Bản án số 198/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 198/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 198/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 198/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 198/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 198/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông K cho rằng tổng số tiền mà ông K đã chuyển cho ông H trong khoảng thời gian từ ngày 28/02/2022 đến ngày 30/6/2022 là 1.550.000.000 đồng (không tính số tiền ông H chuyển trả lại ông K ngày 10/5/2022) và hai lần chuyển khoản vào ngày 27/5/2022 và ngày 30/6/2022 (mỗi lần ông K chuyển 200.000.000 đồng cho ông H) là tiền nhận chuyển nhượng phần đất thuộc thửa đất số 222, tờ bản đồ số 24. Tuy nhiên, nội dung chuyển tiền ngày 27/5/2022 và ngày 30/6/2022 không có thể hiện tiền mua đất và không có bất kỳ nội dung nào thể hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển tiền mua bán đất. Đối với nợ gốc, ông H vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền vay nên ông K yêu cầu trả tiền gốc là có căn cứ. Đối với lãi, các bên có thoả thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất và khoản vay được áp dụng mức lãi suất theo thoả thuận, việc trả lãi từ bị đơn cho nguyên đơn được thực hiện theo từng lần chuyển khoản riêng lẻ và không thể hiện lãi suất cố định, lời khai của các đương sự về lãi suất không thống nhất trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án nên lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn theo khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tức là 10%/năm. Từ toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong vụ án, Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên toàn bộ bản án sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 198/2025/DS-PT
Ngày: 27-03-2025
V/v tranh chấp
hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Dũng;
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Thanh Trúc;
Ông Nguyễn Văn Tài.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Quốc Nhi - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Ông Lê Trung Kiên - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 20 và 27 tháng 03 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
621/2024/TLPT-DS ngày 22/11/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm 84/2024/DS-ST ngày 06 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2025/QĐ-PT ngày 04 tháng 02
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Anh K, sinh năm 1981; địa chỉ: 5 khu phố A,
phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành N, sinh năm
1974; địa chỉ: 3 B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện
theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 01/4/2024); có mặt.
- Bị đơn: Ông Phạm Hải H, sinh năm 1987; địa chỉ thường trú: Ấp L, xã B,
huyện C, tỉnh Tiền Giang; địa chỉ tạm trú: số E khu phố A, phường A, thành phố
T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Bình T -
Luật sư Công ty Luật TNHH D thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; địa chỉ liên hệ:
5 N, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
2
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Trần Anh K và bị đơn ông Phạm Hải
H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 30/10/2023, quá trình tố tụng nguyên đơn, đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Do chỗ quen biết và là họ hàng với nhau nên vào ngày 09 tháng 5 năm 2022
ông K có cho ông Phạm Hải H vay số tiền là 1.550.000.000 đồng (một tỷ năm
trăm năm mươi triệu đồng), thời hạn trả là 02 tháng tính từ ngày 09/5/2022 đến
ngày 09/7/2022. Đến thời hạn nhưng ông H không trả tiền mặc dù nguyên đơn đã
nhiều lần yêu cầu trả nợ. Theo hợp đồng có ghi mức lãi suất các bên thỏa thuận,
thực tế nguyên đơn và ông H thỏa thuận 3%/01 tháng. Từ khi vay tiền đến nay
ông H chưa trả bất kỳ khoản tiền gốc và lãi nào. Số tiền cho ông H vay là tiền của
cá nhân nguyên đơn và nguyên đơn cho riêng ông H vay, không phải cho vợ chồng
ông H vay nên không yêu cầu vợ ông H phải có trách nhiệm, không liên quan đến
vợ ông H. Trong Hợp đồng cho vay tiền có ghi tài sản thế chấp tuy nhiên ông H
không giao tài sản thế chấp cho nguyên đơn.
Nay yêu cầu Tòa án buộc ông Phạm Hải H phải có trách nhiệm trả số nợ
gốc còn thiếu là 1.550.000.000 đồng và nợ lãi, lãi quá hạn theo mức 20%/năm,
cách tính tiền lãi cụ thể như sau:
- Lãi trong hạn: 1.550.000.000đ x 20% x 02 tháng.
- Lãi quá hạn: 1.550.000.000đ x 30% và tính từ ngày 10/7/2022 đến ngày
xét xử sơ thẩm.
Chứng cứ, tài liệu nguyên đơn cung cấp: Hợp đồng vay tiền ngày
09/5/2022; bảng sao kê chuyển tiền; văn bản ghi nhận tin nhắn do Thừa phát lại
lập…;
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn vẫn giữ ý kiến và yêu cầu đã
trình bày, khẳng định Hợp đồng cho vay tiền có tài sản thế chấp được xác lập vào
ngày 09 tháng 5 năm 2022, trong hợp đồng có các chữ viết tay là do ông H ghi.
Ngoài ra, hợp đồng này thể hiện phương thức cho vay bằng tiền mặt nhưng thực
tế trước đó ông K đã chuyển khoản cho ông H 1.150.000.000 đồng và ngày
09/5/2022 ông K giao cho ông H 400.000.000 đồng tiền mặt nên ông H ký xác
nhận vào là nhận đủ. Đối với ý kiến của bị đơn cho rằng ngày 17/02/2023 ký ủy
quyền phần đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số DB878445 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B
cấp ngày 17/5/2021 (thửa đất số 222, tờ bản đồ số 24 tọa lạc tại ấp B, xã A, huyện
H, tỉnh Bình Phước) cho nguyên đơn để cấn trừ nợ là hoàn toàn không đúng, phần
đất này nguyên đơn mua của bị đơn và đã giao tiền 02 lần qua hình thức chuyển
khoản (ngày 27/5/2022 và 30/6/2022) số tiền 400.000.000 đồng và đến ngày
17/02/2023 mới ký ủy quyền. Nguyên đơn không yêu cầu, không tranh chấp gì
liên quan đến việc ủy quyền đối với phần đất nêu trên. Nguyên đơn yêu cầu bị
đơn trả tiền gốc 1.550.000.000 đồng và tiền lãi suất trong hạn 20%/năm, lãi suất
3
quá hạn là 30%/năm với tổng số tiền lãi là 981.460.000 đồng, đồng ý trừ số tiền
101.000.000 đồng lãi bị đơn đã trả, như vậy lãi suất yêu cầu là 880.460.000 đồng
(tám trăm tám mươi triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng).
Theo bản tự khai, quá trình tố tụng bị đơn trình bày:
Bị đơn thống nhất về việc có vay của ông Trần Anh K số tiền 1.550.000.000
đồng (một tỷ năm trăm năm mươi triệu đồng), ngày 09/5/2022 bị đơn ký hợp đồng
vay tiền. Số tiền này bị đơn vay của ông K nhiều lần, sau đó đến tháng 10/2022
ông K đưa mẫu Hợp đồng cho vay tiền có tài sản thế chấp yêu cầu ký tên vào để
xác nhận, ông H ghi thông tin của mình và số tiền đã vay, ký ghi họ tên của mình
nhưng không xem ngày trên hợp đồng mẫu soạn sẵn, sau này ông H mới biết Hợp
đồng ghi ngày 09/5/2022. Mức lãi suất các bên thỏa thuận khi vay tiền là 1%/01
tháng. Bị đơn đã thanh toán tiền lãi khoảng 100.000.000 đồng (Một trăm triệu
đồng) qua nhiều lần chuyển khoản cho ông K. Việc vay tiền của ông K là để bị
đơn kinh doanh làm ăn riêng, không liên quan đến vợ bị đơn hay người nào khác.
Đến ngày 17/02/2023, bị đơn và ông K thống nhất với nhau bị đơn sẽ ủy quyền
cho ông Trần Anh K được toàn quyền đối với phần đất theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
DB878445 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B cấp ngày 17/5/2021 thửa đất số
222, tờ bản đồ số 24 tọa lạc tại ấp B, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước. Việc ủy
quyền này nhằm mục đích cấn trừ toàn bộ khoản nợ gốc và lãi suất giữa bị đơn
với ông Trần Anh K. Nay ông K yêu cầu bị đơn phải trả đối với khoản nợ của
Hợp đồng cho vay tiền có tài sản thế chấp ngày 09 tháng 5 năm 2022 và tiền lãi
bị đơn không đồng ý. Thực tế từ khi ký hợp đồng ủy quyền ngày 17/02/2023 thì
bị đơn không còn nợ nguyên đơn.
Chứng cứ, tài liệu bị đơn cung cấp: Hợp đồng ủy quyền ngày 17/02/2023,
các tin nhắn zalo giữa ông K, ông H.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn xác định có ký vào hợp đồng vay tiền ngày
09/5/2022 nhưng chỉ để xác định số tiền vay là 1.550.000.000 đồng mà không
xem rõ ngày trên giấy, bị đơn xác định số tiền chốt nợ này và mẫu hợp đồng vay
tiền được nguyên đơn đưa cho bị đơn vào tháng 10/2022, số tiền 400.000.000
đồng (chuyển khoản ngày 27/5/2022 và 30/6/2022) là tiền vay trong tổng số
1.550.000.000 đồng, không phải tiền mua đất như nguyên đơn khai. Ngày
17/02/2023 bị đơn ký ủy quyền phần đất tại thửa đất số 222, tờ bản đồ số 24 tọa
lạc tại ấp B, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước cho nguyên đơn để cấn trừ toàn bộ
số tiền gốc. Như vậy, bị đơn chỉ còn nợ tiền lãi suấ từ tháng 02/2023 đến nay. Bị
đơn xác định hiện tại không tranh chấp gì đối với Hợp đồng ủy quyền ngày
17/02/2023.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 84/2024/DS-ST ngày 06/8/2024, Tòa án nhân
dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Anh K về việc tranh
chấp hợp đồng vay tài sản đối với ông Phạm Hải H.
4
- Buộc ông Phạm Hải H có trách nhiệm trả cho ông Trần Anh K số tiền nợ
gốc 1.550.000.000đ (một tỷ năm trăm năm mươi triệu đồng) (là số tiền của những
lần chuyển khoản: Ngày 28/02/2022: 150.000.000đ; ngày 03/3/2022:
200.000.000đ; ngày 16/3/2022: 150.000.000đ; ngày 24/3/2022: 150.000.000đ;
ngày 08/5/2022: 500.000.000đ; ngày 27/5/2022: 200.000.000đ; ngày 30/6/2022:
200.000.000đ); và số tiền lãi suất tính đến ngày xét xử sơ thẩm (06/8/2024) là
199.097.222đ (một trăm chín mươi chín triệu không trăm chín mươi bảy nghìn
hai trăm hai mươi hai đồng). Tổng số tiền ông H phải trả cho ông K là
1.749.097.222 đồng (một tỷ bảy trăm bốn mươi chín triệu không trăm chín mươi
bảy nghìn hai trăm hai mươi hai đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất
cả các khoản tiền, bên phải thi hành án còn phải chịu lãi suất theo mức lãi suất
quy định tại Điều 357, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của ông Trần Anh K đối với số tiền
lãi suất là 681.362.778đ (sáu trăm tám mươi mốt triệu ba trăm sáu mươi hai nghìn
bảy trăm bảy mươi tám đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, trách nhiệm thi hành án và quyền
kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 16/8/2024 bị đơn ông Phạm Hải H kháng
cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm số 84/2024/DS-ST ngày 06/8/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải
quyết lại toàn bộ nội dung vụ án. Ngày 19/8/2024 nguyên đơn ông Trần Anh K
kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm số 84/2024/DS-ST ngày 06/8/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa
bản án dân sự sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, bao gồm cả yêu cầu về lãi suất.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
yêu cầu kháng cáo; bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các đương sự không
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Nguyên đơn và bị đơn kháng cáo đề nghị Tòa án chấp nhận
kháng cáo. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được cấp sơ thẩm
thu thập cũng như lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa ngày hôm nay,
nguyên đơn và bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp mới nên không có cơ sở
chấp nhận. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật
Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn, giữ nguyên
bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên toà, kết quả tranh tụng của các đương sự tại phiên tòa, ý kiến đại diện
Viện kiểm sát,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Anh K và bị đơn ông
Phạm Hải H là trong thời hạn luật định. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý giải
quyết theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Quá trình tố tụng cấp sơ thẩm, nguyên đơn và bị đơn trình bày thống
nhất các nội dung, tình tiết: Hợp đồng cho vay tiền có tài sản thế chấp ghi ngày
09/5/2022 giữa ông K và ông H; ông H thừa nhận chữ viết trong các phần để trống
của Hợp đồng và chữ ký tên, ghi họ tên bên vay tiền Phạm Hải H là do ông ký và
ghi, nội dung thể hiện ông K đồng ý cho ông H vay số tiền 1.550.000.000 đồng
(Một tỷ năm trăm năm mươi triệu đồng), lãi suất các bên tự thỏa thuận. Hợp đồng
có ghi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1224, tờ bản đồ
số 29 tại phường H, B, Bình Phước và bên vay không giao tài sản thế chấp cho
nguyên đơn. Sự thừa nhận của các đương sự là tình tiết, sự kiện không phải chứng
minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2.2] Về hiệu lực của giao dịch vay tài sản: Khi lập Hợp đồng cho vay tiền
có tài sản thế chấp ngày 09/5/2022, ông K và ông H đều có năng lực hành vi dân
sự, không bị ép buộc, lừa dối và nội dung của hợp đồng phù hợp với Điều 463 của
Bộ luật Dân sự năm 2015 và mức lãi suất thể hiện là theo thoả thuận của các bên
là phù hợp theo khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, Hợp
đồng này có hiệu lực thi hành giữa các bên.
[2.3] Về việc thực hiện giao dịch vay tài sản:
[2.3.1] Đối với số tiền gốc, bị đơn thống nhất về việc có vay của ông Trần
Anh K số tiền 1.550.000.000 đồng (Một tỷ năm trăm năm mươi triệu đồng), ngày
09/5/2022 bị đơn ký hợp đồng vay tiền.
Quá trình tố tụng, lời trình bày của nguyên đơn không thống nhất với nhau.
Cụ thể, ông K có lúc khai rằng ngày 09/5/2022 khi ông H viết giấy nợ thì có đưa
1.550.000.000 đồng tiền mặt, nhưng sau đó thay đổi lời khai thành đến ngày
09/5/2022 ông K chuyển khoản cho ông H 1.550.000.000 đồng và ngày 09/5/2022
khi ông H đưa giấy nợ thì ông K có đưa 400.000.000 đồng tiền mặt cho ông H.
Trong khi đó, bị đơn trình bày rằng khi ghi, ký mẫu Hợp đồng cho vay tiền có tài
sản thế chấp thực tế là ngày 26/10/2022 nhưng do bị đơn không xem kỹ và không
để ý ngày đánh sẵn trên mẫu hợp đồng. Từ trước đến nay, nguyên đơn cho bị đơn
vay chỉ thông qua hình thức chuyển khoản, không nhận tiền mặt, do đó mẫu Hợp
đồng cho vay tiền ghi phương thức cho vay là bằng tiền mặt là không đúng.
Căn cứ theo sao kê tài khoản tiền gửi của Ngân hàng TMCP Đ từ ngày
28/02/2022 đến ngày 01/8/2022 và lời khai của các bên đương sự, xét thấy:
6
Các giao dịch từ tài khoản của ông K đã chuyển tiền sang tài khoản tài
khoản của ông H được thực hiện như sau: Ngày 28/02/2022: 150.000.000 đồng;
Ngày 03/3/2022: 200.000.000 đồng; Ngày 16/3/2022: 150.000.000 đồng; Ngày
24/3/2022: 150.000.000 đồng; Ngày 08/5/2022 (lần 1): 300.000.000 đồng; Ngày
08/5/2022 (lần 2): 200.000.000 đồng; Ngày 09/5/2022: 200.000.000 đồng; Ngày
27/5/2022: 200.000.000 đồng; Ngày 30/6/2022: 200.000.000 đồng.
Trong đó, ngày 10/5/2022 ông H đã chuyển trả cho ông K 200.000.000
đồng. Mặt khác, ông K cho rằng ngày 09/5/2022 có đưa cho ông H 400.000.000
đồng tiền mặt nằm trong tổng số tiền cho vay nhưng không có chứng cứ chứng
minh cho lời trình bày của mình.
Như vậy, tổng số tiền mà ông K đã chuyển cho ông H trong khoảng thời
gian từ ngày 28/02/2022 đến ngày 30/6/2022 là 1.550.000.000 đồng (không tính
số tiền ông H chuyển trả lại ông K ngày 10/5/2022).
[2.3.2] Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, phía nguyên đơn trình bày rằng
hai lần chuyển khoản vào ngày 27/5/2022 và ngày 30/6/2022 (mỗi lần ông K
chuyển 200.000.000 đồng cho ông H) là tiền nhận chuyển nhượng phần đất thuộc
thửa đất số 222, tờ bản đồ số 24 tọa lạc tại ấp B, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số DB878445 do Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh B cấp ngày
17/5/2021, và ngày 17/02/2023 ông H đã ký uỷ quyền cho ông K toàn quyền đối
với phần đất này. Tuy nhiên, lời khai của nguyên đơn không phù hợp với tài liệu,
chứng cứ có trong vụ án. Bởi lẽ, nội dung chuyển tiền ngày 27/5/2022 và ngày
30/6/2022 không có thể hiện tiền mua đất, chỉ chuyển tiền từ ông K cho ông H
như những lần chuyển tiền trước đó. Mặt khác, trong các đoạn tin nhắn Zalo trao
đổi giữa ông K và ông H vào các ngày 26, 27/5/2022 và từ ngày 08, 10/6/2022
đến 30/6/2022 thì chỉ trao đổi về việc vay tiền và không có bất kỳ nội dung nào
thể hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển tiền mua bán đất.
Do đó, có cơ sở cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định phù hợp và xác
định được ông K đã cho ông H vay số tiền là 1.550.000.000 đồng (Một tỷ năm
trăm năm mươi triệu đồng) và hai lần chuyển khoản (vào ngày 27/5/2022 và ngày
30/6/2022 với tổng số tiền 400.000.000 đồng) chính là số tiền vay nằm trong tổng
số tiền vay là 1.550.000.000 đồng mà không phải là tiền nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 222, tờ bản đồ số 24 tọa lạc tại ấp B, xã A,
huyện H, tỉnh Bình Phước.
[2.3.3] Về nghĩa vụ thanh toán tiền vay gốc, căn cứ theo Hợp đồng cho vay
tiền có tài sản thế chấp ngày 09/5/2022 và lời khai giữa các đương sự, thời hạn
vay được xác định là 02 tháng. Tính từ thời điểm chuyển khoản sau cùng của ông
K cho ông H là 30/6/2022, thì thời hạn mà ông H phải thanh toán gốc và lãi cho
ông K là ngày 30/8/2022.
Theo đơn trình bày ngày 17/02/2025, ông H cho rằng ngày 17/02/2023 ông
ký hợp đồng uỷ quyền đối với thửa đất số 222 tờ bản đồ số 24 tại ấp B, xã A,
huyện H, tỉnh Bình Phước là để cấn trừ nợ cho ông K. Tuy nhiên, Hợp đồng cho
7
vay tiền có tài sản thế chấp ngày 09/5/2022 không thể hiện hình thức trả tiền vay
được thay thế bằng tài sản là quyền sử dụng đất hay hình thức khác, ông K cũng
thừa nhận việc này và ông H cũng không có tài liệu, chứng cứ cho thấy các bên
có thoả thuận về việc ký hợp đồng uỷ quyền để cấn trừ nợ.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015, “Bên vay tài
sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn”. Như vậy, khi đến thời hạn trả tiền vay
theo thoả thuận mà ông H không trả thì ông H được coi là vi phạm nghĩa vụ thanh
toán tiền vay và ông K yêu cầu trả tiền gốc là có căn cứ chấp nhận.
[2.3.4] Đối với số tiền lãi, quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn
trình bày lãi suất thoả thuận thực tế là 3%/tháng, trong khi đó bị đơn cho rằng các
bên thoả thuận lãi suất là 1%/tháng. Theo Biên bản đối chất ngày 24/6/2024,
nguyên đơn thay đổi lời trình bày, cho rằng lãi suất thoả thuận là 4%/tháng, còn
đối với số tiền 500.000.000 đồng thì áp dụng mức lãi suất là 3,5%/tháng. Theo
Hợp đồng cho vay tiền có tài sản thế chấp ngày 09/5/2022, các bên thoả thuận
rằng “Mức lãi suất theo thoả thuận của các bên”. Mặt khác, các tin nhắn Zalo trao
đổi giữa hai bên thì lãi suất được trao đổi không có sự nhất quán, có lúc 3%, 3,5%
hoặc 4%/tháng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông H khai đã trả cho ông K khoảng
100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), còn ông K thừa nhận ông H đã trả lãi
suất được 101.000.000 đồng (Một trăm lẻ một triệu đồng) nhưng không xác định
chính xác mức lãi suất và khoản vay có liên quan. Đồng thời, Ông K khởi kiện
yêu cầu Tòa án buộc ông H phải trả lãi suất 20%/năm đối với khoản nợ trong hạn
và 30%/năm đối với khoản nợ quá hạn là không phù hợp với Điều 357 và Điều
468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, “Trường hợp
các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh
chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy
định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”. Xét thấy, các bên có thoả thuận
về việc trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất và khoản vay được áp dụng mức
lãi suất theo thoả thuận, việc trả lãi từ bị đơn cho nguyên đơn được thực hiện theo
từng lần chuyển khoản riêng lẻ và không thể hiện lãi suất cố định, lời khai của các
đương sự về lãi suất không thống nhất trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.
Do đó, lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn theo khoản 1 Điều
468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tức là 10%/năm.
[2.3.5] Về nghĩa vụ thanh toán tiền lãi vay, Tòa án xác định số tiền lãi vay
mà ông H phải thanh toán cho ông K theo thời hạn vay được phân tích tại mục
[2.3.3] nêu trên như sau:
- Thời hạn được tính từ ngày 30/8/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm
(06/8/2024) là 01 năm 11 tháng 07 ngày.
- Lãi suất: 10%/năm
- Tiền vay gốc còn nợ: 1.550.000.000 đồng
8
Như vậy, (01 năm 11 tháng 07 ngày) x 10%/năm x 1.550.000.000 đồng =
300.097.212 đồng (Ba trăm triệu không trăm chín mươi bảy nghìn hai trăm mười
hai đồng). Sau khi trừ số tiền mà ông K xác nhận ông H đã trả cho mình là
101.000.000 đồng (Một trăm lẻ một triệu đồng), số tiền lãi còn lại mà ông H phải
thanh toán cho ông K là 199.097.222 đồng (Một trăm chín mươi chín triệu không
trăm chín mươi bảy nghìn hai trăm hai mươi hai đồng).
[2.4] Đối với thửa đất số 222, tờ bản đồ số 24 tọa lạc tại ấp B, xã A, huyện
H, tỉnh Bình Phước theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số DB878445 do Văn phòng Đăng ký đất đai
tỉnh B cấp ngày 17/5/2021, ông H và ông K hiện nay không tranh chấp hay có yêu
cầu gì đối với phần đất này. Trường hợp ông K và ông H có tranh chấp thì có
quyền khởi kiện để Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định của pháp
luật.
[3] Từ những phân tích trên, nguyên đơn ông Trần Anh K kháng cáo đối
với phần lãi suất của bản án sơ thẩm và bị đơn ông Phạm Hải H kháng cáo đối với
toàn bộ bản án sơ thẩm nhưng tại cấp phúc thẩm cũng không cung cấp được chứng
cứ mới nên không có căn cứ chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá
toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích các bên,
xét xử phù hợp với quy định pháp luật.
[4] Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là không
phù hợp.
[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.
[6] Về án phí phúc thẩm: Ông Trần Anh K và ông Phạm Hải H phải chịu
án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 357, Điều 463, Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Anh K và ông Phạm Hải H.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 84/2024/DS-ST ngày 06 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
9
3.1. Ông Trần Anh K phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và được
khấu trừ vào số tiền đã đóng theo các Biên lai tạm ứng án phí số 0002774 ngày
06/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3.2. Ông Phạm Hải H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và
được khấu trừ vào số tiền đã đóng theo các Biên lai tạm ứng án phí số 0002776
ngày 06/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố T;
- TAND thành phố T;
- Các đương sự;
- Tổ Hành chính tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Trung Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Bản án số 222/2025/DS-PT ngày 01/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 195/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 207/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 177/2025/DS-PT ngày 21/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm