Bản án số 197/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 197/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 197/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 197/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Xét thấy, hai Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký cùng ngày 17/11/2017 và Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày ngày 15/4/2018 giữa bà R với bà B mà không có chữ ký của hàng thừa kế thứ nhất của ông Lê Văn S1 gồm Ông Lê Văn T1, Ông Lê Văn P, Bà Lê Thị V, Ông Lê Văn D và không được công chứng, chứng thực là vi phạm quy định tại các Điều 117, 119, 502 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013. giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên tuy không tuân thủ về hình thức nhưng phía nguyên đơn đã nhận được tiền từ phía bị đơn tổng cộng là 276.000.000 (Hai trăm bảy mươi sáu triệu) đồng, phía bị đơn đã nhận bàn giao đất từ tháng 04/2018 và quản lý, sử dụng đất ổn định cho đến nay là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch. Căn cứ theo Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2015, bà B có yêu cầu Tòa án công nhận các hợp đồng, cam kết giữa bà R với bà B là có hiệu lực nên Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hiệu lực giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất là có căn cứ. Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm do đương sự kháng cáo nhưng không cung cấp chứng cứ mới và không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 197/2025/DS-PT
Ngày: 27-03-2025
V/v tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Dũng;
Các Thẩm phán: Trần Thị Thanh Trúc;
Ông Nguyễn Văn Tài.
- Thư phiên tòa: Thị Hoa - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Trần Thị Ngọc Tuyền - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 21 27 tháng 03 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
510/2024/TLPT-DS ngày 29/10/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 06/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2025/QĐ-PT ngày 06 tháng 02
năn 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị R, sinh năm 1961; địa chỉ: Ấp C, T, huyện
D, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đỗ Thanh T, sinh năm
1977, nơi trú: Khu phố X, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Tây Ninh, người đại
diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 01/7/2023); có mặt.
- Bị đơn: Trần Thị B, sinh năm 1961; địa chỉ: Ấp C, T, huyện D, tỉnh
Bình Dương.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Nguyễn Thị Hằng N, sinh năm
1978; địa chỉ: Ấp C, T, huyện D, tỉnh Bình Dương, người đại diện theo y
quyền (Văn bản ủy quyền ngày 21/02/2025); có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Ông Lê Văn P, sinh năm 1992; địa chỉ: Ấp C, T, huyện D, tỉnh Bình
Dương.
Người đại diện hợp pháp của Ông Văn P: Ông Đỗ Thanh T, sinh năm
1977, nơi trú: Khu phố X, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Tây Ninh, người đại
diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 04/8/2023); có mặt.
2. Ông Trần Quốc N1, sinh năm 1979; địa chỉ: Ấp C, T, huyện D, tỉnh
Bình Dương.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Nguyễn Thị Hằng N, sinh năm
1978; địa chỉ: Ấp C, T, huyện D, tỉnh Bình Dương, người đại diện theo y
quyền (Văn bản ủy quyền ngày 21/02/2025); có mặt.
3. Nguyễn Thị Hằng N, sinh năm 1978; địa chỉ: Ấp C, T, huyện D,
tỉnh Bình Dương; có mặt.
4. Ông Lê Văn T1, sinh năm 1989; địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình
Dương; có mặt.
5. Bà Lê Thị V, địa chỉ: Ấp B, Đ, thị xã T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
6. Ông Lê Văn D, sinh năm 1998; địa chỉ: Ấp C, T, huyện D, tỉnh Bình
Dương; có mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Nguyễn Thị R; người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Ông Lê Văn P, Ông Lê Văn T1, Lê Thị V Ông Lê Văn
D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng, nguyên đơn Nguyễn Thị R,
người đại diện hợp pháp của nguyên đơn Ông Đỗ Thanh T trình bày:
Ngày 17/11/2017 ngày 15/04/2018, giữa Nguyễn Thị R Trần
Thị B thỏa thuận việc mua bán, chuyển nhượng một phần đất thuộc thửa 52, tờ
bản đồ số 34, diện tích ngang 12m, dài 155m với tổng số tiền 276.000.000
(Hai trăm bảy mươi sáu triệu) đồng.
Do không thể xác nhận được tình trạng bất động sản và không đủ diện tích
tách thửa theo quy định pháp luật về đất đai nên bà R đã chuyển nhượng phần đất
diện tích 1.829,4m
2
cho con Văn P. Ông P đã được Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: DI 660056, số vào
sổ: CS07906 đối với phần đất có diện tích 1.829,4m
2
thuộc thửa số 473, tờ bản đồ
số 34; tọa lạc tại xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương.
Sau khi Ông P được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà B yêu cầu
con bà R tách phần đất R đã bán trước đây cho bà B nhưng phải tách với diện
tích 17 m x 155m B cho rằng phải trừ phần mốc hành lang lộ giới ngang
5m x dài 80m cũng để bảo đảm đủ diện tích tách thửa theo quy định nhưng con
bà R không đồng ý.
3
Việc bà R bà B thực hiện việc chuyển nhượng phần đất nêu trên sau này
bà R mới biết không đúng quy định pháp luật về đất đai; việc B buộc con
R phải tách thửa phần diện tích đất lớn hơn diện tích đất trước đây R đã thỏa
thuận là không đúng.
R đã nhiều lần gặp B để xin trả lại số tiền đã nhận trước đây nhưng
B không đồng ý. vậy, R khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giấy viết tay đề ngày 17 tháng 11 năm 2017
và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15 tháng 4 năm 2018 giữa
Bà Nguyễn Thị R với Bà Trần Thị B do vi phạm pháp luật về đất đai; R đồng
ý trả lại cho Trần Thị B số tiền đã nhận 276.000.000 (hai trăm bảy mươi sáu
triệu) đồng. Đối với yêu cầu phản tố của bà B thì bà R không đồng ý.
R ông T đồng ý với kết quả đo đạc theo Biên bản xem xét, thẩm định
tại chỗ tài sản tranh chấp ngày 08/8/2023; Mảnh trích lục địa chính đất tranh chấp
số 635-2023 ngày 15/9/2023 kèm theo bản mô tả ngày 08/8/2023, phiếu xác nhận
kết quả đo đạc ngày 13/9/2023 và biên bản định giá ngày 22/11/2023.
Theo đơn khởi kiện phản tố, quá trình tố tụng tại phiên tòa, bị đơn
Trần Thị B trình bày:
Vào tháng 11 năm 2017, B hùn vốn với vợ chồng em trai
Nguyễn Thị Hằng N, Ông Trần Quốc N1 cùng mua một phần đất diện tích
1.800m
2
(khoảng 12 m ngang, 155 m dài) nay thửa đất số 473 được tách từ thửa
đất số 52, tờ bản đồ số 34, tọa lạc tại Ấp C, T, huyện D, tỉnh Bình Dương do
UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00613 ngày
16/12/1997 cho hộ Nguyễn Thị R. Giá trị hợp đồng 276.000.000 đồng,
B giao cho Nguyễn Thị R 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để đặt
cọc theo hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/11/2017.
Tuy nhiên, sau đó các bên còn ký một Hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cùng ghi ngày 17/11/2017, hợp đồng này là hợp đồng mẫu, chỉ khác
một nội dung là giá trị hợp đồng là 130.000.000 đồng với mục đích giảm thuế.
Do Nguyễn Thị R cần tiền gấp để giải quyết công việc gia đình nên yêu cầu
bà B và bà N giao đủ tiền. Ngày 15 tháng 4 năm 2018, bà B và bà N gặp gia đình
bà R để giao tiền và làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong hợp
đồng chữ của Trần Thị B (người mua) Nguyễn Thị R (người bán),
Ông Văn T1 (con R) Nguyễn Thị Hằng N làm nhân chứng. Trong hợp
đồng thể hiện diện tích mua, số tiền bán xác nhận của R đã nhận đủ số
tiền.
Vào khoảng tháng 6 năm 2018, khi địa chính xã xuống đo đạc, làm thủ tục
tách thửa thì ông Võ Văn S bà Đào Thị E ra tranh cãi với gia đình R về ranh
giới và đường đi nên hoãn việc tách thửa. Sau đó gia đình bà R đi kiện đòi lại đất
đường đi cho nên không sang tên cho bà B N, ông N1 được. Đầu năm 2019,
B N, ông N1 gặp R yêu cầu R làm sổ thì R nói đất đó
anh chị mầy cứ vô cạo đi rồi làm sổ sau chứ lo sợ gì. Vào tháng 5 năm 2019 cho
4
tới bây giờ, B và bà N, ông N1 bắt đầu vô khai thác, canh tác cây cao su và cây
tầm vông, cây tràm trên đất.
Cuối năm 2021, đầu năm 2022 giá đất tăng nhanh, bà B và bà N, ông N1 lo
lắng khi giá đất tăng thì gia đình R sẽ không chịu thực hiện hợp đồng nên đã
yêu cầu bà R kí vào biên bản cam kết ngày 07/5/2022.
Ngoài ra, B bà N, ông N1 nghe thông tin chuẩn bị có quy định mới
phải đủ 3000m
2
mới được tách thửa nên B N, ông N1 đã yêu cầu R
phải làm thủ tục tách thửa sớm. Lúc này gia đình bà R mới chịu đi làm nhưng do
sổ cũ (huyện B cấp, đất thì ở huyện D), chồng R chết, đồng thời Quyết định số
04/QĐ-UBND ngày 20 tháng 02 năm 2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương
quyết định sửa đổi Điều 8 quy định phạm vi bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Dương kèm theo Quyết định số 14/QĐ-UBND
ngày 05 tháng 8 năm 2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định ban
hành quy định phạm vi bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ trên địa bàn
tỉnh Bình Dương có trừ 5m hành lang vào đất của bà B và bà N, ông N1 mua của
R. Trên đầu đất lại không tiếp giáp mặt đường nên không thể tách thửa
thửa đất ng không đúng diện tích nhợp đồng đã thỏa thuận nên B
N, ông N1 không đồng ý. Vì vậy, ngày 14/11/2022, B bà N, ông N1 và gia
đình bà R thêm một bản cam kết, trong bản cam kết chữ của Nguyễn
Thị R, các con của R Thị V, Văn D, Văn P, B, N, ông N1.
Trong bản cam kết gia đình R thống nhất đồng ý giao một phần thửa đất số 52,
tờ bản đồ số 34 với diện tích chiều ngang 17m mặt đường nhựa từ hàng rào ra
tới ranh đất Đào Thị E, chiều dài từ đầu đường nhựa dài tới bờ mương, mặt
hậu từ bờ rào đến ranh đất nhà ông Văn S. Do sổ đất là sổ cũ, chồng bà R chết
nên gia đình bà R nói sẽ sang tên cho Ông Lê Văn P, sau khi ra tên Ông P sẽ sang
tên cho bà B.
Quá trình làm giấy chứng nhận thì thủ tục rườm nên gia đình R
thuê mướn người khác m hộ và yêu cầu B, N, ông N1 phụ tiền cho Ông
Văn P 10.000.000 (Mười triệu) đồng. B, N, ông N1 đã đưa đủ số tiền
trên.
Tháng 4 năm 2023, Ông P được cấp giấy chứng nhận thì gia đình R lật
lọng, không chịu m thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Gia đình R
thường xuyên gọi B N, ông N1 vào nói đất của họ chỗ này, lúc lấy
chỗ khác thì bà B N, ông N1 đều đồng ý, chỉ yêu cầu họ làm cách nào làm
sổ đủ 12m ngang mặt tiền đường từ hàng rào ra và chiều dài từ đầu đường xuống
tới bờ mương nhưng gia đình nguyên đơn không làm được.
B N, ông N1 đã nhận được bản vẽ đất tranh chấp Mảnh trích
lục địa chính đất tranh chấp số 635-2023 ngày 15/9/2023 của Chi nhánh Văn
phòng Đăng đất đai huyện D. Sau khi xem xét thì B N, ông N1 xác
định phần đất gia đình R đã chuyển nhượng cho B N, ông N1 gồm:
Phần A diện tích 509,8m
2
phần B diện tích 1319,6m
2
tổng diện tích
1.829,4m
2
toàn bộ thửa đất số 473, tờ bản đồ số 34, tọa lạc tại Ấp C, T,
5
huyện D, tỉnh Bình Dương do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DI 660056, số vào sổ CS07906 ngày 19 tháng
4 năm 2023 cho Ông Lê Văn P.
vậy, B làm đơn phản tố yêu cầu Tòa án công nhận các hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/11/2017, hợp đồng chuyển
nhượng bổ sung ngày 15/4/2018 các bản cam kết bổ sung gồm Biên bản cam
kết ngày 07/5/2022 Bản cam kết ngày 14/11/2022 hiệu lực. Yêu cầu gia
đình bà R gồm Nguyễn Thị R, Ông Lê Văn T1, Ông Văn P, Thị V,
Ông Văn D tiếp tục thực hiện m thủ tục chuyển nhượng quyền sdụng đất
đối với phần đất tổng diện tích 1.829,4m
2
thuộc thửa số 473, tờ bản đồ số 34,
tọa lạc tại Ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương cho bà B, bà N và ông N1.
B đồng ý với kết quả đo đạc theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ
tài sản tranh chấp ngày 08/8/2023; Mảnh trích lục địa chính đất tranh chấp số 635-
2023 ngày 15/9/2023 kèm theo bản tả ngày 08/8/2023, phiếu xác nhận kết quả
đo đạc ngày 13/9/2023 và biên bản định giá ngày 22/11/2023.
Theo bản tự khai, quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ông Văn P người đại diện hợp pháp của Ông P Ông Đỗ Thanh T trình
bày:
Tháng 4 năm 2023, Ông P được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B công
nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích 1.829,4m
2
theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số: DI 660056; số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất: CS07906; tờ bản đồ số 34; thửa đất số 473; tọa lạc tại T, huyện D,
tỉnh Bình Dương. Ông P quản sử dụng ổn định thửa đất từ ngày cấp giấy
chứng nhận cho đến nay.
Khi Ông P được Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương triệu tập để
làm việc thì mới biết giữa Nguyễn Thị R Trần Thị B giao kết hợp
đồng chuyển nhượng một phần diện tích đất (dài 12m x rộng 155m) do Ông P
đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Việc mua bán đất giữa R B đối với phần diện tích đất nêu trên,
Ông P hoàn toàn không biết ông cũng không tên vào bất kỳ giấy tờ
liên quan đến việc mua bán đất giữa R B. Ông P thống nhất ý kiến với
mẹ là bà R.
Ông P ông T đồng ý với kết quả đo đạc theo Biên bản xem xét, thẩm
định tại chỗ tài sản tranh chấp ngày 08/8/2023; Mảnh trích lục địa chính đất tranh
chấp số 635-2023 ngày 15/9/2023 kèm theo bản mô tả ngày 08/8/2023, phiếu xác
nhận kết quả đo đạc ngày 13/9/2023 và biên bản định giá ngày 22/11/2023.
Theo bản tự khai biên bản lấy lời khai ngày 03/11/2023, quá trình tố
tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Lê Văn T1, Lê Thị V Ông
Lê Văn D trình bày:
Việc mua bán đất giữa R B đối với đất tranh chấp thì các ông D,
bà V, ông T không biết. Tuy nhiên, ông D, bà V đều thừa nhận có ký tên vào bản
6
cam kết ngày 14/11/2022, ông T thừa nhận tên vào hợp đồng chuyển nhượng
ngày 15/4/2018 và người cạo mủ cao su trên đất tranh chấp là ông N1 chứ không
phải gia đình nguyên đơn bà R, Ông P.
Quá trình tố tụng, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Trần Quốc
N1 Bà Nguyễn Thị Hằng N trình bày:
Ông N1, bà N thống nhất với lời khai và yêu cầu của bà B, yêu cầu Tòa án
công nhận 02 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/11/2017,
ký hợp đồng chuyển nhượng bổ sung ngày 15/4/2018 và các bản cam kết bổ sung
gồm Biên bản cam kết ngày 07/5/2022 Bản cam kết ngày 14/11/2022 hiệu
lực. Yêu cầu gia đình bà R gồm Bà Nguyễn Thị R, Ông Lê Văn T1, Ông Lê Văn
P, Thị V, Ông Văn D tiếp tục thực hiện làm thủ tục chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối với phần đất tổng diện tích 1.829,4m
2
thuộc thửa số 473,
tờ bản đồ số 34, tọa lạc tại Ấp C, T, huyện D, tỉnh Bình Dương cho B,
Nguyễn Thị Hằng N Ông Trần Quốc N1.
Bà N, ông N1 đồng ý với kết quả đo đạc theo Biên bản xem xét, thẩm định
tại chỗ tài sản tranh chấp ngày 08/8/2023; Mảnh trích lục địa chính đất tranh chấp
số 635-2023 ngày 15/9/2023 kèm theo bản mô tả ngày 08/8/2023, phiếu xác nhận
kết quả đo đạc ngày 13/9/2023 và biên bản định giá ngày 22/11/2023.
Tại Bản án dân sự thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 06/8/2024, Tòa án nhân
dân huyện D, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bà Nguyễn
Thị R đối với bị đơn Trần Thị B về việc yêu cầu tuyên hợp đồng mua bán,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/11/2017, hợp đồng mua bán,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/4/2018 gia Nguyn ThR
Bà Trn Thị B là vô hiệu.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
2.1. Công nhận hợp hai đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cùng ngày 17/11/2017; hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 15/4/2018; Biên bn cam kết ngày 07/5/2022 Bản cam kết ngày
14/11/2022 là giao dịch hợp pháp.
2.2. Trần Thị B, Nguyễn Thị Hằng N, Ông Trần Quốc N1 được
quyền sử dụng phần đất có tổng diện tích 1.829,4m
2
thuộc thửa số 473, tờ bản đồ
số 34, tọa lạc tại Ấp C, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương. Đất có tứ cận:
- Phía Bắc giáp thửa số 474 của Lê Thị V (có ranh đất hàng rào lưới
B40 do bà R làm năm 2018);
- Phía Đông giáp mương nước;
- Phía Nam giáp một phần đường đất, giáp một phần thửa đất số 54 của
Đào Thị E;
7
- Phía Tây giáp một phần đường nhựa ĐH 719, một phần thửa đất của
Nguyễn Thị G.
(Có bản vẽ kèm theo)
Cùng toàn bộ tài sản trên đất, gồm: 65 cây cao su, 10 cây tràm tự mọc
hàng rào xung quanh khu đất.
3. Kiến nghị quan thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở tài sản khác gắn liền với đất số DI 660056, số vào sổ
CS07906 ngày 19 tháng 4 năm 2023 do Sở tài nguyên Môi trường cấp cho Ông
Văn P. quan đăng đất đai; quan tài nguyên Môi trường thẩm
quyền căn cứ vào bản án, quyết định hiệu lực pháp luật của Tòa án để giải
quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trần Thị B, Bà Nguyễn Thị
Hằng N, Ông Trần Quốc N1.
4. Trần Thị B, Nguyễn Thị Hằng N, Ông Trần Quốc N1 trách
nhiệm liên hệ với quan Nhà nước thẩm quyền để hoàn thiện các thủ tục sang
tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật đối với
phần đất được sử dụng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, trách nhiệm thi hành
án và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi có bản án thẩm, ngày 19/8/2024 nguyên đơn Nguyễn Thị R
đơn kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự thẩm số 99/2024/DS-ST ngày
06/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương, đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm sửa bản án thẩm, tuyên các hợp đồng ngày 17/11/2017 ngày
15/4/2018, bản cam kết ngày 07/5/2022 ngày 14/11/2022 do vi phạm pháp luật
xử hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Ngày 30/8/2024, những người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan quan Ông Lê Văn P, Ông Lê Văn T1, Bà Lê Thị V Ông
Văn D đơn kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự thẩm số 99/2024/DS-ST
ngày 06/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương, đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, tuyên vô hiệu các hợp đồng ngày 17/11/2017
và ngày 15/4/2018, bản cam kết ngày 07/5/2022 và ngày 14/11/2022 do vi phạm
pháp luật, xử hậu quả của hợp đồng hiệu công nhận quyền sử dụng đất
diện tích 1.829,4m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số DI 660056, số
vào sổ CS07906 thuộc thửa đất số 473, tờ bản đồ số. 34 toạ lạc tại xã T, huyện D,
tỉnh Bình Dương do Sở Tài nguyên Môi trường cấp cho Ông Văn P ngày
19/4/2023.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thị R vẫn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo; bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Lê Văn P, Ông Lê Văn T1, Bà Lê Thị V
Ông Văn D vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
8
Về tố tụng: Những người tiến hành ttụng tham gia ttụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Nguyên đơn Bà Nguyễn Thị R; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Ông Lê Văn P, Ông Lê Văn T1, Thị V Ông Lê Văn D kháng
cáo đề nghị Tòa án chấp nhận kháng cáo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ tại hồ vụ án đã được cấp thẩm thu thập
cũng như lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa ngày hôm nay, nguyên đơn
những người quyền lợi, nghĩa vụ kháng cáo nhưng không cung cấp mới nên
không sở chấp nhận. Do đó, Tòa cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xáp dụng khoản 1 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giữ nguyên bản án thẩm của
Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm
tra tại phiên toà, kết quả tranh tụng của các đương sự tại phiên a, ý kiến đại diện
Viện kiểm sát,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn Bà Nguyễn Thị R kháng cáo
của những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Văn P, Ông Văn
T1, Bà Lê Thị V Ông Lê Văn D trong thời hạn luật định. Do đó, Tòa án cấp
phúc thẩm thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Thực tế, Bà Nguyễn Thị R Trần Thị B đã giao kết các văn bản
như sau:
+ Hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/11/2017
bằng giấy tay có nội dung: Bà R và các con bà R cùng nhất trí bán cho bà B diện
tích 1.800m
2
với gtiền là 276.000.000 (Hai trăm bảy mươi sáu triệu) đồng. Hợp
đồng nêu trên không ghi các thông tin về thửa đất như vị trí, tứ cận đất, số thửa,
số tờ bản đồ.
+ Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/11/2017
(theo mẫu) có nội dung: R đồng ý bán 1.800m
2
với giá 130.000.000 (Một trăm
ba mươi triệu) đồng, thanh toán đợt 1 20.0000 đồng vào ngày 17/11/2017
thanh toán đợt 2 là sau khi hoàn tất các thủ tục sang nhượng. Hợp đồng cũng quy
định trách nhiệm giữa các bên.
+ Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/4/2018
nội dung: R chuyn nhưng cho B phn đt diện tích ngang 12m x
dài 155m thuộc thửa đất số 52, tờ bản đồ số 34 với giá 276.000.000 đồng (Hai
trăm bảy mươi sáu triệu), đặt cọc số tiền 20.000.000 đồng ngày 17/11/2017, thanh
toán đợt hai số tiền 256.000.000 đồng ngày 15/4/2018 thỏa thuận về quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên, người làm chứng Nguyễn Thị Hằng N
Ông Lê Văn T1. Đồng thời, tại trang cuối của hợp đồng, bà R có ghi xác nhận
9
đã nhận đủ số tiền 256.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi sáu triệu đồng) vào
ngày 15/4/2018.
+ Biên bản cam kết (V/v chuyển nhượng quyền sử dụng đất) ngày
07/5/2022 nội dung: Bên chuyển nhượng đất ( Nguyễn Thị R) chuyển
nhượng thửa đất số 52, tờ bản đồ số 34, diện tích 12m ngang x 155m dài = 1.800m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00613 do Ủy ban nhân dân huyện B
cấp ngày 16/12/1997 cho bên nhận chuyển nhượng đất (Bà Trần Thị B) với giá là
276.000.000 (Hai trăm bảy mươi sáu triệu) đồng, đặt cọc đợt 1 20.000.000 (Hai
mươi triệu) đồng vào ngày 17/11/2017 thanh toán đợt 2 256.000.000 (Hai
trăm năm mươi sáu triệu) đồng vào ngày 15/4/2018. Ngoài ra, văn bản còn ghi
nhận quyền nghĩa vụ khác của các bên liên quan đến việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất.
+ Bản cam kết ngày 14/11/2022 nội dung: Bên chuyển nhượng đất (gồm
Nguyễn Thị R, Thị V, Ông Văn D Ông Văn P) đồng ý giao
thửa đất số 52, tờ bản đồ số 34 (diện tích ngang 17m mặt đường nhựa từ hàng rào
ra tới ranh đất bà Đào Thị E, chiều dài từ đầu đường nhựa dài tới bờ mương, mặt
hậu từ bờ rào đến giáp ranh đất nhà ông Võ Văn S) cho bên nhận chuyển nhượng
đất (gồm Trần Thị B, Nguyễn Thị Hằng N Ông Trần Quốc N1); người
làm chứng là bà Nguyễn Thị L.
[2.2] Theo các văn bản R bà B đã giao kết vào các ngày
17/11/2017, 15/4/2018, 07/5/2022 14/11/2022, xét thấy các bên thoả thuận
chuyển nhượng thửa đất số 52, tờ bản đồ số 34 với diện tích 1.800m
2
. Tuy nhiên,
thông qua lời khai của các đương sự trong vụ án đo đạc thực tế theo Mảnh trích
lục địa chính đo đạc chỉnh (tranh chấp) số 635-2023 ngày 15/9/2023 của Chi
nhánh Văn phòng Đăng đất đai huyện D, thửa đất số 52, tờ bản đồ số 34 này
hiện nay là thửa số 473, tờ bản đồ 34 do Ông Lê Văn P đứng tên trên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Đồng thời, tại cấp thẩm, R cũng thừa nhận rằng
Ngày 17/11/2017 ngày 15/4/2018 giữa tôi Trần Thị B thoả thuận
việc mua bán, chuyển nhượng một phần đất thuộc thửa 52, tờ bản đồ số 34 Do
không thể xác nhận được tình trạng bất động sản và không đủ diện tích tách thửa
theo quy định pháp luật về đất đai n tôi đã chuyển nhượng phần đất diện
tích 1.829,4m
2
cho con tôi là Lê Văn P, ngày 19/4/2023 P đã được Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: DI 660056; số
vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: CS07906 đối với phần đất
diện tích 1.829,4m
2
thuộc thửa số 473, tờ bản đồ số 34; toạ lạc tại xã T, huyện D,
tỉnh Bình Dương”. Như vậy, phần đất trên thực tế các bên thoả thuận giao dịch
là thửa số 473, tờ bản đồ số 34 hiện nay do Ông Lê Văn P đứng tên.
[2.3] Diện tích đất mà các bên thoả thuận chuyển nhượng ngang 12m x dài
155m 1.860m
2
, được thể hiện trong các văn bản thoả thuận, cam kết giữa các
bên chỉ ghi nhận diện tích 1.800m
2
. Tuy nhiên, theo Bản cam kết ngày
14/11/2022 thì các bên có thoả thuận cách thức xác định ranh đất chuyển nhượng
là “phần diện tích đất giao cho Trần Thị B chiều ngang 17m mặt đường nhựa
từ hàng rào ra tới ranh đất bà Đào Thị E, chiều dài từ đầu đường nhựa dài tới bờ
10
mương, mặt hậu từ bờ rào đến giáp ranh đất nhà ông Văn S”. Như vậy, nguyên
đơn và bị đơn đều xác định phần đất mà các bên thoả thuận là thửa đất số 473
diện tích 1.829,4m
2
. So vi tha thun thì din tích thc tế nguyên đơn giao cho
bị đơn sử dụng có gim 30,6m
2
(1.860m
2
– 1.829,4m
2
) nhưng bđơn vn yêu cu
Tòa án công nhn giao dch chuyn nhưng quyn sdụng đt diện tích 1.829,4m
2
thuộc thửa số 473, tờ bản đồ số 34, tọa lạc tại Ấp C, T, huyện D, tỉnh Bình
Dương đng ý nhn phn đt như bn vtheo Mảnh trích lục địa chính đo
đạc chỉnh lý (tranh chấp) số 635-2023 ngày 15/9/2023 của Chi nhánh Văn phòng
Đăng đất đai huyện D. Do đó, Tòa án xem xét giải quyết vụ án theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và đo đạc thực tế nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thm, ngưi đi din ca nguyên đơn trình bày quá trình
tố tụng ti cp sơ thm, Ông Lê Văn P con Bà Nguyn Th R không tha nhn
chtrên Bn cam kết ngày 14/11/2022 yêu cu giám đnh chnhưng
cấp thm không chp nhn. Xét thy, căn ctài liu, chng cti h
không thhin Ông P yêu cu giám đnh này. Do đó, li trình bày ca ngưi
đại din ca nguyên đơn không sở. Tại phiên tòa phúc thm Ông P không
yêu cu giám đnh chti Bn cam kết ngày 14/11/2022 nên Hi đng xét x
không đặt ra xem xét, gii quyết.
[2.4] Theo Công văn số 111/PTNMT-QLĐĐ ngày 06/3/2024 của Phòng
Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân huyện D (bút lục 178), thửa số
473, tờ bản đồ số 34 nguồn gốc được tách ra từ thửa số 52, tờ bản đồ số 34 theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào số 00613 QSDĐ ngày 16/12/1997 do
Ủy ban nhân dân huyện B (nay là Ủy ban nhân dân huyện D) cấp cho hộ Nguyễn
Thị R (khi cấp giấy thực hiện đo vẽ nhưng không liên ranh). Theo Công văn
số 388/GXNHK-CAH ngày 13/5/2024 của Công an huyện D (bút lục 178b), từ
năm 1990 đến nay hộ Nguyễn Thị R 10 người đăng ký thường trú, trong đó
có chồng của bà R là ông Lê Văn S1 (sinh năm 1956, chết ngày 11/12/2015). Tài
sản quyền sử dụng đất đối với thửa 52 tài sản chung của vợ chồng ông S1,
bà R. Khi ông S1 chết, quyền định đoạt tài sản của ông S1 được hàng thừa kế thứ
nhất của ông Lê Văn S1 gồm Bà Nguyễn Thị R, Ông Lê Văn T1, Ông Lê Văn P,
Bà Lê Thị V, Ông Lê Văn D định đoạt.
[2.5] Xét thấy, hai Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cùng ngày 17/11/2017 và Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày ngày 15/4/2018 gia R vi B không chữ của hàng thừa
kế thứ nhất của ông Văn S1 gồm Ông Văn T1, Ông Văn P, Thị
V, Ông Lê Văn D không được công chứng, chứng thực vi phạm quy định tại
các Điều 117, 119, 502 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 167 của Luật Đất
đai năm 2013. Theo Hợp đồng ngày 15/4/2018 Ông Văn T1 tên với
cách người làm chứng và Bản cam kết ngày 14/11/2022 Ông Lê Văn P, Bà Lê
Thị V, Ông Lê Văn D ký tên xác nhận với tư cách là bên chuyển nhượng đất. c
con của R cũng các đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thừa nhất của ông
S1 đều biết về giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa R B.
Đồng thời, theo Biên bản lấy lời khai ngày 03/11/2023 (bút lục số 93, 96, 99),
11
V ông D thừa nhậnký tên trong Bản cam kết ngày 14/11/2022; ông T thừa
nhận ký tên trong Hợp đồng ngày 15/4/2018. Thực tế, bà B đã giao tiền cho bà
R 20.000.000 (Hai ơi triệu) đồng vào ngày 17/11/2017 và 256.000.000 (Hai
trăm năm mươi sáu triệu) đồng vào ngày 15/4/2018.
[2.6] Về quá trình thực tế quản lý, sử dụng đất: Quá trình tố tụng giải quyết
tại cấp thẩm, tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 08/8/2023 (bút lục
122), R xác nhận giao toàn bộ thửa đất số 473, tờ bản đồ s34 cùng toàn bộ
cây trồng trên đất cho B quản lý, sử dụng đất từ tháng 4/2018 đến nay. Ngoài
ra, tại Biên bản xem xét, thẩm định của cấp thẩm (bút lục 122) thể hiện ngoài
việc bà R giao toàn bộ thửa đất cùng tài sản trên đất cho bà B, bà R và ông T chỉ
ranh cho phía bị đơn cắm 35 trụ tông giăng dây kẽm làm ranh từ năm 2018.
Tại các Biên bản lấy lời khai ngày 03/11/2023 (bút lục số 93, 96, 99), cả ba người
bà V, ông D và ông T đều xác nhận người cạo mủ cao su, quản lý, sử dụng đất
hiện nay ông N1. Căn cứ theo lời khai của người làm chứng Nguyễn Thị L
và bà Lê Thị Q (bút lục 104 106), bà R đã giao đất cho bà B quản lý, sử dụng
từ năm 2019; vợ chồng Nguyễn Thị Hằng N Ông Trần Quốc N1 (là em của
bà B) có quản lý, sử dụng đất, thường đến cạo mủ cao su, bán cây tầm vông, cây
tràm trên đất. B cũng đến phần đất để bẻ măng. Căn cứ theo lời khai của
những người làm chứng bà Hồ Thị M Đào Thị E (bút lục 108 và 110), phần
đất tranh chấp đã được R giao cho B từ năm 2019 trong cùng năm, ông
N1 đã đến cạo mủ cao su, khai thác hoa lợi trên phần đất tranh chấp. Người làm
chứng ông Cao Văn T2 cũng xác nhận gia đình bị đơn bán cho ông mấy cây
tràm bông vàng mọc trên thửa đất số 473, gia đình nguyên đơn biết nhưng
không phản đối, không có ý kiến.
Như vậy, giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên tuy
không tuân thủ về hình thức nhưng phía nguyên đơn đã nhận được tiền từ phía bị
đơn tổng cộng là 276.000.000 (Hai trăm bảy mươi sáu triệu) đồng, phía bị đơn đã
nhận bàn giao đất từ tháng 04/2018 quản lý, sử dụng đất ổn định cho đến nay
đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch. Căn cứ theo Điều 129 của Bộ
luật Dân sự năm 2015, bà B có yêu cầu Tòa án công nhận các hợp đồng, cam kết
giữa bà R với B có hiệu lực nên Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hiệu lực giao
dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất là có căn cứ.
[3] Từ những phân tích trên, xét thấy không sở để tuyên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 17/11/2017, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 15/4/2018 hiệu. Tòa án cấp thẩm đã xem xét
đánh giá toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích
các bên, xét xử phù hợp với quy định pháp luật. Nguyên đơn những người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo nhưng tại Tòa án cấp phúc thẩm không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác làm thay đổi nội dung vụ án nên không
có căn cứ chấp nhận các kháng cáo.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.
12
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn Bà Nguyễn Thị R được miễn
án phí dân sự phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Lê Văn P,
Ông Lê Văn T1, Bà Lê Thị V Ông Lê Văn D phải chịu án phí phúc thẩm theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148, khoản 1 Điều 308 Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 117, 119, 328, 424 và 427 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận các kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị R
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Văn P, Ông Lê Văn T1, Thị
V Ông Lê Văn D.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 06/8/2024
của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyễn Thị R không phải chịu án phí
phúc thẩm. Ông Văn P, Ông Văn T1, Lê Thị V Ông Văn D mỗi
người phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền
1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm tại
Biên lai số 0000421 ngày 07/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D,
tỉnh Bình Dương.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS huyện D;
- TAND huyện D;
- Các đương sự;
- Tổ hành chính tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Trung Dũng
Tải về
Bản án số 197/2025/DS-PT Bản án số 197/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 197/2025/DS-PT Bản án số 197/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất