Bản án số 85/2024/DS-PT ngày 23/09/2024 của TAND tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 85/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 85/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 85/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 85/2024/DS-PT ngày 23/09/2024 của TAND tỉnh Đắk Nông về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Nông |
Số hiệu: | 85/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | 1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T và bà Nguyễn Thị Phượng C về việc yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc được ghi dưới hình thức hợp đồng 6 chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/8/2022 và không chấp nhận yêu cầu buộc ông Nguyễn Văn M và bà Lương Thị T1 phải trả cho ông Phan Văn T và bà Nguyễn Thị P Cầm số tiền cọc 190.000.000đ(Một trăm chín mươi triệu đồng). 2. Đình chỉ đối với yêu cầu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hoàn trả tiền công đầu tư 17.500.000 đồng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK NÔNG
Bản án số: 85/2024/DS-PT
Ngày 23-9-2024
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Ửng.
Các Thẩm phán: Ông Lê Văn Hữu và ông Võ Văn Vinh.
- Thư ký phiên tòa: Ông Trừ Minh Quốc, là Thư ký viên của Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Nông.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Thanh Hòa – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 20 tháng 9 và ngày 23 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 75/2024/TLPT-
DS, ngày 30/8/2024 về việc “Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc”, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Văn T và bà Nguyễn Thị Phượng C, địa chỉ: Thôn Á,
xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T: Bà Nguyễn Thị Phượng C, địa chỉ:
Thôn Á, xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn M, địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông
– Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lương Thị T1, địa chỉ: Thôn Đ, xã
Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông M và bà T1: Ông Đồng Văn N, địa chỉ: A
T, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.
Do có kháng cáo của ông Nguyễn Văn M là bị đơn và bà Lương Thị T1 là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Phan Văn
T và bà Nguyễn Thị Phượng C trình bày:
Ngày 07/8/2022 ông T, bà C có đến gặp ông Nguyễn Văn M, bà Lương Thị T1 để
mua một diện tích rẫy. Sau khi xem rẫy thì ông M nói diện tích rẫy khoảng 1ha, trừ hồ,
2
tức là diện tích rẫy khoảng 9,5 sào. Bán với giá 490.000.000 đồng. Cùng ngày các bên
lập giấy sang nhượng rẫy, nhưng bản chất là hợp đồng đặt cọc trong đó ghi nội dung
ông M bà T1 sang nhượng cho ông T, bà C diện tích rẫy 8 sào + hồ nước, giá
490.000.000 đồng, trong đó ông T bà C đặt cọc 160.000.000 đồng. Còn 330.000.000
đồng thì đến ngày 20/3/2023 sẽ trả đủ. Nếu đến đó ông T bà C không trả đủ tiền thì
phải chịu trách nhiệm và khi giao đủ số tiền thì ông M phải sang tên Giấy GCNQSDĐ
cho ông T, bà C. Ông M, bà T1 giao rẫy cho ông T bà C làm ngay sau đó. Ông M nói
miệng là phải đưa đủ 200.000.000 đồng tiền cọc thì mới ra làm giấy tờ để sang tên cho
ông T bà C. Vì vậy, ngày 16/8/2022 ông T bà C đưa thêm 30.000.000 đồng (do ông M
nói bớt cho 10.000.000 đồng) và hẹn đến ngày 20/3/2023 là ông T bà C phải đưa đủ
tiền, nhưng có nói miệng là có trước lúc nào thì đưa lúc đó là ông M sẽ làm thủ tục
sang tên lúc đó. Ngày 21/10/2022 ông T bà C có đem số tiền còn lại đến nhà ông M thì
ông M nói chưa làm được sổ mà phải đúng tới 20/3/2023 mới giao sổ đỏ được và còn
đe dọa đánh nên ông T bà C về.Đến ngày 20/3/2023 không thấy không Mạc liên lạc.
Ngày 21/3/2023 ông T có gọi cho ông M nhưng ông M lại đe dọa và bảo khi nào có
bìa thì ông M gọi. Cùng với việc rẫy khô hạn không có nước. Nhiều lần liên lạc nhưng
không thể đàm phán được nên ông T bà C đã trả lại rẫy. Ông M, bà T1 đã nhận lại rẫy
làm nhưng không trả lại tiền cho ông T bà C. Theo đơn khởi kiện yêu cầu ông M phải
trả lại 190.000.000 đồng và hoàn trả tiền công chi phí đầu từ 17.500.000 đồng. Tuy
nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án ông T bà C thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
tòa tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 07/8/2022 là vô hiệu; yêu cầu ông M, bà T1 trả lại
190.000.000 đồng tiền cọc; rút yêu cầu khởi kiện về việc hoàn trả tiền công đầu tư
17.500.000 đồng.
Bị đơn và đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:
Việc hai bên ký kết hợp đồng là đúng như phía nguyên đơn đã trình bày về thời
hạn đặt cọc, diện tích chuyển nhượng, số tiền đặt cọc và nghĩa vụ của các bên. Sau khi
thỏa thuận, ông M, bà T1 đã đăng ký thủ tục kê khai để cấp GCNQSDĐ nhưng đến
hạn ngày 20/3/2023 chưa nhận được GCNQSDĐ không phải do lỗi của ông bà. Ngày
28/3/2023 ông M, bà T1 mới được cấp GCNQSDĐ. Sau đó đã liên lạc với ông T, bà C
nhưng ông bà đã từ chối việc ký kết hợp đồng sang nhượng. Do ông bà bỏ bê rẫy
không làm nên ông M bà T1 đã lấy lại rẫy làm từ đó đến nay.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T, bà C thì ông M bà T1 không đồng ý trả lại
tiền cọc. Do ông M bà T1 vẫn có thiện chí chuyển nhượng. Lỗi làm GCNQSDĐ chậm
là do cơ quan nhà nước không phải do lỗi của ông bà. Và đến ngày 20/3/2023 ông T
bà C cũng không thanh toán đủ tiền cho ông M bà T1 theo như thỏa thuận nên ông bà
cũng có lỗi dẫn đến việc hợp đồng chuyển nhượng không ký kết được. Nay, ông T và
bà C khởi kiện ông M yêu cầu tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 07/8/2022 vô hiệu;
buộc trả lại 190.000.000 đồng là không có căn cứ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị T1 trình bày: Ngày
07/8/2022 bà có tham gia thỏa thuận trong hợp đồng ghi nội dung “Giấy sang nhượng
đất rẫy” với ông T và bà C, ông M là người trực tiếp đại diện ký, tại thời điểm thỏa
thuận đất chưa có GCNQSDĐ. Bà T1 xác nhận số tiền cọc đã nhận là 190.000.000
đồng. Đến ngày 20/3/3033 ông T và bà C không thanh toán nốt số tiền còn lại. Ngày
3
28/3/2023 ông M. bà T1 được cấp GCNQSDĐ và liên hệ với ông T bà C nhưng ông
bà không đồng ý mua rẫy nữa vì rẫy không có nước tưới nhưng thực trạng đất có hồ
tưới nước. Hiện tại đất do ông ông M và bà T1 đang quản lý và sử dụng. Trước yêu
cầu khởi kiển của nguyên đơn, bà T1 không đồng ý.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 27/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Văn T và bà Nguyễn
Thị Phượng C về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
2. Hủy hợp đồng đặt cọc được ghi dưới hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 07/8/2022.
3. Buộc ông Nguyễn Văn M và bà Lương Thị T1 phải trả cho ông Phan Văn T và
bà Nguyễn Thị P Cầm số tiền cọc 190.000.000đ(Một trăm chín mươi triệu
đồng).
4. Đình chỉ đối với yêu cầu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hoàn trả tiền
công đầu tư 17.500.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 14-8-2024, ông Nguyễn Văn M và bà Lương Thị T1 kháng cáo đề nghị cấp
phúc thẩm giải quyết sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, các
đương sự không cung cấp bổ sung, tài liệu chứng cứ gì mới.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông phát biểu ý kiến: Người tham gia
tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng
Dân sự tại Toà án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông cho rằng tại thời
điểm đặt cọc, quyền sử dụng đất thửa đất số 902, tờ bản đồ số 27 đang thế chấp tại
Ngân hàng, ngày 19/9/2022 các bên không ra Ngân hàng để tất toán hợp đồng tín dụng
để xóa thế chấp và không được sự đồng ý của Ngân hàng nhưng các bên vẫn ký kết
hợp đồng đặt cọc là trái với quy định tại khoản 8 Điều 320, khoản 5 Điều 321, Điều
501 Bộ luật dân sự dẫn đến hợp đồng đặt cọc bị vô hiệu theo điểm c khoản 1 Điều 117
Bộ luât dân sự. Do vậy vẫn giữ nguyên kháng nghị.
Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ, kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng
dân sự: Chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Sửa một phần Bản án sơ thẩm số
14/2024/DS-ST ngày 05/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil theo hướng chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn M và bà Lương Thị T1, sửa
bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
4
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn M và bà Lương Thị
Thanh n trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định.
[2]. Về nội dung giải quyết vụ án và yêu cầu kháng cáo, Hội đồng xét xử xét
thấy:
[2.1]. Ngày 07/8/2022 giữa nguyên đơn với bị đơn có xác lập hợp đồng chuyển
nhượng đất rẫy nhưng nội dung thể hiện nguyên đơn có đặt cọc số tiền 160.000.000đ
cho bị đơn để nhận chuyển nhượng diện tích rẫy 8 sào + hồ nước, giá chuyển nhượng
là 490.000.000 đồng, số tiền còn lại là 330.000.000 đồng thì đến ngày 20/3/2023 sẽ trả
đủ và kể từ ngày trả đủ số tiền thì bị đơn phải có trách nhiệm sang tên cho nguyên đơn,
bị đơn đã giao đất rẫy cho nguyên đơn sử dụng. Qúa trình thực hiện hợp đồng,
ngày16/8/2022 nguyên đơn đã cọc tiếp số tiền 30.000.000 đồng và hẹn đến tháng
3/2023 sẽ trả hết số tiền theo thỏa thuận và các bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng.
Tổng số tiền nguyên đơn đã đặt cọc cho bị đơn là 190.000.000đ. Mặc dù tiêu đề của
hợp đồng ghi là “Giấy sang nhượng đất rẫy”, tuy nhiên, nội dung các bên thỏa thuận
là đặt cọc một khoản tiền nhằm đảm bảo việc giao kết hợp đồng theo quy định tại
khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Xét thấy, hợp đồng đặt cọc đảm bảo
đầy đủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 117 của Bộ
luật Dân sự năm 2015 nên có hiệu lực pháp luật và không bị vô hiệu như nhận định
của cấp sơ thẩm là phù hợp với quy định của pháp luật.
[2.2]. Theo thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc ngày 07/8/2022 thì ngày 20/3/2023
các bên sẽ tiến tới ký kết hợp đồng và hoàn tất thủ tục chuyển nhượng. Nguyên đơn
trong quá trình giải quyết vụ án cho rằng vào tháng 10/2022, nguyên đơn đã đem số
tiền 300.000.000đ đén nhà để giao cho bị đơn nhưng bị đơn cho rằng các bên thỏa
thuận ngày 20/3/2023 nên không nhận số tiền 300.000.000 đồng nêu trên. Và tại thời
điểm này, bị đơn cũng chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ đối với thửa
đất chuyển nhượng. Đến ngày 20/3/2023 thì phía nguyên đơn thừa nhận không liên hệ
để đưa tiền cho bị đơn theo thỏa thuận mà ngày 21/3/2023 nguyên đơn mới liên hệ cho
bị đơn để bàn giao tiền và bị đơn cho rằng chưa có GCNQSDĐ nên ngày 23/3/2023
phía nguyên đơn đã làm đơn khởi kiện tại Tòa án.
[2.3]. Như vậy, đối chiếu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình
bày của các bên đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo “Giấy sang
nhượng đất rẫy” ngày 07/8/2022, các bên thỏa thuận thực hiện hợp đồng là ngày
20/3/2023. Tuy nhiên, sau đó hai bên lập văn bản thỏa thuận ngày16/8/2022 với nội
dung nguyên đơn cọc tiếp số tiền 30.000.000 đồng và thỏa thuận thời hạn để nguyên
đơn tiếp tục giao cho bị đơn số tiền còn lại để ký kết hợp đồng là tháng 3/2023. Nhưng
ngày 23/3/2023, nguyên đơn đã có đơn khởi kiện đối với bị đơn và Tòa án nhận đơn
khởi kiện ngày 27/3/2023. Như vậy, theo quy định tại khoản 3 Điều 148 Bộ luật dân
sự thì: “3. Khi thời hạn tính bằng tháng thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc
ngày tương ứng của tháng cuối cùng của thời hạn; nếu tháng kết thúc thời hạn không
có ngày tương ứng thì thời hạn kết thúc vào ngày cuối cùng của tháng đó.”
Có nghĩa là ngày 30/3/2023 mới là thời hạn cuối cùng để các bên thực hiện hợp
đồng. Đồng thời, ngày 28/3/2023, phía bị đơn đã được cơ quan có thẩm quyền cấp
GCNQSDĐ là vẫn trong thời hạn theo thỏa thuận. Như vậy, việc nguyên đơn khởi
5
kiện khi chưa hết thời hạn thỏa thuận là hành vi đơn phương chấp dứt hợp đồng và
theo quy định tại khoản 5 Điều 428 Bộ luật dân sự thì “5. Trường hợp việc đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng không có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này
thì bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa
vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật này, luật khác có
liên quan do không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng.” Như vậy, lỗi dẫn đến
hợp đồng không thực hiện được là hoàn toàn thuộc về nguyên đơn.
[3]. Từ những nhận định và phân tích nêu trên, việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả lại số tiền 190.000.000đ đã
nhận cọc là không đúng nên tại cấp phúc thẩm cần sửa lại bản án sơ thẩm theo hướng
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do nguyên đơn là người vi phạm
hợp đồng và có lỗi nên phải chịu mất số tiền đã đặt cọc theo quy định tại Điều 328 Bộ
luật dân sự là có căn cứ.
[4]. Qúa trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có rút một phần yêu cầu khởi kiện về
việc hoàn trả tiền công đầu tư 17.500.000 đồng nên cấp sơ thẩm đã đình chỉ xét xử là
phù hợp.
[5]. Từ những vấn đề phân tích, nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy, có
căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn M và bà Lương Thị T1, chấp nhận
quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, sửa một phần
bản án sơ thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân
huyện Đắk Mil theo hướng nhận định nêu trên.
[6]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận nên
nguyên đơn phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Do chấp nhận yêu
cầu kháng cáo nên người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm và hoàn
trả số tiền đã nộp tạm ứng theo quy định của pháp luật.
[7]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 và Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự:
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn M và bà Lương Thị T1. Sửa
một phần bản án dân sự sơ thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
Áp dụng khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 148, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ
luật Tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 117, khoản 3 Điều 148, Điều 328 và khoản 5 Điều
428 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T và bà Nguyễn Thị
Phượng C về việc yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc được ghi dưới hình thức hợp đồng
6
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/8/2022 và không chấp nhận yêu cầu buộc
ông Nguyễn Văn M và bà Lương Thị T1 phải trả cho ông Phan Văn T và bà Nguyễn
Thị P Cầm số tiền cọc 190.000.000đ(Một trăm chín mươi triệu đồng).
2. Đình chỉ đối với yêu cầu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hoàn trả tiền
công đầu tư 17.500.000 đồng.
3. Về án phí:
3.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Phan Văn T và bà Nguyễn Thị P Cầm
phải nộp 9.500.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ số tiền 5.187.500
đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009254 ngày 28/04/2023 tại Chi cục
thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông. Ông Phan Văn T và bà Nguyễn Thị
Phượng C còn phải nộp bổ sung số tiền 4.312.500 đồng.
3.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn M và bà Lương
Thị T1 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp
theo các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005969 ngày 20-8-2024 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành
án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Đắk Nông;
- TAND huyện Đắk Mil;
- VKSND huyện Đắk Mil;
- Chi cục THADS huyện Đắk Mil;
- Các đương sự;
- Lưu: TDS, THCTP, HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký, đóng dấu)
Nguyễn Anh Ửng
Tải về
Bản án số 85/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 85/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 03/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 01/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 01/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 01/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm