Bản án số 131/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 131/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 131/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 131/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông H và ông P, bà A sở hữu các thửa đất giáp ranh nhau. Ông H có cắm mốc là các cột bê tông để làm ranh giữa hai thửa đất. Tuy nhiên, ông P, bà A có hành vi tự ý tháo dỡ các cột bê tông này, nhổ các cây trồng của ông H trên đất. Ông P, bà A còn có hành vi xây dựng lối đi lấn chiếm phần đất thuộc quyền sở hữu của ông H. Do đó, ông H có yêu cầu khởi kiện buộc ông P, bà A trả lại phần đất mà ông P, bà A đang lấn chiếm và dừng các hành vi trái pháp luật nêu trên. Qua đo đạc thực tế, Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông H là có căn cứ nên tuyên xử chấp nhận yêu cầu của ông H, buộc ông P, bà A trả lại đất lấn chiếm của ông H và chấm dứt các hành vi trái pháp luật. Không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm nên ông P, bà A có đơn kháng cáo. Tại cấp phúc thẩm, xét thấy bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 131/2025/DS-PT
Ngày 06-3-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
và yêu cầu chấm dứt hành vi trái
pháp lu
t
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Ngô Thị Bích Diệp
Ông Nguyễn Trung Dũng
Ông Nguyễn Văn Tài
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Quốc Nhi - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Trần Thị Phước - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 576/2024/TLPT-DS ngày 06 tháng 11 năm
2024 về việc “Tranh chấp về quyền sử dụng đất, yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp
luật”
Do Bản án n sự thẩm số 19/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố huyện B, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 39/2024/QĐ-PT, ngày 24
tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1955; địa chỉ: tB, p Đ, Đ,
huyện B, tỉnh BD; có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Q
Nguyễn Thị Pha L – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai; có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1972 Thị A, sinh năm 1966;
địa chỉ: tổ B, ấp Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh BD; có mặt.
2
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện B, địa chỉ: khu phố E, thị trấn T, huyện B, tỉnh BD;
đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1958; địa chỉ: tổ B, ấp Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh BD;
có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Thanh P và bà Lê Thị A.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 04 tháng 01 năm 2023, bản tự khai, quá trình giải
quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Minh H, trình bày: Ông H khai hoang diện tích
đất 987,5m
2
(thuộc thửa đất số 551, tờ bản đồ số 14) tại Đ, huyện B, tỉnh Bình
Dương. Ngày 25/7/2019 ông H G được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số
bìa CR 30103. Giáp ranh với thửa đất số 551, tờ bản đồ số 14 thửa đất số 351, tờ
bản đồ số 14, diện tích 4.758m
2
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H
00433 ngày 19/11/2007 do Ủy ban nhân dân huyện T (nay Bắc Tân Uyên) cấp cho
vợ chồng ông Nguyễn Thanh P và Thị A. Tại thời điểm được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 551, tờ bản đsố 14 thì Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai Chi nhánh huyện B tiến hành đo đạc, cắm mốc ranh giới bằng cột
tông, ranh giới là một đường thẳng điểm đầu tiếp giáp với đường Đ 18 kéo dài đến
điểm tiếp giáp cuối là thửa đất số 357 để phân định ranh giới đất giữa thửa 551 của vợ
chồng ông H với thửa 351 của vợ chồng ông P A. Tuy nhiên, ông P bà A
hành vi tháo dỡ các cột mốc đã được cắm và nhổ, chặt phá cây trồng, hoa màu mà ông
H đang canh tác, lấn chiếm sang một phần đất của thửa 551 để trồng hoa màu làm
đường đi vào nhà ông P. Phần diện tích đất lấn chiếm chiều ngang khoảng 2m,
chiều dài khoảng 140m nằm tại vị trí 15, 16 theo bản vMảnh trích lục địa chính
đo đạc chỉnh số TL 36-2019 ngày 21/02/2019 của Chi nhánh Văn phòng Đăng
đất đai huyện B. Ông H nhiều lần trao đổi với vợ chồng ông P, A về việc trả lại
diện tích đất lấn chiếm xây dựng lại tường rào theo ranh giới đất đã được nhà nước
công nhận quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp để
không phát sinh tranh chấp vsau nhưng vợ chồng ông P A không đồng ý
còn thách thức, có hành vi cản trở, ngăn cản ông H thực hiện quyền sử dụng đất.
Ông H làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân n Đ Văn phòng Đăng đất đai
huyện B đến đo đạc khôi phục lại ranh mốc của thửa đất số 551, tại thời điểm đo đạc
phục hồi lại ranh mốc thì c định vợ chồng ông P bà A lấn sang thửa đất số
551. Vợ chồng ông P, A không thống nhất ranh giới, mốc giới do Văn phòng Đăng
3
đất đai chi nhánh huyện B nên ông H khởi kiện yêu cầu ông P bà A phải trả lại
cho ông H diện tích đất 280m
2
(thuộc một phần thửa đất số 551, tờ bản đồ 14) tại
Đ, huyện B, tỉnh nh Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền shữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CR 301037, do Ủy ban nhân dân huyện B cấp
ngày 25/7/2019 cho ông H, G đồng thời yêu cầu ông P A chấm dứt hành vi
cản trở ông H cắm mốc, đo đạc thửa đất số 551, tờ bản đồ số 14 tại xã Đ, huyện B,
tỉnh Bình Dương.
Tại phiên tòa sơ thẩm, theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh số 261-
2023 ngày 08/11/2023 của Chi nhánh văn phòng Đăng đất đai ban hành thì ông H
thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện chỉ u cầu ông P, A phải trlại diện tích đất
217,7m
2
. Về yêu cầu phản tố của ông P, bà A thì ông H không đồng ý.
- Bị đơn ông Nguyễn Thanh P Thị A, trình bày: Ông P A không
đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông H bởi lẽ thửa đất số 351 nguồn gốc do ông P, bà
A khai hoang sử dụng từ m 1985 đến nay, ranh giới ràng, từ khi sử dụng
đến nay không tranh chấp. Năm 2019, gia đình ông H u n bđịa chính đến đo
lại đất của gia đình ông H thì phát sinh tranh chấp do ông H chỉ đất của ông H nằm
bên đất ông P trong hàng rào móng gạch gia đình ông P đã xây cặp vào hàng rào
ông H đã rào trước vào m 2003, năm 2004. Đến năm 2013, năm 2014, ông H cũng
cặp bên hông hàng rào gạch gia đình ông P đã xây hàng rào gạch lên cao ½ rào
bằng lưới B40 lên trên với chiều dài từ đường đất đỏ vào khoảng 40m. Ông P cho rằng
hai bên đã sử dụng đất n định. Ngoài ra, khi xây hàng rào, ông P cũng kêu ông H
ra để chỉ ranh, do ông H thống nhất nên ông P mới xây móng gạch cặp theo hàng o
ông H đã xây trước. Phần đất ông H tranh chấp với ông P cũng đã đổ đá mi làm
đường đi vào nhà.
Ông P vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án công nhận cho ông P
được quyền sử dụng diện ch đất 217,7m
2
(thuộc một phần thửa đất số 551, tờ bản đồ
số 14) Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H do ông P
người sử dụng phần diện tích đất này ổn định từ năm 2003, 2004 cho đến nay.
- Người có quyền lợi, nghĩa vliên quan: Nguyễn Thị G thống nhất toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Không đồng ý toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện B trình bày:
Trình tự thủ tục cấp thửa đất số 351, tờ bản đồ số 14 tại Đ, huyện B, tỉnh Bình
Dương giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với
đất svào scấp Giấy chứng nhận H00433 do y ban nhân dân huyện T (nay Bắc
Tân Uyên) cấp ngày 02/3/2011 cấp cho ông Nguyễn Thanh P được thực hiện theo
4
Điều 135 Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ. Tại thời điểm cấp
giấy chứng nhận không có đo đạc thực tế, căn cứ theo trích lục bản đồ do Văn phòng
đăng quyền sử dụng đất huyện T thực hiện, không đo đạc thực tế, không hồ
sơ lấy ý kiến của các chủ thửa đất liền kề.
Trình tự thủ tục cấp thửa đất số 551, tờ bản đồ số 14 tại Đ, huyện B, tỉnh
Bình ơng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn
liền với đất svào sổ CH02397 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 25/7/2019 cấp
cho ông Nguyễn Minh H được thực hiện theo Điều 101 Luật đất đai, Điều 20, Điều 70
Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Tại thời điểm cấp giấy
chứng nhận không có đo đạc thực tế, căn cứ theo trích lục bản đồ do Văn phòng đăng
quyền sử dụng đất huyện B thực hiện ngày 21/02/2019, có đo đạc thực tế, hồ
lấy ý kiến, ký giáp ranh của các chủ thửa đất liền kề ngày 08/7/2015.
Tại bản án dân sự thẩm số 19/DS-ST ngày 29/5/2024 của Tòa án nhân n
huyện B tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Minh H đối với
các bị đơn ông Nguyễn Thanh P, bà Nguyễn Thị Ánh vviệc tranh chấp quyền sử
dụng đất.
Ông Nguyễn Thanh P, bà Nguyễn Thị Ánh phải trả lại cho ông Nguyễn Minh H
diện tích đất 217,7m
2
(thuộc một phần thửa đất số 551, tờ bản đồ số 14) tại Đ,
huyện B, tỉnh Bình Dương (có sơ đồ, bản vẽ kèm theo).
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh H về việc yêu cầu bị đơn
phải chấm dứt hành vi trái pháp luật: Buộc bđơn ông Nguyễn Thanh P, Nguyễn
Thị Ánh chấm dứt hành vi trái pháp luật không được cản trở việc ông Nguyễn Minh H
thực hiện quyền của người sử dụng đất như đo đạc, cắm mốc trong phạm vi diện tich
đất 217,7m
2
(thuộc một phần thửa đất số 551, tờ bản đồ số 14) tại Đ, huyện B, tỉnh
Bình Dương.
Ông Nguyễn Minh H trách nhiệm bồi thường cho bị đơn ông Nguyễn Thanh
P ThA giá trị hàng ng gạch 7.867.000 đồng (bảy triệu tám trăm sáu
mươi bảy nghìn đồng).
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Thanh P
Thị A về việc yêu cầu công nhận diện tích đất 217,7m
2
(thuộc một phần thửa đất số
551, tờ bản đồ số 14) tại xã Đ cho bị đơn ông Nguyễn Thanh P và bà Lê Thị A.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên về phần án phí, chi phí tố tụng quyền
kháng cáo của các đương sự.
5
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự không thỏa thuận được với nhau vviệc
giải quyết vụ án.
Ý kiến của Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Xét thấy
Tòa án cấp thẩm xử hoàn toàn căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của Kiểm sát viên: Vthủ tục tố tụng, những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bluật Ttụng
dân sự. Về nội dung vụ án, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử có căn cứ nên không có cơ
sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bđơn. Đề nghị Hội đồng xét xgiữ nguyên bản
án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Những người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ủy ban
nhân dân huyện B Nguyễn Thị G yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét
xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Vnội dung vụ án: Nguyên đơn sử dụng diện tích đất 987,5m
2
(thuộc thửa
đất số 551, tờ bản đồ số 14) tại xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Dương được Ủy ban nhân
dân huyện B giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH02397 ngày 25/7/2019.
Tiếp giáp với thửa đất số 551 của nguyên đơn thửa đất số 351, diện tích 4.758m
2
của bị đơn được Ủy ban nhân dân huyện B cấp số vào sổ Giấy chứng nhận H00433
cấp ngày 02/3/2011. Nguyên đơn cho rằng trong quá trình sử dụng đất bị đơn lấn
chiếm đất của nguyên đơn diện tích 217,7m
2
theo Mảnh trích lục địa chính đo đạc
chỉnh số 261-2023 ngày 08/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai
huyện B nên nguyên đơn khởi kiện bị đơn để đòi lại đất. Bị đơn cho rằng đất tranh
chấp thuộc quyền sử dụng đất của bị đơn nên bị đơn không đồng ý trả đất cho nguyên
đơn. Hiện trạng phần đất tranh cấp nguyên đơn xây hàng rào gạch cao ½ rào lưới
B40 phía trên, bị đơn xây móng gạch cặp sát vào hàng rào nguyên đơn đã xây nên hai
bên. Theo kết quả đo đạc thực tế thì nguyên đơn chỉ có sử dụng diện tích đất 630,6m
2
,
so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn thì nguyên đơn sử dụng
thiếu diện tích đất 356,9m
2
. Còn bị đơn thực tế sử dụng diện tích đất 5.340,9m
2
nhiều hơn diện tích đất 582,9m
2
so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp.
Diện tích đất bị đơn đang sử dụng nhiều hơn diện tích đất y ban nhân dân huyện
B đã cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất nhưng bị đơn không chứng minh được
6
diện tích đất thừa y do đâu mà có, trong khi đó nguyên đơn sử dụng đất lại giảm
diện tích mà diện tích đất tranh chấp thuộc thửa đất số 551 của nguyên đơn đã được
Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngoài ra căn cứ
vào hcấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn hồ đo đạc
thực tế theo Mảnh trích đo địa chính đo đạc chỉnh số 36-2019 ngày 21/02/2019,
kèm theo là bảng mô tả ranh giới đất có hộ Trần Thị Tuyết N và Mai Văn L ký, còn bị
đơn không tên nên Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện B thực hiện niêm
yết theo Thông báo số 196 ngày 01/10/2015, biên bản kết thúc niêm yết công khai
ngày 19/10/2015 và ngày 29/10/2015 nhưng hết thời hạn bị đơn không khiếu nại,
đến ngày 03/6/2019, nguyên đơn tiếp tục đơn đnghị xác nhận cấp đất được y
ban nhân dân Đ xác nhận. Ngày 11/6/2019, y ban nhân dân Đ tổ chức lấy ý
kiến dân cư, ngày 09/7/2019, Phòng Tài nguyên Môi trường huyện B văn bản số
1032/TTr-PTNMT về việc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên
đơn trên sở xác định lại ranh giới đất, do vậy, nhận thấy quá trình Chi nhánh Văn
phòng Đăng đất đai huyện B đã thực hiện việc cấp lại thửa đất số 551 tờ bản đồ 14
tại Đ cho nguyên đơn căn cứ pháp luật, đúng với quy định tại Điều 101 Luật
đất đai, Điều 20, Điều 70 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
Do đó, cơ sở xác định diện tích đất tranh chấp 217,7m
2
thuộc một phần thửa đất số
551 của nguyên đơn. Việc bị đơn xây móng và làm lối đi đối với diện tích đất 217,7m
2
hành vi chiếm hữu không căn cứ pháp luật nên việc buộc bđơn phải trả lại cho
nguyên đơn diện tích đất 217,7m
2
đất căn cứ. Xác định diện tích đất tranh chấp
217,7m
2
(thuộc một phần thửa đất số 551) của nguyên đơn nhưng bị đơn sử dụng trái
pháp luật nên buộc các bị đơn phải chấm dứt hành vi trái pháp luật cản trở nguyên đơn
sử dụng diện tích đất tranh chấp 217,7m
2
thuộc thửa đất số 551 là có căn cứ.
Về hàng móng gạch do vợ chồng bị đơn đã xây thể hiện trên Mảnh trích lục địa
chính đo đạc chỉnh số 261- 2023 ngày 08/11/2023 chiều dài 40,29m nằm
trong thửa đất số 551 của nguyên đơn, do khi bị đơn xây dựng nguyên đơn không có ý
kiến nên cần buộc nguyên đơn phải trả lại cho các bị đơn số tiền gtrị móng gạch
7.867.000 đồng. Xét thấy Tòa án cấp thẩm xử căn cứ nên không n cchấp
nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị
Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận.
Ý kiến của kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án thẩm
có căn cứ.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm:
Vì các lẽ trên,
7
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 148 và khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Uban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thanh P, bà
Thị A.
2. Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số 19/DS-ST ngày 29/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện B.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Thanh P, bà Thị A phải nộp số tiền
300.000 đồng được khấu trvào số tiền tạm ứng theo biên lai thu số 0003776 ngày
26/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS huyện B;
- TAND huyện B;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Ngô Thị Bích Diệp
Tải về
Bản án số 131/2025/DS-PT Bản án số 131/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 131/2025/DS-PT Bản án số 131/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất