông H. Do đó, ông H khởi kiện yêu cầu ông A, bà P trả lại diện tích đất đang lấn chiếm, tháo dỡ các công trình trên đất và chấm dứt các hành vi cản trở. Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông H là có căn cứ. Tuyên buộc ông A, bà P trả lại diện tích đất lấn chiếm của ông H và chấm dứt các hành vi trái pháp luật. Cho rằng phần đất mà nguyên đơn cho rằng là lấn chiếm thực tế là do thỏa thuận giữa ông D (cha ông A) và bà P1 (người chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông H) chừa làm lối đi sử dụng chung nên ông A, bà P kháng cáo. Tại cấp phúc thẩm, xét thấy ông A kháng cáo nhưng không chứng minh được sự thỏa thuận giữa ông D và bà P1. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của ông A, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với yêu cầu kháng cáo của bà P, HĐXX đình chỉ giải quyết vì bà P đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt hai lần, xem như từ bỏ quyền kháng cáo.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 168/2025/DS-PT
Ngày 20-3-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
(ranh đất); yêu cầu chấm dứt hành vi
trái pháp luật và yêu cầu bồi thường
thi
ệt hại ngo
ài h
ợp đồng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Ngô Thị Bích Diệp
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết
Ông Nguyễn Văn Tài
- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Thị Quốc Nhi - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ngô Kim Duyên - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 13 20 tháng 3 năm 2025, tại trụ sTòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
449/2024/TLPT-DS ngày 15/10/2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất
(ranh đất); yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật yêu cầu bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng”.
Do Bản án dân sự thẩm số 96/2024/DS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x phúc thẩm số 462/2024/QĐ-PT,
ngày 07 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973; địa chỉ: số A, khu phố
B, phường B, thành phố TĐ, Thành phố H; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Dương Cẩm T, sinh năm
1997; địa chỉ thường trú: Ấp C, V, huyện G tỉnh K; địa chỉ liên lạc: Số B, tổ
G, khu phố BB, phường B, thành phố T, tỉnh BD; có mặt.
- Bị đơn:
2
1. Ông Phạm Quốc A, sinh năm 1979; địa chỉ thường trú: số C đường
H, Phường N, quận P, Thành phố H; địa chỉ tạm trú: Số D, khu phố B, phường
B, thành phố T, tỉnh BD; có mặt.
2. Lý Kim P, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ A, ấp A, C, huyện T, tỉnh
Đ; địa chỉ liên hệ: Số D, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh BD; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của P: Ông Trương Duy K, sinh năm 1971;
địa chỉ cư trú: số E, đường L, Phường G, quận B, Thành phố H; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phạm Bá Nghĩa D, sinh năm 1959; địa chỉ thường trú: số E, đường
L, Phường G, quận B, Thành phố H; địa chỉ liên hệ: Số D, khu phố B, phường
B, thành phố T, tỉnh BD; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của ông D: Ông Trương Duy K, sinh năm 1971;
địa chỉ cư trú: số E, đường L, Phường G, quận B, Thành phố H; vắng mặt.
2. Phạm Thị Lan P1, sinh năm 1983; địa chỉ thường trú: số F, đường
T, Phường A, quận G, Thành phố H; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
3. Ông Trần Hoàng K1, sinh năm 1977; địa chỉ thường trú: số G, đường
P, Phường L, quận B, Thành phố H; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
4. Ông Nguyễn Long V, sinh năm 1969 Thị P2, sinh m 1967;
địa chỉ thường trú: D4, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh BD; nơi hiện
tại: Nhà không số, đường, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh BD; vắng
mặt.
5. Ông Trần Nguyên H1, sinh m 1984; địa chỉ thường trú: số H, đường
B, Phường X, quận B, Thành phố H; có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
6. Các cháu Phạm Quốc T1 Phạm Thiên A1 (là con chưa thành
niên của ông Phạm Quốc A Kim P), do ông Phạm Quốc A đi
diện theo pháp luật; ông Phạm Bá Quốc A có mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện ngày 17/10/2022, đơn khởi kiện bổ sung ngày
06/10/2023, quá trình tố tụng, nguyên đơn trình bày: Năm 2022, nguyên đơn
ông Nguyễn Văn H nhận chuyển nhượng của bà Phạm Thị Lan P1 quyền sử
dụng đất tài sản trên đất thuộc thửa đất s1060, tờ bản đồ số 4, tại khu phố
BT, phường BN, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Khi thỏa thuận chuyển nhượng,
hiện trạng đất thể hiện cổng chính đi vào sân tông. Phạm Thị Lan P1
thông báo vviệc sân bê tông do bà Phạm Thị Lan P1 làm nhưng không đo
đạc nên nếu có lấn qua thửa đất số 92 thì phải trả lại đất cho thửa đất số 92 thì
nguyên đơn đồng ý. Ngày 22/3/2022, nguyên đơn được Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số vào sổ cấp
giấy chứng nhận CS12294.
3
Sau khi nhận bàn giao đất và tài sản gắn liền với đất, nguyên đơn tiến hành
xây dựng các công trình trên đất để phục vcho nhu cầu sinh hoạt tgặp phải
sự cản trở của ông Phạm Bá Quốc A Lý Kim P chủ sử dụng thửa đất số
92, tờ bản đsố 4, liền kề với đất của nguyên đơn, cụ thể ông Phạm Quốc A
Kim P hành vi khóa cổng ra vào, ngăn cản không cho đội ngũ thi
công công trình vào đất của nguyên đơn đthực hiện công việc chiếm dụng
luôn phần sân tông. Do bị đơn hành vi ngăn cản không cho nguyên đơn
thực hiện các quyền sử dụng đất, gây ảnh ởng đến quyền lợi của nguyên đơn
nên nguyên đơn khởi kiện và khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Buộc ông Phạm Quốc A Lý Kim P chấm dứt hành vi chiếm
dụng trả lại cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn H quyền sử dụng đất qua đo
đạc thực tế 98,9m
2
gắn liền tài sản trên đất.
- Buộc ông Phạm Bá Quốc AKim P phải tháo dỡ phần công trình
đã xây dựng trên phần đất để trả lại hiện trạng ban đầu.
- Buộc ông Phạm Quốc A bà Lý Kim P bồi thường thiệt hại cho
nguyên đơn với tổng số tin 71.150.000 đồng (bảy mươi mốt triệu một trăm năm
mươi nghìn đồng) do hành vi cản trở nguyên đơn thực hiện liên quan đến phần
đất đang tranh chấp.
Quá trình tố tụng, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc
ông Phạm Quốc A Kim P bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn với
tổng số tiền 71.150.000 đồng.
Nguyên đơn thống nhất với kết quả xem xét, thẩm định, định giá ngày
01/3/2023, thống nhất với Mảnh trích lục địa chính đo đạc, chỉnh số 234-
2023 ngày 07/9/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai.
- Quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Phạm Bá Quốc A trình bày:
Ông Phạm Quốc A Kim P được cha ông Phạm Nghĩa D
tặng cho quyền sử dụng đất thửa đất số 92, tờ bản đồ số 4 tại khu phố BT,
phường BN, thành phố T, tỉnh Bình Dương được Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số vào sổ cấp
giấy chứng nhận CS08329 ngày 26/9/2017. Nguồn gốc thửa đất số 92 là do ông
Phạm Nghĩa D nhận chuyển nhượng vào khoảng năm 2009. Sau khi nhận
chuyển nhượng, đến khoảng năm 2012, giữa ông Phạm Bá Nghĩa D Phạm
Thị Lan P1 có thỏa thuận mỗi bên bỏ ra một phần diện tích để làm lối đi cho hai
gia đình sdụng chung, lối đi đó phần đất đang tranh chấp hiện nay. Sau khi
thỏa thuận xong thì ông Phạm Nghĩa D đã bỏ tiền và công ra để làm lối đi,
cổng ra vào và nhà để xe để hai bên cùng sử dụng, lối đi được sử dụng từ đó cho
đến nay không tranh chấp. Do Phạm Thị Lan P1 chuyển nhượng đất
cho nguyên đơn nhưng không thông báo cho bị đơn nên khi nguyên đơn đột
ngột đưa người đến đập cổng, bđơn đã ngăn cản, không cho đập cổng để bảo
vệ tài sản của mình. Riêng thợ của nguyên đơn thì bị đơn vẫn mở cửa để đi vào
làm việc bình thường. Do đó, đối với yêu cầu khởi kiện, khởi kiện bổ sung của
nguyên đơn thì bị đơn không yêu cầu phản tố không đồng ý lối đi đang
4
tranh chấp đất do bị đơn Phạm Thị Lan P1 thống nhất sdụng làm
lối đi chung hiện tại lối đi này lối đi duy nhất của bị đơn. Bị đơn đề nghị
Tòa án xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giữ nguyên
hiện trạng để đảm bảo quyền lợi của bị đơn. Đối với yêu cầu về việc bồi thường
thiệt hại do nguyên đơn đã rút yêu cầu nên bị đơn không có ý kiến.
Bị đơn không ý kiến đối với kết quả xem t, thẩm định, định giá ngày
01/3/2023 Mảnh trích lục địa chính đo đc, chỉnh số 234-2023 ngày
07/9/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai.
- Bị đơn bà Lý Kim P do ông Trương Duy K trình bày: Thống nhất với trình
bày của bị đơn ông Phạm Quốc A về nguồn gốc, quá trình s dụng
nguyên nhân dẫn đến tranh chấp. Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, khởi kiện
bổ sung của nguyên đơn, không có yêu cầu phản tố.
Bị đơn không ý kiến đối với kết quả xem t, thẩm định, định giá ngày
01/3/2023 Mảnh trích lục địa chính đo đc, chỉnh số 234-2023 ngày
07/9/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Nghĩa D do ông
Trương Duy K trình bày: Thống nhất với trình bày của bị đơn ông Phạm
Quốc A vnguồn gốc, quá trình sử dụng đối với phần đất đang có tranh chấp và
nguyên nhân dẫn đến tranh chấp. Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, khởi kiện
bổ sung của nguyên đơn, không yêu cầu độc lập. Người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan không ý kiến đối với kết quả xem xét, thẩm định, định giá ngày
01/3/2023 Mảnh trích lục địa chính đo đc, chỉnh số 234-2023 ngày
07/9/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng K1, bà Phạm Thị
Lan P1 trình bày: Ông K1 bà P1 vợ chồng, bà P1 người đại diện đứng
tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1060, tbản đồ
số 4, tại khu phố BT, phường BN, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Quá trình sử
dụng, do đất khu vực này mềm lún, xe ô đi vào không thuận tiện nên ông
K1, bà P1 đã dựng cổng, nhà để xe và xây một lối bê tông đi vào nhà để xe để sử
dụng (hiện phần đất đang tranh chấp). Do P1 ông K1 hàng ngày đi làm
Thành phố Hồ Chí Minh n khi xây dựng lối đi các công trình trên phần
đất này thì ông K1, P1 nhờ ông Phạm Nghĩa D trông coi thợ, còn tiền thì
do ông K1, P1 chi trả. Do P1 ông Phạm Nghĩa D con hhàng
xa hai thửa đất của ông D, P1 giáp nhau nên P1 cho gia đình ông D
đi qua cổng đvào đất của ông D. Riêng đối với nhà xe thì được ông K1, P1
sử dụng riêng nên nguồn điện sử dụng nhà xe cũng được o từ nhà ông K1,
P1. Khi làm lối bê tông này thì ông K1, P1 không tiến hành đo đạc đc
định ranh mà chỉ ước chừng trên đất. Do đó, khi chuyển nhượng đất cho nguyên
đơn thì ông K1, bà P1 đề cập đến việc nếu lối đi đó lấn qua đất của gia
đình ông D thì phải trả lại phần diện tích blấn cho gia đình ông D. Sau khi hai
bên thỏa thuận thống nhất xong thì ông K1, P1 đã bàn giao đất, tài sản trên
đất cho nguyên đơn. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông K1, P1
5
đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật, không ý kiến và
không có yêu cầu độc lập.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Long V Thị
P2: Qua đo đạc thực tế thhiện thửa đất số 1062, tờ bản đồ số 4, được cấp cho
ông Nguyễn Long V Thị P2 bị thửa đất số 92, tờ bản đsố 4 của ông
Phạm Quốc A lấn ranh với diện tích 30,4m
2
. Tòa án đã triệu tập hợp lông
Nguyễn Long V Thị P2 đến Tòa án để làm việc nhưng ông V, P2
không đến Tòa án để m việc cũng không văn bản trình bày ý kiến đối với
phần diện tích đất bị lấn. Trường hợp sau này có tranh chấp thì được quyền khởi
kiện bằng một vụ án khác.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Nguyên H1: Ông Trần
Nguyên H1 người được cấp quyền sử dụng thửa đất số 1061, tbản đồ số 4.
Quá trình sử dụng, ông Trần Nguyên H1 đã xây dựng nhà cửa để sinh sống và
không xảy ra tranh chấp đối với người được cấp quyền sử dụng đất của thửa
1060, tờ bản đồ số 4. Do đó, ông Trần Nguyên H1 không ý kiến, không
yêu cầu độc lập. Trường hợp sau này tranh chấp thì sẽ khởi kiện bằng một vụ
án khác.
Tại phiên toà thẩm: Nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc
buộc ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P phải tháo dỡ phần công trình đã xây
dựng trên phần đất nêu trên đtrlại hiện trạng ban đầu. Nguyên đơn chỉ yêu
cầu Tòa án xem xét buộc ông Phạm Quốc A bà Kim P chấm dứt hành
vi chiếm dụng trả lại cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn H quyền sdụng đất
qua đo đạc thực tế là 98,9m
2
cùng tài sản trên đất.
Bị đơn ông Phạm Quốc A không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn. Đối với phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn đã rút thì bị đơn không
có ý kiến.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 86/DS- ST ngày 08/8/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố T, tỉnh Bình Dương tuyên xử:
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H
về việc:
Buộc bị đơn ông Phạm Bá Quốc A bà Lý Kim P liên đới bồi thường cho
ông Nguyễn Văn Hoà số tiền 71.150.000 đồng do hành vi vi phạm pháp luật gây
ra.
Buộc bị đơn ông Phạm Bá Quốc A bà Lý Kim P phải tháo dỡ phần công
trình đã xây dựng trên phần đất tranh chấp để trả lại hiện trạng ban đầu.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H đối với
bị đơn ông Phạm Quốc A Lý Kim P về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất”.
Buộc ông Phạm Quốc A Kim P chấm dứt hành vi chiếm dụng
trả lại cho ông Nguyễn Văn H phần quyền sử dụng đất diện tích 98,9m
2
(CLN), thuộc thửa đất số 1060, tờ bản đồ s4 toạ lạc tại khu phố BT, phường
6
BN, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Đất các cạnh như sau: Chiều dài cạnh
hướng Đông Nam (giáp thửa đất 126) là 7,21m, chiều dài cạnh hướng Đông Bắc
(giáp thửa đất 92) 19,04 m, chiều dài cạnh hướng Tây Bắc (giáp đường nội
bộ) 3,73m, chiều dài cạnh hướng Tây Nam (giáp thửa 1060) 18,58m, được
ký hiệu “B” và “C” trên sơ đồ bản vẽ (có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
Ghi nhận sự tnguyện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H về việc tháo dỡ
toàn bộ công trình xây dựng trên đất tranh chấp (thuộc loại đất CLN) khi
quan Nhà nước có yêu cầu.
Đối với phần diện tích đất 74m
2
lấn rạch ông Nguyễn Văn Hoà có nghĩa vụ
tháo dỡ phần công trình đã gia cố khi cơ quan chức năng thẩm quyền yêu cầu.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn ông Phạm Bá Quốc A và bà Lý Kim P kháng
cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự không thỏa thuận được với nhau v
việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của Kiểm sát viên: Về thủ tục tố tụng, những người tiến hành tố tụng
những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Về nội dung vụ án, xét thấy Tòa án cấp thẩm xử căn cứ nên
không có sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu hồ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của
đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Vthủ tục tố tụng: Ông Phạm Nghĩa D, Phạm Thị Lan P1, ông
Trần Hoàng K1, ông Nguyễn Long V, và bà Lê Thị P2 vắng mặt nhưng đã được
triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên Hội đồng xét xử vn tiến hành xét xvụ án theo
quy định tại Điều 296 Bluật Tố tụng dân sự. Đối với Kim P người
kháng cáo nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng tại phiên tòa được mở lần
thứ hai xem như Kim P từ bỏ quyền kháng cáo, Hội đồng xét xử đình chỉ
xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bà Kim P theo quy định tại
khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án, đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất: ông
Nguyễn n H được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Bình Dương cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số o sổ cấp giấy chứng nhận CS12294 ngày
22/3/2022 thửa đất số 1060, tờ bản đồ s4, tại khu phố BT, phường BN, thành
phố T, tỉnh Bình Dương. Theo giấy chứng nhận quyền sdụng đất thể hiện:
Chiều dài cạnh phía Đông Nam của thửa đất số 1060 là 31,61m. Qua đo đạc
thực tế, chiều dài chỉ còn 24,41m. Trong khi đó, theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS08329 ngày 26/9/2017 được cấp cho
bị đơn ông Phạm Bá Quốc A thì chiều dài cạnh hướng Đông Nam của thửa đất
số 92 tiếp giáp với thửa đất số 1060 64,29m. Qua đo đạc thực tế 71,5m.
7
Chiều dài cạnh hướng Tây Bắc của thửa đất số 92 tiếp giáp với thửa 1060
67,65m. Qua đo đạc thực tế là 71,38m. Đối chiếu diện tích và độ dài cạnh hướng
Đông Nam của thửa đất số 1060 và hướng Tây Bắc của thửa đất số 92 theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất so với số liệu đo đạc thực tế tại Mảnh trích lục
địa chính đo đạc, chỉnh số 234-2023 ngày 07/9/2023 của Chi nhánh Văn
phòng Đăng đất đai sở c định đất tranh chấp tổng diện ch 98,9m
2
(CLN) hoàn toàn thuộc thửa đất số 1060, tờ bản đồ s4 được cấp cho nguyên
đơn.
Bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Bá Nghĩa D
cho rằng giữa bà Phạm Thị Lan P1, ông Trần Hoàng K1 trước đây có thỏa thuận
với ông Phạm Nghĩa D về việc mỗi bên bỏ ra một phần đất để sử dụng làm
lối đi chung nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Trong khi đó,
Phạm Thị Lan P1 ông Trần Hoàng K1 xác định P1 ông K1 chỉ cho
ông Phạm Nghĩa D ông Phạm Quốc A đi nhờ, không thỏa thuận việc
góp đất làm lối đi chung. Lời trình bày này phù hợp với lời khai của ông Phạm
Quốc A tại phiên tvề việc khi nhận chuyển nhượng quyền sdụng đất từ
ông Phạm Nghĩa D, giữa ông D ông Quốc A không lập văn bản thể hiện
việc bàn giao đất thhiện có góp đất làm lối đi chung, phù hợp với giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho ông Phạm Quốc A cũng như
biên bản c minh tại địa phương về việc lối đi này không được nhà nước công
nhận lối đi nội bộ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, ý kiến của
bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Nghĩa D là không
sở chấp nhận nên bị đơn phải chấm dứt việc chiếm dụng trả lại cho
nguyên đơn diện tích 98,9m
2
là phù hợp.
Đối với tài sản trên đất tranh chấp là 01 nhà tạm để xe, sân tông và cổng
sắt. Tại phiên toà sơ thẩm, ông Phạm Bá Quốc A khai phần tài sản này là do ông
D xây dựng dùng làm lối đi chung và để xe ô . Bị đơn n xác nhận tại thời
điểm ông D Lan Phương thoả thuận xây dựng lối đi nhà để xe thì b
đơn chưa xe ô để sdụng nhưng lại dựng nhà đxe ô tô. Bà P1 ông K1
xác định công trình trên đất do ông K1 P1 bỏ tiền ra xây dựng để làm
lối đi vào nhà để xe ô tô.
Qua xem xét, thẩm định thực tế, nguồn điện chiếu sáng sử dụng cho nhà đ
xe được kết nối từ điện của nguyên đơn. Bị đơn thừa nhận bị đơn không phải
người thanh toán điện chiếu sáng cho nhà để xe. Bên cạnh đó, theo hình ảnh
cung cấp về sinh hoạt trước đây của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Phương đều thể hiện trước đây nđể xe cũng như sân tông đều
được gia đình P1 sử dụng sinh hoạt mỗi ngày nên cơ sở c định phần
công trình trên đất do P1 ông K1 xây dựng chuyển giao cho nguyên
đơn. Tất cả các chứng cứ trên có sở xác định tài sản tồn tại trên đất tranh
chấp là của nguyên đơn.
Theo nguyên đơn, công trình xây dựng trên đất tranh chấp không xin phép
quan thẩm quyền xây dựng trên đất nông nghiệp nên nguyên đơn tự
nguyện tháo dỡ toàn bộ công trình tồn tại trên phần đất có tranh chấp khi có yêu
8
cầu của cơ quan thẩm quyền, đây ý ctnguyện nên Hội đồng xét xử ghi
nhận.
Nguyên đơn rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về việc: Buộc bị đơn bồi
thường thiệt hại và buộc bị đơn tháo dỡ phần công trình trên đất tranh chấp.
Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện là ý chí tự nguyện của nguyên đơn nên Tòa
án cấp thẩm đình chỉ xét xđối với một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn là phù hợp.
Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần
Nguyên H1, ông Nguyễn Long V Lê Thị P2 không yêu cầu giải quyết
đối với diện tích đất bị lấn ranh nên Tòa án cấp thẩm không xem xét giải
quyết phù hợp. Nếu sau này tranh chấp thì được giải quyết bằng một vụ án
khác.
Đối với thửa đất s1060 của nguyên đơn bị lấn rạch thì nguyên đơn xác
định, trong quá trình sử dụng đất trước đây, do sợ xảy ra tình trạng sạt lở đất nên
chủ sử dụng đất đã thực hiện việc gia cố phần bờ rạch, nhưng không sử dụng
phần rạch đã được gia cố. Khi nhận chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất,
nguyên đơn cũng không sử dụng phần diện tích này. Trường hợp sau này
quan chức năng thẩm quyền yêu cầu liên quan đến việc tháo dỡ gia cố t
nguyên đơn sẽ phối hợp cùng quan chức năng để thực hiện theo đúng quy
định pháp luật.
Xét thấy Tòa án cấp thẩm xử có căn cứ nên không căn cứ chấp nhận
kháng cáo của bị đơn Phạm Bá Quốc A, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xgiữ nguyên bản án
thẩm là có căn cứ.
Án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 3 Điều 296 khoản 1 Điều 308 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Phạm Bá Quốc A.
2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn
Kim P.
3. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 86/DS-ST ngày 08/8/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phạm Quốc A phải nộp số tiền
300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng theo biên lai thu số 0002809
9
ngày 18/9/2024 Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương và bà
Kim P phải nộp số tiền 300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng theo
biên lai thu số 0002870 ngày 03/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sthành
phố T, tỉnh Bình Dương.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- TAND TP. T;
- CCTHADS TP. T;
- Các đương sự;
- Lưu Tòa Dân sự, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Ngô Th
Tải về
Bản án số 168/2025/DS-PT Bản án số 168/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 168/2025/DS-PT Bản án số 168/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất