Bản án số 195/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 195/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 195/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 195/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 195/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 195/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và kiện đòi tài sản, NĐ Trần Thị Ngọc H, BĐ Mai Thị Phước T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 195/2025/DS-PT
Ngày 27 - 3 -2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay
tài sản; kiện đòi tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Thanh.
Ông Nguyễn Văn Huỳnh;
Ông Nguyễn Trung Dũng.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Minh Hoàng - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Bà Trần Thị Phước - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 03/2025/TLPT-DS ngày 02
tháng 01 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và kiện đòi tài
sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 165/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 127/2024/QĐPT-DS,
ngày 20 tháng 02 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số
192/2025/QĐ-PT ngày 12 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Ngọc H, sinh năm 1963; địa chỉ: số G, tổ D,
khu phố K, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Ngô Anh K, sinh năm
1998; địa chỉ: tổ H, ấp B, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang, là người đại diện theo
uỷ quyền (văn bản ủy quyền ngày 13/3/2024), có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Bà Mai Thị Phước T, sinh năm 1974; địa chỉ: tổ A, khu phố K,
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: ông Lê Việt H1, sinh năm 1977; địa
chỉ: số E Đại lộ B, tổ B, khu phố A, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương,
là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 14/5/2024), có mặt.
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị Trúc L, sinh năm 1991; địa chỉ: ấp Đ, xã N, huyện T, tỉnh
Quảng Ngãi, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bà Tạ Ngọc Linh K1, sinh năm 1993; địa chỉ: số A, tổ A, khu phố K,
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Nam T1, sinh năm 1964; địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện C,
tỉnh Trà Vinh, có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Bà Dương Nguyễn Ngọc T2, sinh năm 1989; địa chỉ: số A, tổ D, khu
phố M, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
5. Ông Vũ Văn L1, sinh năm 1989; địa chỉ: tổ A, khu phố H, phường T,
thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo án sơ thẩm, nguyên đơn là Trần Thị Ngọc H và người đại diện hợp
pháp của nguyên đơn là ông Ngô Anh K trình bày:
Bà Trần Thị Ngọc H và bà Mai Thị Phước T là chỗ quen biết và làm ăn
thân tình với nhau, thời điểm trước đây bà T gặp khó khăn trong việc làm ăn và
có mượn bà H số tiền 2.000.000.000 đồng vào ngày 03/02/2017 âm lịch (nhằm
ngày 28/02/2017 dương lịch), không thoả thuận lãi. Khi nào trả xong nợ gốc sẽ
trả tiền lãi theo quy định là 20%/năm trên số tiền gốc đã vay là 2.000.000.000
đồng. Hai bên thỏa thuận miệng, bà H cho bà T trả dần số tiền trên cho đến khi
hết nợ, từ ngày 17/6/2019, bà T bắt đầu trả nợ cho bà H. Thời gian đầu, bà T có
trả cho bà H số tiền trên thành nhiều lần khác nhau nhưng sau đó bà H yêu cầu
trả nhiều tiền thì bà T chỉ trả số tiền nhỏ và sau đó thì không trả nữa. Việc trả
tiền được thực hiện qua hình thức chuyển khoản vào tài khoản số
5506215002904 của bà Trần Thị Ngọc H tại Ngân hàng N trong khoảng thời
gian từ ngày 17/6/2019 đến ngày 05/3/2024 với tổng số tiền bà T đã trả bà H là
1.470.000.000 đồng.
Hiện tại bà T còn nợ bà H số tiền 530.000.000 đồng, bà H có liên hệ qua
điện thoại, gặp trực tiếp yêu cầu bà T trả số tiền còn lại nhưng bà T lại hứa hẹn
nhiều lần, chờ nhận tiền đền bù đất mới trả nợ. Bà T vi phạm nghĩa vụ nhưng lại
có yêu cầu phản tố là không hợp tình hợp lý. Vì vậy, bà H yêu cầu: buộc bà Mai
Thị Phước T có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị Ngọc H số tiền nợ gốc là
530.000.000 đồng, tiền lãi trên nợ gốc là 2.000.000.000 đồng, tính từ ngày
17/6/2019 đến ngày bản án có hiệu lực, tạm tính là 65 tháng với mức lãi suất
10%/năm với số tiền 1.079.000.000 đồng, tổng số tiền là 1.609.000.000 đồng.
Số nợ 2.000.000.000 đồng theo giấy nợ ngày 03/02/2017 (âm lịch) bà H
cho bà T trả nợ gốc thành nhiều lần theo khả năng của bà T, khi nào hoàn thành
nghĩa vụ trả nợ gốc sẽ trả lãi suất theo quy định của pháp luật. Đối với số tiền
870.000.000 đồng do bà T và nhân viên của bà T thanh toán cho bà H là tiền mà
3
bà T trả nợ cho khoản vay nợ khác của bà H với số nợ là 1.800.000.000 đồng
(sau khi trả xong thì các bên đã hủy bỏ giấy nợ nên bà H không còn để nộp cho
Tòa án) nên số tiền 870.000.000 đồng này không liên quan đến giấy nợ ngày
03/02/2017 (âm lịch) mà bà H đang khởi kiện. Do đó, việc bà T cho rằng trả nợ
dư số tiền 870.000.000 đồng là không phù hợp nên bà H không đồng ý với yêu
cầu phản tố của bà T.
- Bị đơn bà Mai Thị Phước T và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn
là ông Lê Việt H1 trình bày:
Bà Trần Thị Ngọc H căn cứ vào Tờ giấy viết ngày 03/02/2017 (âm lịch)
có nội dung “T có mượn cô H 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng chẵn)” và S phụ
tại Ngân hàng A chi nhánh T4 - Bình Dương (dòng tiền đến và đi theo số tài
khoản: 5506215002904 của chủ tài khoản bà Trần Thị Ngọc H) để cho rằng bà
T vay 2.000.000.000 đồng và mới chỉ trả được 1.470.000.000 đồng, còn nợ:
530.000.000 đồng và yêu cầu bà T phải trả khoản nợ này. Bà T xác nhận Tờ
giấy vay ngày 03/02/2017 do chính bà T viết, xác nhận có vay bà H số tiền
2.000.000.000 đồng vào ngày 03/02/2017 (âm lịch) là đúng. Xác định giữa hai
bên có quan hệ quen biết từ lâu nên không thỏa thuận lãi suất và thời hạn trả nợ,
việc vay mượn chỉ mang tính hỗ trợ nhau. Từ khi vay (ngày 03/02/2017 – âm
lịch) thì bà T bắt đầu trả dần cho bà H, đợt trả đầu tiên là ngày 05/9/2018 và lần
cuối cùng là ngày 05/3/2024 (tổng cộng 28 đợt trả tiền vay).
Qua các lần trả tiền (dưới 3 hình thức: đưa tiền cho nhân viên nộp tiền mặt
vào số tài khoản của bà H; Ủy nhiệm chi từ Ngân hàng S1 vào tài khoản của bà
H và chuyển tiền banking từ Ngân hàng T5 vào tài khoản của bà H) thì bà T đã
chuyển tiền “trả nợ theo giấy nợ ngày 3/2/2017” cho bà H được tổng số tiền là:
2.870.000.000 đồng/2.000.000.000 đồng. Trong đó:
- Nhờ nhân viên là bà Trần Thị Trúc L, bà Tạ Ngọc Linh K1, ông Nguyễn
Nam T1, bà Dương Nguyễn Ngọc T2, ông Vũ Văn L1 nộp tiền mặt 06 đợt, tổng
cộng số tiền là: 1.200.000.000 đồng.
- Ủy nhiệm chi từ Ngân hàng S1 (mười một) đợt, tổng cộng số tiền
1.300.000.000 đồng.
- Chuyển tiền banking từ Ngân hàng T5 11 đợt, tổng cộng số tiền là:
370.000.000 đồng.
Tổng cộng bà T đã chuyển khoản thanh toán cho bà H là 2.870.000.000
đồng. Các lần chuyển khoản vào số tài khoản của bà H đều có nội dung “Trả nợ
theo giấy nợ ngày 3/2/2017”.
Do bà T đã thanh toán đủ và vượt số tiền đã vay từ bà H nên khi bà H yêu
cầu bà T tiếp tục trả nợ thì bà T không ý. Bà T không những đã trả xong tiền nợ
2.000.000.000 đồng theo Tờ giấy vay ngày 3/2/2017, bà T còn thanh toán vượt
quá số tiền vay là 870.000.000 đồng nhưng bà H lại khởi kiện để cho rằng bà T
mới chỉ trả được 1.470.000.000 đồng/2.000.000.000 đồng, buộc bà T phải trả
530.000.000 đồng là không đúng. Do bà T và bà H làm ăn nhiều lần với nhau
4
nên khi trả nợ thì bà T không ghi chép, không thống kê việc trả nợ dẫn đến việc
trả dư số tiền 870.000.000 đồng.
Đối với yêu cầu khởi kiện bổ sung của bà H về việc yêu cầu bà T trả tiền
lãi trên nợ gốc là 2.000.000.000 đồng tính từ ngày 17/6/2019 đến ngày bản án có
hiệu lực, tạm tính là 65 tháng với mức lãi suất 10%/năm với số tiền
1.079.000.000 đồng thì bà T không đồng ý do khi vay mượn thì hai bên không
có thoả thuận thời hạn và lãi suất.
Vì vậy, bà T có yêu cầu phản tố, yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:
buộc bà Trần Thị Ngọc H phải hoàn trả cho bà Mai Thị Phước T số tiền
870.000.000 đồng đã chuyển dư.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Trúc L trình bày:
Trước đây bà L là nhân viên kế toán của bà Mai Thị Phước T, làm việc tại
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vào ngày 05/9/2018, bà T có nhờ bà
L nộp tiền mặt (200.000.000 đồng) vào số tài khoản: 5506215002904 tại Ngân
hàng N, chủ tài khoản là bà Trần Thị Ngọc H để trả nợ cho bà H theo khoản vay
ngày 03/02/2017. Bà L thực hiện theo đúng yêu cầu của bà T, đã nộp số tiền
200.000.000 đồng vào số tài khoản của bà H và ghi nội dung “Mai Thị Phước T
chi trả tiền gốc theo giấy nợ ngày 3/2/2017”. Bà L xác định hoàn toàn không
quen biết và có quan hệ gì với bà Trần Thị Ngọc H. Việc bà L nộp tiền vào số
tài khoản của bà H là do bà T nhờ bà L nộp giúp. Nhận thấy, bà L đã thực hiện
xong việc nộp tiền vào tài khoản theo yêu cầu của bà T. Bà L không có quyền
lợi hay nghĩa vụ gì trong việc này và không có yêu cầu độc lập trong vụ án,
đồng thời bà có đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Ngọc Linh K1 trình bày:
bà K1 là con gái của bà Mai Thị Phước T. Bà K1 không quen biết và có quan hệ
gì với bà Trần Thị Ngọc H. Vào ngày 17/10/2018, bà T có nhờ bà K1 nộp tiền
mặt (200.000.000 đồng) vào số tài khoản: 5506215002904 tại Ngân hàng N, chủ
tài khoản là bà Trần Thị Ngọc H để trả nợ cho bà H theo khoản vay ngày
3/2/2017. Bà K1 thực hiện theo đúng yêu cầu của mẹ là bà T, đã nộp số tiền
200.000.000 đồng vào số tài khoản của bà H và ghi nội dung “Mai Thị Phước T
chi trả tiền gốc theo giấy nợ ngày 3/2/2017”. Bà K1 xác định: việc bà K1 nộp
tiền vào số tài khoản của bà H là do mẹ bà K1 nhờ bà K1 đi nộp giúp. Nhận
thấy, bà K1 đã thực hiện xong việc nộp tiền vào tài khoản theo yêu cầu của bà T.
Bà K1 không có quyền lợi hay nghĩa vụ gì trong việc này và không có yêu cầu
độc lập trong vụ án, đồng thời bà có đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình
giải quyết vụ án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Nam T1 trình bày:
trước đây, ông T1 có làm việc cho bà Mai Thị Phước T tại phường T, T, tỉnh
Bình Dương. Đối với bà Trần Thị Ngọc H thì ông T1 không quen biết và không
có quan hệ giao dịch gì. Trong thời gian làm việc cho bà T, ông T1 được bà T
nhờ nộp 02 lần tiền (tổng cộng là 400.000.000 đồng) vào số tài khoản:
5506215002904 tại Ngân hàng N, chủ tài khoản là bà Trần Thị Ngọc H để trả nợ
cho bà H theo khoản vay ngày 3/2/2017. Cụ thể:
5
- Lần 1: ngày 01/12/2018, bà T đưa ông T1 200.000.000 đồng nộp vào tài
khoản trên của bà H với nội dung “Nguyễn Nam T1 nộp tiền: Mai Thị Phước T
chi trả tiền gốc theo giấy nợ ngày 3.2.2017”.
- Lần 2: ngày 11/01/2019, bà T đưa ông T1 200.000.000 đồng nộp vào tài
khoản trên của bà H với nội dung “Nguyễn Nam T1 nộp tiền: Mai Thị Phước T
chi trả tiền gốc theo giấy nợ ngày 3.2.2017”.
Ông T1 xác định nộp tiền vào số tài khoản của bà H là do bà T nhờ ông
T1 đi nộp giúp để trả nợ cho bà H theo Giấy nợ ngày 03/02/2017 và ông T1 đã
thực hiện xong việc nộp tiền vào tài khoản của bà H theo yêu cầu của bà T. Ông
T1 không có quyền lợi hay nghĩa vụ gì trong việc này và không có yêu cầu độc
lập trong vụ án, đồng thời ông có đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình
giải quyết vụ án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Dương Nguyễn Ngọc T2 trình
bày: trước đây bà T2 là nhân viên kế toán của bà Mai Thị Phước T, làm việc tại
phường T, T, tỉnh Bình Dương. Vào ngày 13/3/2019, bà T có nhờ bà T2 nộp tiền
mặt (200.000.000 đồng) vào số tài khoản: 5506215002904 tại Ngân hàng N, chủ
tài khoản là bà Trần Thị Ngọc H để trả nợ cho bà H theo khoản vay ngày
03/02/2017. Bà T2 thực hiện theo đúng yêu cầu của bà T, đã nộp số tiền
200.000.000 đồng vào số tài khoản của bà H với nội dung “Mai Thị Phước T chi
trả tiền gốc theo giấy nhận nợ ngày 3/2/2017”. Bà T2 xác định hoàn toàn không
quen biết và có quan hệ gì với bà Trần Thị Ngọc H. Việc bà T2 nộp tiền vào số
tài khoản của bà H là do bà T nhờ nộp giúp. Nhận thấy, bà T2 đã thực hiện xong
việc nộp tiền vào tài khoản theo yêu cầu của bà T. Bà T2 không có quyền lợi
hay nghĩa vụ gì trong việc này và không có yêu cầu độc lập trong vụ án, đồng
thời bà có đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vũ Văn L1 trình bày: trước
đây, ông L1 có làm việc cho bà Mai Thị Phước T tại phường T, T, tỉnh Bình
Dương. Đối với bà Trần Thị Ngọc H thì ông L1 không quen biết và không có
quan hệ giao dịch gì. Trong thời gian làm việc cho bà T. Vào ngày 20/7/2019, bà
T có nhờ ông L1 nộp tiền mặt vào số tài khoản: 5506215002904 tại Ngân hàng
N, chủ tài khoản là bà Trần Thị Ngọc H để trả nợ cho bà H theo khoản vay ngày
03/02/2017. Nội dung là “Ông Vũ Văn L1 nộp tiền (Mai Thị Phước T chi trả tiền
gốc theo GNN (viết tắt của giấy nhận nợ) ngày 3/2/2017”. Ông L1 xác định: việc
ông L1 nộp tiền vào số tài khoản của bà H là do bà T nhờ ông L1 đi nộp giúp để
trả nợ cho bà H theo giấy nợ ngày 03/02/2017 và ông L1 đã thực hiện xong việc
nộp tiền vào tài khoản của bà H theo yêu cầu của bà T. Ông L1 không có quyền
lợi hay nghĩa vụ gì trong việc này và không có yêu cầu độc lập trong vụ án,
đồng thời ông có đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 165/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc
H đối với bị đơn bà Mai Thị Phước T về việc yêu cầu thanh toán tổng số tiền
6
1.609.000.000 đồng (Một tỷ sáu trăm lẻ chín triệu đồng), bao gồm tiền nợ gốc là
530.000.000 đồng, tiền lãi 1.079.000.000 đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Mai Thị Phước T đối với
nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H về việc tranh chấp đòi tài sản.
Buộc bà Trần Thị Ngọc H có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Mai Thị Phước T
số tiền 870.000.000 đồng (T3 trăm bảy mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, án phí và
quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/10/2024, nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc
H, có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa
bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu kháng cáo đồng thời, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn
xin vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố đối
với nguyên đơn, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nên không kiến nghị khắc
phục gì thêm.
Về nội dung: Xét thấy nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H kháng cáo yêu
cầu sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn nhưng người kháng cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì khác để
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Trần Thị Ngọc H, giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày
của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H trong hạn luật định.
Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý và
xét xử vụ án theo quy định.
7
[1.2] Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H
là ông Ngô Anh K, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Trúc
L, bà Tạ Ngọc Linh K1, bà Nguyễn Nam T1, bà Dương Nguyễn Ngọc T2 và
ông Vũ Văn L1 có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử vắng mặt các đương sự trên theo quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[2] Về nội dung: nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H khởi kiện yêu cầu bị
đơn là bà Mai Thị Phước T thanh toán tiền gốc vay và lãi suất chậm trả cho
nguyên đơn tổng số tiền: 1.609.000.000đ (một tỷ sáu trăm lẽ chín triệu đồng) là
tiền gốc và lãi suất theo quy định pháp luật, trong đó: tiền gốc là 530.000.000đ
(năm trăm ba mươi triệu đồng) vay ngày 03/02/2017 (âm lịch) và lãi suất
10%/năm tính từ ngày 17/6/2019 đến ngày bản án có hiệu lực của số tiền nợ gốc
2.000.000.000đ, tạm tính là 65 tháng (2.000.000.000đ x 10%/năm x 65 tháng) =
1.079.000.000đ (một tỷ không trăm bảy mươi chín triệu đồng). Chứng cứ do
nguyên đơn chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là giấy viết tay ngày 03/02/2017
âm lịch (là ngày 28/02/2017 dương lịch) có nội dung “T có mượn cô H
2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng chẳn)” do bị đơn bà T viết và ký tên. Quá trình
tố tụng bị đơn thừa nhận có vay của nguyên đơn bà H số tiền 2.000.000.000
đồng vào ngày 03/02/2017 (âm lịch) nhằm ngày 28/02/2017 dương lịch và giấy
tay ngày 03/02/2017 là do bà T viết nhưng bà T đã trả hết số tiền nợ gốc, do
không ghi chép, không thống kê việc trả nợ dẫn đến đã trả dư số tiền
870.000.000 đồng và bà T có yêu cầu phản tố, buộc bà Trần Thị Ngọc H phải
hoàn trả cho bà Mai Thị Phước T số tiền 870.000.000 đồng đã chuyển dư.
[3] Nguyên đơn bà H cho rằng hai bên thỏa thuận miệng là bà T trả dần số
tiền cho đến khi hết nợ, hai bên không thỏa thuận tiền lãi, khi nào trả xong nợ
gốc, bà T sẽ trả tiền lãi theo quy định là 20%/năm trên số tiền gốc đã vay là
2.000.000.000 đồng, nhưng sau khi nhận tiền đến nay bị đơn chỉ mới trả được
tiền gốc là 1.470.000.000 đồng. Tại Sổ phụ tài khoản số 5506215002904 của bà
Trần Thị Ngọc H tại Ngân hàng N thể hiện bà T đã chuyển khoản vào số tài
khoản 5506215002904 của bà Trần Thị Ngọc H tổng cộng 28 lần bắt đầu từ
ngày 05/9/2018, lần cuối là vào ngày 05/3/2024 dưới các hình thức: nhân viên
của bà T là bà Trần Thị Trúc L, bà Tạ Ngọc Linh K1, ông Nguyễn Nam T1, bà
Dương Nguyễn Ngọc T2, ông Vũ Văn L1 nộp tiền mặt 06 đợt với tổng số tiền
là: 1.200.000.000 đồng; ủy nhiệm chi từ ngân hàng S1 11 đợt, tổng số tiền
1.300.000.000 đồng; chuyển tiền banking từ Ngân hàng T5 11 đợt, tổng số tiền
là: 370.000.000 đồng), mỗi lần chuyển khoản đều có ghi các nội dung: “ck tra
tien goc c huong theo giay no ngay 3-2-2017” hay “Tuyen ck tra tien goc c
huong theo giay no ngay 3-2-2017”, “…Mai Thị Phước T chi trả tiền gốc theo
giấy nợ ngày 3/2/2017” với tổng số tiền là 2.870.000.000 đồng.
Từ các chứng cứ nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị đơn (bà T) có
vay số tiền 2.000.000.000đ của nguyên đơn (bà H) và đã trả cho nguyên đơn bà
H tổng số tiền 2.870.000.000 đồng, dư so với tiền vay là 870.000.000 đồng là có
căn cứ và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn buộc nguyên đơn (bà H) có
nghĩa vụ hoàn trả cho bị đơn bà Mai Thị Phước T số tiền 870.000.000 đồng đã
8
trả dư so với số tiền vay là đúng quy định tại Điều 357 và Điều 466 của Bộ luật
Dân sự.
[4] Về thời hạn vay, lãi suất vay: 02 bên đều thống nhất đây là khoản vay
không kỳ hạn. Về lãi suất: nguyên đơn bà H khi vay hai bên thỏa thuận miệng là
bà T trả dần số tiền cho đến khi hết nợ, hai bên không thỏa thuận tiền lãi, khi
nào trả xong nợ gốc, bà T sẽ trả tiền lãi theo quy định là 20%/năm trên số tiền
gốc đã vay. Lời trình bày của nguyên đơn không được bị đơn (bà T) thừa nhận
nhưng nguyên đơn không có chứng cứ chứng minh. Do đó không có cơ sở xác
định số tiền nguyên đơn đã cho bị đơn vay là hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi
suất 20%/năm mà thuộc trường hợp hợp đồng vay không kỳ hạn và không có
lãi. Nguyên đơn (bên cho vay) có quyền đòi lại tài sản và bị đơn (bên vay) cũng
có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho nhau biết trước một thời
gian hợp lý theo quy định tại khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Dân sự. Xét thấy,
ngày 22/3/2024, bà H có gửi thông báo bằng văn bản thu hồi nợ đến nơi ở của
bà T thông qua đường bưu chính, thông báo cho bà T biết đến trả nợ vay cho bà
H, nhưng đến ngày 05/3/2024, bà T đã trả dư so với số tiền vay là 870.000.000
đồng cho bà H nên yêu cầu tính lãi của nguyên đơn bà H là không có căn cứ
chấp nhận.
[5] Nguyên đơn bà H kháng cáo cho rằng số tiền 870.000.000 đồng do bà
T và nhân viên của bà T thanh toán cho bà H là tiền mà bà T trả nợ cho khoản
vay nợ khác của bà H với số nợ là 1.800.000.000 đồng (sau khi trả xong thì các
bên đã hủy bỏ giấy nợ nên bà H không còn để nộp cho Tòa án), tuy nhiên bà H
không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Do đó, kháng cáo của
nguyên đơn bà H là không có căn cứ chấp nhận nên giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[6] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa phúc thẩm là phù hợp.
[7] Về án phí: nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H phải chịu án phí phúc
thẩm do kháng cáo không được chấp nhận nhưng do bà H là người cao tuổi nên
được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 165/2024/DS-ST ngày 30 tháng
9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
9
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Trần
Thị Ngọc H do bà H là người cao tuổi.
4. Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS TP. Tân Uyên;
- TAND TP. Tân Uyên;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Thanh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Bản án số 222/2025/DS-PT ngày 01/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 198/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 207/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 177/2025/DS-PT ngày 21/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm