Bản án số 140/2025/DS-PT ngày 13/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 140/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 140/2025/DS-PT ngày 13/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 140/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Bùi Thị P là chủ sử dụng thửa đất số 216, tờ bản đồ số 27 tại phường TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thửa đất số 866, 877 của ông T có nguồn gốc của bà P tách ra từ thửa đất số 216 chuyển nhượng qua nhiều chủ. Trong quá trình sử dụng, diện tích đất của bà P có tăng, có giảm. Khi ông T nhận chuyển nhượng, giữa hai thửa đất đã có cột mốc bê tông để xác định ranh nhưng không đúng. Bà P có yêu cầu ông T sử dụng đúng diện tích đã nhận chuyển nhượng nhưng ông T không đồng ý. Do đó, bà P khởi kiện yêu cầu ông T trả lại cho bà diện tích đất đã lấn chiếm là 91,2m2. Qua đo đạc, xác minh, Tòa án cấp sơ thẩm xác định thực tế ông T đang sử dụng đất có diện tích lớn hơn diện tích được cấp quyền sử dụng đất, buộc ông T trả lại cho bà P diện tích đất đang lấn chiếm là 43,9m2. Nguyên đơn cho rằng diện tích bị lấn chiếm lớn hơn diện tích mà Tòa án xác định. Bị đơn cho rằng mình chỉ sử dụng đất theo các cột ranh mốc khi chuyển nhượng chứ không có hành vi lấn chiếm. Do đó, bà P, ông T có đơn kháng cáo. Tại cấp phúc thẩm, xét thấy nguyên đơn, bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Do đó, không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 140/2025/DS-PT
Ngày 13-3-2025
V/v
tranh ch
p
quy
n s
d
ng đ
t
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Ngô Thị Bích Diệp
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết
Ông Nguyễn Văn Tài
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Quốc Nhi - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Ngô Kim Duyên - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 3 năm 2025, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Bình Dương t
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 440/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng
10 năm 2024 về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 100/2024/DS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 74/2024/QĐ-PT, ngày 04
tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bùi Thị P, sinh năm 1935; địa chỉ: tổ B, khu phố T,
phường TH, thành phố T, tỉnh BD.
Người đại diện hợp pháp: Đinh Thị H, sinh năm 1954; địa chỉ: tổ B, khu
phố T, phường TH, thành phố T, tỉnh BD; có mặt.
- Bị đơn: Ông Đỗ Huy T, sinh năm 1967; địa chỉ: tổ B, khu phố T, phường
TH, thành phố T, tỉnh BD; có mặt.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị N, sinh năm 1972;
Địa chỉ: tổ B, khu phố T, phường TH, thành phố T, tỉnh BD; có mặt.
Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Bùi Thị P và bị đơn ông Đỗ Huy T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa, người đại diện
hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Bùi Thị P chủ sdụng thửa đất số 216,
tờ bản đồ số 27 tại phường TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương được cấp giấy chứng
nhận số 00016 QSDĐ/TU ngày 05/02/1999. Đất này có nguồn gốc của cha mẹ bà P
để lại, sau giải phóng m 1975, P về sinh sống trên đất cho đến nay. Thửa đất
số 866, 877 của ông T nguồn gốc của P ch ra tthửa đất số 216 chuyển
nhượng qua nhiều chủ. Thửa đất số 866 chiều ngang 8m, chiều dài 40m, thửa
đất số 877 chiều ngang 4m, chiều dài 40m. Thời điểm ông T nhận chuyển nhượng
thửa đất số 866 đất trống, ranh mốc cọc tông nhưng cọc mốc giáp ranh thời
điểm đó không đúng, chiều rộng đã lấn sang đất của bà P khoảng 0,6m chiều
dài đã lấn sang đất của P khoảng 04m. Năm 2011 2012, khi ông T xây dựng
nhà bà P có nói để ông T xây dựng cho đúng nhưng ông T không đồng ý.
Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn P yêu cầu buộc bị đơn ông T phải tháo
dỡ phần tường rào, nhà, công trình trên phần diện tích đất 178m
2
thuộc thửa 21, tờ
bản đồ số 27 tại phường TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương để trả lại 178m
2
đất
cho bà P.
Quá trình giải quyết v án tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn yêu cầu bị đơn ông T người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan N
phải tháo dỡ các công trình xây dựng trên đất 91,2m
2
thuộc thửa 216 tờ bản đồ số
27 tại phường TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương theo kết quả đo đạc thực tế tại
Mảnh trích lục địa chính ngày 06/3/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố T để trả lại cho nguyên đơn.
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa bị đơn ông Đỗ Huy T trình bày:
Hiện tại vợ chồng ông T chủ sdụng thửa đất số 866 thửa đất số 877 tbản
đồ số 27 tại phường TH, thành ph T, tỉnh Bình Dương. Ông T nhận chuyển
nhượng thửa đất số 866, năm 2009 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số H05137 ngày 27/10/2009 (cấp đổi giấy chứng nhận số CS15076 ngày
05/7/2022), thửa đất s 877 nhận chuyển nhượng vào m 2018 được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CS09449 ngày 22/6/2018. Khi nhận chuyển
nhượng thửa đất số 866 tranh mốc giới được xác định cọc tông sẵn. Sau
khi nhận chuyển nhượng đất, cùng năm ông T xây nhà kho xưởng tiền chế giáp
ranh với thửa đất số 216 của P, đến năm 2011 vợ chồng ông T xây dựng nhà
phía sau nhà kho cũng giáp ranh với thửa đất số 216. Thời điểm xây dựng không có
ai tranh chấp, P con cháu ngay trên thửa đất số 216 cũng không ý kiến.
Năm 2018, ông T nhận chuyển nhượng thửa đất s877 thì ranh giới thửa đất số
877 với thửa đất số 216 tường móng của nhà trọ thuộc thửa đất số 877 (nhà
trọ đã đập bỏ). Ông T xác định nhận chuyển nhượng hợp pháp, được quan nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, ông T sử dụng đúng ranh mốc giới do
chủ xác định, không lấn chiếm đất của P. Do đó, đối với yêu cầu khởi kiện
3
của bà P thì ông T không đồng ý, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị N trình bày: N
vợ của ông T, thống nhất ý kiến trình bày của ông T.
Tại bản án dân sự thẩm số 100/DS-ST ngày 01/8/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố T tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bùi Thị P về
việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với bị đơn ông Đỗ Huy T.
- Buộc ông Đỗ Huy T, Nguyễn Thị N phải thanh toán cho Bùi Thị P
giá trị quyền sử dụng đất 43,9m
2
một phần thửa đất số 216, tờ bản đồ số 27 tại
phường TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương với số tiền 175.600.000 đồng (Một trăm
bảy mươi lăm triệu sáu trăm nghìn đồng).
Sau khi thanh toán giá trị đất cho bà Bùi Thị P, ông Đỗ Huy T và bà Nguyễn
Thị N được quyền sử dụng 43,9m
2
thuộc thửa đất số 216 tờ bản đồ số 27 tại phường
TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương (có sơ đồ kèm theo).
Kiến nghcơ quan nhà ớc thẩm quyn thu hồi, điều chỉnh giấy chứng
nhn quyn sử dụng đất s00016 QSDĐ/TU ngày 05/02/1999 theo hướng chỉnh
giảm diện ch thửa 216 phần đất diện tích 43,9m
2
đcấp cho vợ chồng ông Đỗ
Huy T và bà Nguyễn Thị N.
Các đương sự quyền, nghĩa vliên hệ quan nhà nước thẩm quyền
để đăng ký, cập nhật biến động theo hiện trạng sử dụng đất.
Sau khi xét xử thẩm ngày 06/8/2024 bị đơn kháng cáo bản án thẩm và
ngày 12/8/2024 nguyên đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương skhông thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của kiểm sát viên: Về thủ tục tố tụng, những người tham gia tố tụng
những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Về nội dung vụ án, xét thấy Tòa án cấp thẩm xử căn cứ nên đề
nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bđơn, căn
cứ vào khoản 01 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về nội dung vụ án: Về nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng đất của
ngun đơn: Theo hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện diện ch
4
đất 1.844m
2
(thửa đất số 216, tờ bản đồ số 27) tại phường TH, thành phT, tỉnh Bình
Dương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bùi Thị P ngày 05/02/1999.
Ngày 15/5/2006, bà P tách thửa chuyn nhượng cho vợ chồng bà Nguyễn Thị E, ông
Nguyễn Văn R diện tích 413m
2
. Ngày 20/9/2006, thửa đất 216 được đo đạc, điều
chỉnh giảm 29m
2
(không sử dụng) tăng 94m
2
(tách từ thửa 866), diện tích còn lại
1.496m
2
. Ngày 25/9/2006 tách thửa chuyển nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn n
T1 và bà Nguyễn Thị H1 thửa 877 (diện tích 166m
2
), tách thửa tặng cho bà Đinh Th
H thửa 876 (diện tích 245m
2
), diện tích còn lại 1085m
2
. Ngày 11/12/2012, tách thửa
chuyển nhượng cho ông Phùng Đức T2 thửa 1085 (diện tích 192m
2
) chỉnh gim
diện tích 452m
2
, diện tích còn lại thửa 216 441m
2
thể hiện tại bản trích đo địa
chính ngày 28/9/2012 (BL53). Diện ch theo đo đạc thực tế thửa 216 là 397,1m
2
thiếu 43,9m
2
so với giấy chứng nhận được cấp.
Về nguồn gốc, qtrình quản lý, sử dụng đất của bị đơn: Theo hồ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện thửa 866, 877 được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông ĐHuy T bà Nguyễn Thị N, nguồn gốc
do nhận chuyển nhượng. Thửa 866 diện tích 319m
2
nhận chuyển nhượng từ vợ
chồng ông Nguyễn Văn R Nguyễn Thị E ngày 29/9/2009. Thửa 877 diện
tích 166m
2
nhận chuyển nhượng từ vợ chồng bà Nguyễn Thị V, ông Lê Văn P1 ngày
19/4/2018. Tổng diện tích thửa 866, 877 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
485m
2
, tổng diện tích thửa 866, 877 theo đo đạc thực tế là 551,8m
2
(dư 66,8m
2
so với
giấy chứng nhận được cấp).
Về hình thể, đồ thửa đất theo hồ cấp giấy chứng nhận được cấp: Theo hồ
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các thửa 866 877 giáp nhau cùng
được tách ra từ thửa 216 của nguyên đơn Bùi Thị P, khi tách thửa tiến hành
việc đo đạc thực tế (Công văn s2487/CNTU-LT ngày 30/7/2024 của Chi nhánh
Văn phòng đăng đất đai thành phố T). Thời điểm tách thửa 866 năm 2006, hai
cạnh chiều dài thửa đất 52m 51,7m, tuy nhiên sau đó ngày 20/9/2006 đã làm
thủ tục chỉnh giảm một phần diện tích thửa 866 tăng diện tích cho thửa 216 diện
tích 94m
2
, chiều i thửa đất 866 chỉ còn 40m. Thửa 866 877 được chuyển
nhưng qua nhiều chủ nhưng không phát sinh đăng biến động về hình thể, diện
tích các thửa đất, vợ chồng ông Đỗ Huy T và bà Nguyễn Thị N nhận chuyển nhượng
lại và hiện đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo sơ đồ tách thửa, sơ đồ
thửa đất được cấp (BL 114, 113, 109, 52), thửa 877 chiều rộng 8m chiều dài
40m; thửa 866 chiều rộng 4m và chiều dài 40m. Theo đo đạc thực tế thì các thửa
877, 866 có tổng chiều rộng hướng Tây là 12,35m (dư 0,35m so với giấy chứng nhận
được cấp), tổng chiều rộng hướng Nam là 12,26m (dư 0,26m so với giấy chứng nhận
được cấp), chiều dài cạnh hướng Bắc 44,28m (4,28m so với giấy chứng nhận
được cấp), chiều dài cạnh hướng Nam 45,81m (5,81m so với giấy chứng nhận
được cấp). Theo sơ đồ thửa đất tại bản trích đo địa chính ngày 28/9/2012 (BL53) thì
5
thửa 216 của nguyên đơn một phần tiếp giáp ớng Đông của các thửa đất 866,
877 của bị đơn vàcạnh hướng Bắc tiếp giáp đường đất (04m).
Từ những phân ch nêu trên t thấy c thửa đất số 866, 877 do vợ chồng ông
Đỗ Huy T và bà Nguyễn Thị N đang thực tế sử dụng có diện tích tăng, chiều i các
cạnh đều tăng so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chiều rộng tăng nhưng
không lớn, chiều dài các thửa đất lại tăng đáng kể bất thường trên 04m. Trong khi
diện ch đất thực tế sử dụng thửa 216 của Bùi Thị P bị giảm 43,9m
2
, một phần
thửa 216 có diện tích khoảng 4m x 12m theo sơ đồ thửa đất tại bản trích đo địa chính
ngày 28/9/2012 (BL53) hiện tại đã mất hiện trạng sử dụng. Như vậy căn cứ xác
định phần đất của bà Bùi Thị P bị thiếu vị trí tiếp giáp thửa 1085, phần đất này vợ
chồng ông Đỗ Huy T Nguyễn Thị N đang sử dụng. Xét thấy diện tích đất bị
đơn sử dụng tăng 66,8m
2
so với giấy chứng nhận được cấp, bị đơn cho rằng sử dụng
đúng ranh mốc của chủ cũ giao mặcnguyên đơn cũng thừa nhận, tuy nhiên bị đơn
không chứng minh được nguồn gốc của việc tăng diện tích đất hợp pháp, do vậy
quá trình sử dụng đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất các chủ cũ và bị đơn đã xác
định sai vtrí thửa đất 866, 877, bị đơn thừa nhận khi nhận chuyển nhượng chỉ làm
thủ tục, không tiến hành đo đạc lại diện tích đất, hồ sơ cấp giấy chứng nhận ng th
hiện các lần chuyển nhượng không thể hiện việc đo đạc lại diện tích các thửa 866,
877. Bị đơn không lấn chiếm đất của ngun đơn, tuy nhiên sử dụng không đúng v
trí phần đất của nh xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. So
với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp, nguyên đơn chỉ thiếu diện tích
43,9m
2
, do đó bị đơn chỉ phải trả lại cho nguyên đơn diện tích 43,9m
2
.
Xét thấy phần đất tranh chấp 43,9m
2
hiện tại bị đơn, người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đã xây dựng c công trình sử dụng n định, việc tháo dỡ để trả lại
quyền sdụng đất slàm mất đi giá trsử dụng của các công trình trên đất, trường
hợp giao đất cho bị đơn sử dụng phần đất này cũng không ảnh hưởng nhiều đến việc
sử dụng phần còn lại của nguyên đơn. Do đó, để ổn định việc sử dụng đất, i sản
trên đất, Hội đồng xét xử không buộc bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vliên quan
trả lại đất mà buộc bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thanh toán giá trị
đất cho nguyên đơn. Do các đương sự không thỏa thuận, thống nhất được giá trị, nên
căn cứ vào kết quả định gc định mức giá bồi thường 4.000.000 đồng/m
2
. Tòa
án cấp thẩm xử căn cứ nên không sở chấp nhận kháng cáo của nguyên
đơnkháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm
là có căn cứ.
Án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo Bùi Thị P phải nộp, tuy nhiên
P là người cao tuổi nên được miễn án phí theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản và sdụng án phí lệ phí của Tòa án. Ông ĐHuy
T phải nộp theo quy định số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban
6
Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 148 khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí của Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn i Thị P và bị
đơn ông Đỗ Huy T.
2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 100/DS-ST ngày 01/8/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đỗ Huy T phải nộp số tiền 300.000 đồng
theo biên lai thu s 0000404 ngày 13/8/2024 của Chi cc Thi hành án dân sự thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- TAND TP. T;
- CCTHADS TP. T;
- Các đương sự;
- Lưu Tòa Dân sự, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CH TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Ngô Thị Bích Diệp
Tải về
Bản án số 140/2025/DS-PT Bản án số 140/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 140/2025/DS-PT Bản án số 140/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất