Bản án số 99/2024/DS-PT ngày 17/12/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 99/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 99/2024/DS-PT ngày 17/12/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 99/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Nguyễn Xuân K, Nguyễn Xuân Đ khởi kiện tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất đối với anh Nguyễn Văn L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 99/2024/DS-PT
Ngày: 17 - 12 - 2024
V/v Tranh chấp hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Hữu Hiệu.
Các Thẩm phán: Ông Phạm Anh Tuyết, bà Phạm Thúy Hằng
- Thư phiên toà: Thị Mai Trang - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa:
Bà Bùi Thị Hậu - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương,
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 93/2024/TLPT-DS ngày 15
tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất”; do
Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo; theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử phúc thẩm số 114/2024/QĐ-PT ngày 20 tháng 11 năm 2024 giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Xuân K, sinh năm 1960; địa chỉ: Tổ A, Khu D, phường C,
thành phố C, tỉnh Quảng Ninh;
2. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn N, T, huyện T, tỉnh
Hải Dương;
(Ông Đ ủy quyền cho ông K tham gia tố tụng; ông K có mặt)
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1980; nơi đăng thường trú:
Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương; nơi ở hiện nay: Thôn N, xã T, huyện T,
tỉnh Hải Dương; có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thị X, sinh năm 1964; địa chỉ: Tổ A, Khu D, phường C, thành
phố C, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt, có ủy quyền cho ông K tham gia tố tụng.
2
2. Phạm Thị P, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn N, T, huyện T, tỉnh Hải
Dương; vắng mặt, có ủy quyền cho ông K tham gia tố tụng.
3. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1997; nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã
T, huyện T, tỉnh Hải Dương; nơi hiện nay: Thôn N, T, huyện T, tỉnh Hải
Dương; vắng mặt, có ủy quyền cho anh L tham gia tố tụng.
4. Ông Nguyễn Văn K1, sinh năm 1957 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1958;
nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương; nơi ở hiện nay:
Thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương; T ủy quyền cho ông K1 tham gia tố
tụng, ông K1 có mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn Nguyễn Văn L
Bản án không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Ông Nguyễn Xuân K, bà Phạm Thị X là chủ sdụng thửa đất số 106 tờ bản
đồ số 20, diện tích 400m
2
; ông Nguyễn n Đ, Phạm Thị P chủ sử dụng thửa
đất số 300 tờ bản đồ số 08, diện tích 100m
2
; hai thửa đất giáp nhau tọa lạc tại thôn
N, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương.
Ngày 09/7/2018 vợ chồng ông K, vợ chồng ông Đ anh Nguyễn Văn L
kết hợp đồng thuê quyền sử dụng hai thửa đất nêu trên. Hai hợp đồng được lập
thành văn bản, có chứng thực của UBND xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương với nội
dung cơ bản: Anh L thuê toàn bộ diện tích đất trên để làm xưởng may mặc làm
mộc; thời hạn thuê đất là 10 năm, tính từ ngày 15/7/2018 đến ngày 15/7/2028; giá
thuê đất của vợ chồng ông K với anh L 03 năm đầu 36.000.000 đồng/năm, 03
năm tiếp theo 40.000.000 đồng/năm, 04 năm tiếp theo 44.000.000 đồng/năm;
giá thuê thửa đất của vợ chồng ông Đ với anh L 03 năm đầu 9.000.000
đồng/năm, 03 năm tiếp theo là 10.000.000 đồng/năm, 04 năm tiếp theo là
11.000.000 đồng/năm; thương thức thanh toán tiền thuê đất một năm trả hai
lần, trả trước 06 tháng.
Sau khi hợp đồng, anh L vợ chị H đã nhận đất, san lấp mặt bằng
tổng = 201,3m
3
cát, tổng giá trị 45.151.000đồng (khu lán tôn: 149,3 m
2
x 0,31m
= 46,3 m
3
giá trị 10.385.000 đồng, khu vực nhà xưởng: 500 m
2
x 0,31m = 155m
3
giá trị 34.766.000đồng); xây dựng nhà xưởng 500m
2
=1.010.100.000đồng, làm
lán tôn 149,3m
2
= 183.124.000đồng; đổ bê tông nền làm mặt bằng sản xuất tổng
= 76.134.000đồng.
Anh L, chị H đã thanh toán đầy đủ tiền thuê đất cho ông K, ông Đ đến hết
năm 2022. Kỳ thanh toán tháng 1/2023 (từ tháng 15/01/2023-15/7/2023) sau 03
lần khất nợ và trả nợ, anh L, chị H mới trả được 15.000.000đồng, còn nợ
10.000.000đồng. Từ đó anh L, chị H không trả được tiền thuê đất cho ông K
ông Đ. Ông K, ông Đ đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng anh L thanh toán tiền, anh L
đã 04 lần viết cam kết trả tiền thuê cho ông K, ông Đ thể hiện: trong bản cam kết
ngày 17/10/2022 anh L viết “Tôi xin cam kết và thực hiện đầy đủ như trong cam
kết hợp đồng nếu không thực hiện ông K sẽ đơn phương chấm dứt hợp đồng
3
xin chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Tại bản cam kết ngày 26/7/2023 anh L viết:
“Nay tôi viết giấy này và cam kết sẽ thanh toán đúng thời hạn 15/8/2023 nếu sau
thời gian như trên tôi không thanh toán được thì ông K sẽ huỷ hợp đồng đơn
phương”. Giấy cam kết lần thứ 4 anh L viết ngày 13/9/2023, anh L cam kết đúng
ngày 15/10/2023 sẽ chuyển số tiền thuê đất của ông K là 35.000.000 đồng và đến
ngày 09/01/2024 anh L sẽ chuyển đợt tiếp theo hợp đồng cam kết: “Nếu sai
như đã cam kết ông K cho tôi 01 tháng để di chuyển tài sản trên đất để trả lại mặt
bằng và huỷ hợp đồng thuê đất, tôi hoàn toàn đồng ý như đã cam kết, nếu sai một
trong do trên, ông K về để huỷ hợp đồng, tôi đồng ý”. Sau đó, anh L, chị H vẫn
không trả tiền thuê đất.
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
- Chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê đất đã ký kết ngày 09/7/2018 giữa bên
cho thuê vợ chồng ông Nguyễn Xuân K, vợ chồng ông Nguyễn Xuân Đ1 với bên
thuê anh Nguyễn Văn L.
- Buộc anh Nguyễn Văn L, chị Nguyễn Thị H phải tự tháo dỡ di dời các
công trình nhà xưởng, tài sản xây dựng trên thửa đất số 106, tờ bản đồ số 20
thửa đất số 300, tờ bản đồ s8 đều tọa lạc tại thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Hải
Dương.
- Đồng ý thanh toán trả anh L, chị H toàn b giá trị cát san lấp
45.151.000đồng.
- Buộc anh Nguyễn Văn L, chị Nguyễn Thị H thanh toán cho vợ chồng ông
K, vợ chồng ông Đ1 số tiền 06 tháng đầu năm 2023 (từ ngày 15/01/2023 đến ngày
14/7/2023) còn thiếu 10.000.000 đồng + s tiền 06 tháng cuối năm 2023 (t
15/7/2023 đến ngày 14/01/2024) là 25.000.000 đồng và số tiền của 06 tháng đầu
năm 2024 (từ ngày 15/01/2024 đến ngày 14/7/2024) là 25.000.000 đồng, tổng
cộng 60.000.000 đồng, còn từ ngày 15/7/2024 đến khi xét xử, các ông tnguyện
cho anh L, chị H.
Ý kiến của vợ chồng anh L: Anh L, chị H đầu tư xây dựng nhà xưởng may
mặc. Nguyên nhân không trả được tiền thuê đất đầy đủ do tác động của dịch
Covid-19 nhà xưởng không thể hoạt động được, không có người thuê lại xưởng;
chị H mới sinh con, không đi làm được, kinh tế vợ chồng anh L khó khăn. Sau đó,
hai bên tranh chấp nên anh L, chị H không trả tiền thuê nữa. Anh L, chị Hiệp đồng
Ý chấm dứt Hợp đồng thuê đất đối với vợ chồng ông Đ1, vợ chồng ông K và có
yêu cầu:
- Không nhất ttháo ddi dời tài sản để trả lại mặt bằng cho ông K, ông
Đ1, nếu tháo dỡ di dời tài sản thì ông K, ông Đ1 phải mua lại toàn bộ tài sản vợ
chồng anh đã xây dựng nhà xưởng trên đất theo giá mà Hội đồng định giá tài sản
huyện T đã kết luận và yêu cầu bồi thường cho vợ chồng anh phần hợp đồng còn
lại của 10 năm.
- Yêu cầu phía ông K, ông Đ1 phải thanh toán giá trị cát san lấp tổng
45.151.000đồng.
4
- Chỉ đồng ý trả số tiền thuê đất của 06 tháng đầu năm 2023 còn lại 10 triệu
đồng và số tiền thuê đất đến thời điểm ông K, ông Đ1 làm đơn khởi kiện đề nghị
Toà án giải quyết, anh không chấp nhận yêu cầu của ông K, ông Đ1 yêu cầu anh
thanh toán tiền thuê đất đến ngày 15/7/2024.
Ông Nguyễn Văn K1 Phạm Thị T bố mẹ đẻ của anh L xác định:
Vợ chồng anh L, chị H xây dựng nhà xưởng hết khoảng hơn một tỷ rưỡi, ông bà
đóng góp thêm cho vợ chồng anh L xây dựng xưởng nhưng không xác định
được cụ thể là bao nhiêu. Trong quá trình sản xuất may mặc ông không tham
gia quản lý nhà xưởng, không ăn chia lợi nhuận với vợ chồng anh L, không tham
gia quản nhà xưởng khâu nào, hiện ông chỉ cùng và trông nom nhà xưởng
cho vợ chồng anh L.
Tại Bản án dân sự thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 11/9/2024, Tòa án nhân
dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn ông Nguyễn Xuân K và ông Nguyễn Văn Đ:
Chấm dứt 02 hợp đồng thuê đất kết ngày 09/7/2018 giữa bên cho thuê
là vợ chồng ông K, vợ chồng ông Đ với bên thuê là anh L.
Buộc anh L, chị H, ông K1, bà T phải tháo dỡ, di dời toàn bộ nxưởng,
tông tài sản kèm theo (01 nhà xưởng diện tích 500m
2
, phần khối lượng
tông nhà xưởng 55m
3
) trả lại toàn bdiện tích đất thuê cho vợ chồng ông K vợ
chồng ông Đ.
Buộc anh L, chị H phải thanh toán tiền thuê đất còn lại của 06 tháng đầu
năm 2023 (đợt 15/01/2023 đến 14/07/2023) 10.000.000 đồng số tiền thuê
đất của kỳ 06 tháng cuối năm 2023 (đợt 15/7/2023 đến 15/01/2024) và kỳ từ đầu
của 06 tháng đầu năm 2024 đến ngày 15/7/2024, tổng cộng 60.000.000 đồng
(vợ chồng ông K 48.000.000 đồng, vợ chồng ông Đ 12.000.000 đồng).
Công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng ông K, vợ chồng ông Đ về việc trả
cho vợ chồng anh L tiền san lấp cát 45.151.000 đồng (vợ chồng ông K phải trả
36.120.800 đồng, vợ chồng ông Đ phải trả 9.030.200 đồng).
Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ do chậm thi hành, án phí, chi phí tố
tụng và quyền kháng cáo.
Ngày 24/9/2024, bị đơn Nguyễn Văn L kháng cáo toàn bộ bản ánthẩm
trừ nội dung quyết định về cát san lấp.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Ông K xác định vợ chồng ông
K tự nguyện đồng ý trả cho bị đơn giá trị toàn bộ phần tông bị đơn đã xây dựng
trên diện tích đất thuê và đất hành lang giao thông theo kết quả định giá của Hội
đồng định giá 76.134.000đồng. Giữa vợ chồng ông K và vợ chồng ông Đ tự
phân chia số tiền số tiền trên, không yêu cầu Tòa án phân chia.
Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo trình bày các nội dung như đã
trình bày ở cấp sơ thẩm.
5
Người quyền lợi liên quan ông K1 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
giải quyết vụ án hợp lý hợp tình.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn, sửa bản án thẩm theo
hướng chấp nhận sự tự nguyện của ông K về việc trả bị đơn giá trị khối lượng bê
tông đổ trên đất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về ttụng: Kháng cáo của bị đơn trong hạn luật định nên được chấp
nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Ngày 09/7/2018 vchồng ông K hợp đồng cho vợ chồng anh L thuê
quyền sử dụng thửa đất số 106 tờ bản đồ số 20, diện tích 400m
2
, vợ chồng ông Đ
hợp đồng cho vợ chồng anh L thuê quyền sử dụng thửa đất số 300 tờ bản đồ
số 08, diện tích 100m
2
; hai thửa đất trên giáp nhau tọa lạc tại thôn N, xã T, huyện
T, tỉnh Hải Dương; mục đích để vợ chồng anh L làm nhà xưởng may mặc và làm
mộc; thời hạn thuê đất là 10 năm, tính từ ngày 15/7/2018 đến ngày 15/7/2028; giá
thuê đất của vợ chồng ông K với anh L 03 năm đầu 36.000.000 đồng/năm, 03
năm tiếp theo 40.000.000 đồng/năm, 04 năm tiếp theo 44.000.000 đồng/năm;
giá thuê thửa đất của vợ chồng ông Đ với anh L 03 năm đầu 9.000.000
đồng/năm, 03 năm tiếp theo là 10.000.000 đồng/năm, 04 năm tiếp theo là
11.000.000 đồng/năm; thương thức thanh toán tiền thuê đất một năm trả hai
lần, trả trước 06 tháng. Hai hợp đồng thuê đất nêu trên được ký kết trên cơ sở t
nguyện giữa các chủ thể có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
hợp đồng có chứng thực của UBND xã T, huyện T; nội dung hợp đồng không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức hội nên hợp đồng hợp
pháp.
Quá trình thực hiện hợp đồng vợ chồng anh L có vi phạm nghĩa vụ trả tiền
thuê đất, cụ thể: Vợ chồng anh L mới trả đầy đủ tiền thuê đất cho vợ chồng ông
K vchồng ông Đ đến hết năm 2022. Kỳ thanh toán tiền thuê 06 tháng đầu
năm 2023 vợ chồng anh L chậm trả tiền, sau 04 lần cam kết thì vợ chồng anh L
mới trả được tổng số tiền 15.000.000đồng cho vợ chồng ông K vợ chồng ông
Đ, còn nợ lại 10.000.000đồng; các kỳ trả tiền sau đó, vợ chồng anh L không thực
hiện nghĩa vụ trả tiền thuê vi phạm điều khoản bản của hợp đồng, việc vi
phạm khéo dài gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bên cho thuê. Vợ chồng ông K
và vợ chồng ông Đ yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất là có căn
cứ theo Điều 422 và Điều 428 Bộ luật Dân sự. Trước đó, tranh chấp giữa các bên
đã được UBND T, huyện T hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Cấp
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chấm dứt hợp đồng là phù
hợp.
Về giải quyết các vấn đề phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng:
6
- Về nhà xưởng, vật kiến trúc và tài sản của vợ chồng anh L và bố mẹ anh
L xây dựng trên đất: Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, các bên đã thống nhất
vợ chồng ông K và vợ chồng ông Đ thanh toán toàn bộ giá trị cát san lấp cho vợ
chồng anh L thỏa thuận này đã được ghi nhận trong bản án. Đối với các tài sản
khác các bên còn tranh chấp về việc xử lý. Tại Điều 6 của các hợp đồng thuê đất
giữa các bên thỏa thuận “Việc giải quyết tài sản gắn liền với đất sau khi kết thúc
hợp đồng này được thực hiện theo thỏa thuận của 2 bên”. Tại giấy cam kết ngày
13/9/2023, anh L cam kết trả nợ tiền thuê cho ông K, ông Đ xác định “Nếu sai
như đã cam kết ông K cho tôi 01 tháng để di chuyển tài sản trên đất để trả lại mặt
bằng và huỷ hợp đồng thuê đất, tôi hoàn toàn đồng ý như đã cam kết, nếu sai một
trong do trên, ông K vđể huỷ hợp đồng, tôi đồng ý”. Đây thỏa thuận bổ
sung nội dung xử lý tài sản trên đất khi chấm dứt hợp đồng như cấp sơ thẩm nhận
định là đúng. Thực tế vợ chồng anh L không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ như
cam kết nên Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
buộc bị đơn tháo dỡ toàn bộ công trình, vật kiến trúc trên đất để trả lại mặt bằng
cho nguyên đơn là có căn cứ.
- Về tiền thuê đất: Thực tế đến nay vợ chồng anh L và bố mẹ đẻ anh L vẫn
đang quản lý, sử dụng đất thuê, vợ chồng ông Đ vợ chồng ông K tự nguyện chỉ
yêu cầu vợ chồng anh L trả tiền thuê đất đến ngày 15/7/2024 lợi cho vợ
chồng anh L. Cấp sơ thẩm buộc vợ chồng anh L phải trả vợ chồng ông Đ, vợ
chồng ông K tính đến ngày 15/7/2024 còn nợ là 60.000.000 đồng là phù hợp với
thỏa thuận của các bên và sự tự nguyện của nguyên đơn.
- Do hợp đồng chấm dứt trước thời hạn vì lỗi của phía vợ chồng anh L nên
yêu cầu của anh L về việc bồi thường thiệt hại do không tiếp tục thực hiện hợp
đồng là không có căn cứ chấp nhận.
Do các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên Tòa án cấp
thẩm buộc bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ chi
phí định giá tài sản là có căn cứ.
Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xác định kháng cáo của anh
L không có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên tại phiên tòa, ông K tự nguyện xác định
vợ chồng ông K đồng ý trả vợ chồng anh L toàn bộ giá trị khối lượng bê tông xây
dựng trên đất 76.134.000đồng. Giữa vợ chồng ông K vợ chồng ông Đ tự
phân chia số tiền số tiền trên nên cần chấp nhận sự tự nguyện của ông K. Đây là
tình tiết mới nên cần sửa bản án thẩm theo hướng ghi nhận sự tự nguyện của
ông K.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do sửa bản án nên anh Nguyễn Văn L không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm theo Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vQuốc hội quy
định chế độ án phí, lệ phí Tòa án.
[4] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị, Hội đồng xét xử không xét.
Vì các lẽ trên,
7
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của anh Nguyễn Văn L. Sửa Bản án
dân sự thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 11/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Thanh Miện, tỉnh Hải Dương như sau:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 166, Điều 167 Luật Đất
đai năm 2013, Điều 422, 428, 429, 472, 482 Điều 468 Bluật Dân sự m
2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uban Thường
vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
và lệ phí Toà án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Xuân K
ông Nguyễn Văn Đ.
1.1. Chấm dứt hợp đồng thuê đất ký kết ngày 09/7/2018 giữa bên cho thuê
ông Nguyễn Xuân KPhạm Thị X với bên thuê là anh Nguyễn Văn L đối với
thửa đất số 106 tờ bản đồ số 20, diện tích 400m
2
, tại thôn N, xã T, huyện T, tỉnh
Hải Dương.
1.2. Chấm dứt hợp đồng thuê đất ký kết ngày 09/7/2018 giữa bên cho thuê
là ông Nguyễn Văn ĐPhạm Thị P với bên thuê là anh Nguyễn Văn L đối với
thửa đất số 300 tờ bản đồ số 08, diện tích 100m
2
, tại thôn N, xã T, huyện T, tỉnh
Hải Dương.
1.3. Buộc anh Nguyễn Văn L, chị Phạm Thị H1, ông Nguyễn Văn K1,
Phạm Thị T phải tháo dỡ, di dời toàn bộ nhà xưởng, lán tôn phía trước và các tài
sản kèm theo đtrả cho ông Nguyễn Xuân K, bà Phạm Thị X ông Nguyễn Văn
Đ, bà Phạm Thị P quyền sử dụng đất nêu trên.
1.4. Buộc anh Nguyễn Văn L, chị Phạm Thị H1 phải thanh toán tiền thuê
đất còn lại của 06 tháng đầu năm 2023 (đợt 15/01/2023 đến 14/07/2023)
10.000.000 đồng số tiền thuê đất của kỳ 06 tháng cuối năm 2023 (đợt 15/7/2023
đến 15/01/2024) kỳ từ đầu của 06 tháng đầu năm 2024 đến ngày 15/7/2024,
tổng cộng 60.000.000 đồng (gồm trả cho vợ chồng ông Nguyễn Xuân K
48.000.000 đồng, trả cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Đ là 12.000.000 đồng.
1.5. Công nhận sthỏa thuận của vợ chồng ông Nguyễn Xuân K, vợ chồng
ông Nguyễn Văn Đ về việc trả cho anh Nguyễn Văn L, chị Nguyễn Thị H tiền san
lấp cát 45.151.000 đồng (trong đó phần chia vợ chồng ông K phải trả stiền
36.120.800 đồng, vợ chồng ông Nguyễn Văn Đ phải trả số tiền 9.030.200 đồng).
1.6. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Xuân K tại phiên tòa phúc
thẩm. Vợ chồng ông K trách nhiệm trả vợ chồng anh L, chị H giá trị khối lượng
bê tông đổ trên đất thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông K, vợ chồng ông Đ
phần bê tông đổ trên phần lán tôn phía trước, tổng là 76.134.000đồng. Vợ chồng
ông K và vợ chồng ông Đ sẽ tự thỏa thuận phân chia số tiền trên, không yêu cầu
Tòa án phân chia.
8
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật, người được thi hành án đơn yêu
cầu thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều
357, 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
2. Về chi phí tố tụng: Buộc anh Nguyễn Văn L, chị Nguyễn Thị H phải trả
cho vợ chồng ông Nguyễn Xuân K, vợ chồng ông Nguyễn Văn Đ số tiền
8.000.000 đồng tiền xem xét, thẩm định và định giá tài sản.
3. Ván phí: Bị đơn anh Nguyễn Văn L, chị Nguyễn Thị H phải chịu
3.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
3.1. Miễn án phí dân ssơ thẩm cho ông Nguyễn Xuân K, bà Phạm Thị X.
3.2. Buộc ông Nguyễn Văn Đ bà Phạm Thị P phải chịu 451.510 đồng án
phí dân sự thẩm, được đối trừ vào stiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng) ông Đ đã nộp theo Biên lai thu ký hiệu: BLTU/23 số: 0001559
ngày 14 tháng 12 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Miện,
tỉnh Hải Dương. Ông Đ, bà P còn phải nộp số tiền còn lại là 141.510 đồng.
3.3. Anh Nguyễn Văn L không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn
trả anh L 300.000đồng đã nộp tạm ứng án ptheo Biên lai thu tiền tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số 0001772 ngày 24/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
4. Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Trường hp bản án được thi hành theo Điu 2 Luật Thi hành án dân sự thì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án n sự; thời hiệu
yêu cầu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
Nơi nhn:
- VKSND tnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- TAND huyn Thanh Min;
- Chi cc THADS huyn Thanh Min;
- Lưu: HS, THS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN - CH TO PHIÊN T
Trn Hu Hiu
Tải về
Bản án số 99/2024/DS-PT Bản án số 99/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 99/2024/DS-PT Bản án số 99/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất