Bản án số 112/2024/DS-PT ngày 11/11/2024 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 112/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 112/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 112/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 112/2024/DS-PT ngày 11/11/2024 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Gia Lai |
Số hiệu: | 112/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Đinh Thị H kiện ông Lương Thế T và bà Lê Thị H1 về hợp đồng đặt cọc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH GIA LAI
Bản án số: 112/2024/DS-PT
Ngày 11/11/2024
“V/v tranh chấp
hợp đồng đặt cọc”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Lưu Anh Tuấn.
Các Thẩm phán: 1. Bà Đinh Thị Như Phượng.
2. Ông Trần Văn Thưởng;
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Vân – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai: Bà Hoàng Hải Ly-
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong ngày 11/11/2024, tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm
công khai vụ án thụ lý số 111/2024/TLPT-DS ngày 21 tháng 10 năm 2024 về
“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2024/DS-ST ngày 06/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện KBang, tỉnh Gia Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số142/2024/QĐ-PT ngày 30/10/2024, giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Đinh Thị H; địa chỉ: Thôn D, xã S, huyện K, tỉnh Gia
Lai.
Người đại diện theo uỷ quyền: ông Nguyễn Thành P. Địa chỉ: Thôn A, xã P,
huyện Đ, tỉnh Gia Lai (Theo Hợp đồng uỷ quyền được chứng thực tại Ủy ban nhân
dân xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai ngày 14/7/2023)(Ông P có mặt).
2. Bị đơn: Ông Lương Thế T và bà Lê Thị H1; cùng địa chỉ: Thôn C, xã S,
huyện K, tỉnh Gia Lai.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị H1 là ông Lương Thế T; địa
chỉ: Thôn C, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai (Theo Giấy uỷ quyền được chứng thực tại
Ủy ban nhân dân xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai ngày 23/5/2024)(Ông T có mặt).
3. Người làm chứng:
3.1. Ông Trần Trung M; địa chỉ: Tổ dân phố F, phường T, thị xã S, thành
phố Hà Nội.
2
3.2. Anh Võ Hoàng V; địa chỉ: Tổ dân phố I, thị trấn K, huyện K, tỉnh Gia
Lai.
(Ông M, ông V vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Bị đơn ông Lương Thế T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Đinh Thị H là ông Nguyễn
Thành P trình bày:
Ngày 20 tháng 6 năm 2022, bà H có thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng diện tích 6.357m
2
đất trồng cây lâu năm của vợ chồng ông T,bà H1. Tại
thời điểm nhận chuyển nhượng đất của ông T, bà H1 thì thửa đất chưa được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GNCQSDĐ) nhưng đã có sơ đồ
trích lục thửa đất, địa chỉ thửa đất tại thôn C, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai, trên đất
đang trồng cây cà phê. Hai bên thống nhất thỏa thuận giá chuyển nhượng là
590.000.000 đồng (năm trăm chín mươi triệu đồng), bên bán làm thủ tục giấy tờ
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thời gian là 40 ngày. Bên mua đặt cọc
100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Sau khi nhận tiền đặt cọc xong ông T, bà
H1 đã lập Biên bản “V/v sang nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên
đất’’ đề ngày 20/6/2022, nội dung nhận tiền đặt cọc và thỏa thuận sau khi xác lập
hồ sơ, giao cho Cơ quan chức năng để chuyển quyền sử dụng đất, bên mua thanh
toán số tiền 450.000.000 đồng (bốn trăm năm mươi triệu đồng) cho bên bán.
Khi thực hiện giao dịch, giữa hai bên có xác lập hợp đồng và tự nguyện thoả
thuận thời hạn thực hiện hợp đồng đối với cả hai bên là 40 (bốn mươi) ngày, tuy
nhiên ông P (người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn) xin thay đổi lại về thời
hạn thực hiện hợp đồng để cho bị đơn làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng
đất là 90 (chín mươi) ngày. Trong thời gian này nếu bên A (bên bán) không thực
hiện đúng như thoả thuận sẽ phải bồi thường 200% số tiền đã đặt cọc và phải bồi
thường các thiệt hại trực tiếp, gián tiếp gây ra cho bên B (bên mua). Khi ông T, bà
H1 nhận tiền đặt cọc thì đã giao diện tích đất trên cho bà H sử dụng (hai bên không
lập giấy tờ về việc giao đất), bà H tiếp tục đầu tư phân bón, tưới tiêu, chăm sóc cho
cây cà phê; đến khoảng tháng 12/2022 âm lịch thì thu hoạch và bán cho anh Võ
Hoàng V được hơn 40.000.000 đồng. Sau khi thu hoạch cà phê xong do ông T, bà
H1 vi phạm về thời hạn thực hiện hợp đồng nên bà H đã trả lại quyền sử dụng diện
tích đất này; khi có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông T, bà H1 yêu cầu tiếp
tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên nhưng bà H không
đồng ý vì bà không có nhu cầu nhận chuyển nhượng nữa.
Do ông T, bà H1 đã vi phạm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
nên bà H đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Tuyên bố V/v sang nhượng đất
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất ngày 20/6/2022 vô hiệu; buộc ông T,
bà H1 hoàn trả lại số tiền đã đặt cọc là 100.000.000 đồng, đồng thời buộc ông T,
bà H1 phải trả số tiền phạt cọc là 100.000.000 đồng. Tổng cộng, số tiền ông T, bà
H1 phải trả cho bà H là 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).
3
Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn xin được rút một phần yêu cầu khởi kiện, theo đó không yêu cầu tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20/6/2022 vô hiệu mà yêu cầu bị đơn
phải trả số tiền cọc 100.000.000 đồng và phạt cọc là 100.000.000 đồng.
Đối với số tiền hoa màu thu được từ việc bán quả cà phê năm 2022 mà bà H
thu hoạch được 44.138.100 đồng. Tại phiên hòa giải ngày 14/8/2024 ông P và ông
T đã thỏa thuận bà H sẽ trả cho ông T, bà H1 30.000.000 đồng tiền bán quả cà phê
năm 2022 và bà H được nhận số tiền 14.138.100 đồng bao gồm tiền phân bón, tiền
công chăm sóc và thu hoạch. Tại phiên tòa ông P vẫn giữ nguyên thỏa thuận tại
phiên hòa giải ngày 14/8/2024.
2. Bị đơn ông Lương Thế T trình bày:
Vào khoảng tháng 4/2022, ông Trần Trung D (tên gọi khác là M1) cùng với
bà H là người môi giới trực tiếp gặp vợ chồng ông, bà để thoả thuận việc chuyển
nhượng diện tích 6.357 m
2
đất trồng cây lâu năm, tại thời điểm nhận chuyển
nhượng đất của ông, bà chưa được cấp GNCQSDĐ nhưng đã có sơ đồ trích lục
thửa đất, địa chỉ thửa đất tại thôn C, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai, trên đất đang
trồng cây cà phê. Hai bên thống nhất thỏa thuận giá chuyển nhượng là 590.000.000
đồng, bên bán làm thủ tục giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thời hạn
là 90 ngày, bên mua đã đặt cọc 100.000.000 đồng. Sau đó hai bên đã lập biên bản:
V/v sang nhượng đất quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất ngày 20/6/2022
có nội dung nhận tiền đặt cọc và sau khi xác lập hồ sơ, giao cho Cơ quan chức
năng để chuyển quyền sử dụng, bên mua thanh toán số tiền 450.000.000 đồng cho
bên bán. Bà H chỉ là người đứng ra đại diện cho ông D ký biên bản sang nhượng
quyền sử dụng đất ngày 20/6/2022 với ông, bà. Cùng thời điểm đó ông, bà cũng
giao diện tích đất đã thỏa thuận cho bà H sử dụng. Mặc dù, thời hạn thực hiện hợp
đồng là 90 ngày, bên bán (ông T, bà H1) phải làm xong thủ tục sang nhượng quyền
sử dụng cho bên mua, nhưng vì lý do khách quan là thủ tục hành chính về việc cấp
GNCQSDĐ tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bị chậm trễ chứ ông, bà đã
tuân thủ ngay việc chuyển nhượng từ khi thực hiện hợp đồng, đây không phải là lỗi
chủ quan của ông, bà. Trong thời gian gần 01 năm khi thực hiện giao dịch thì bà H
không có ý kiến gì về việc chưa làm xong thủ tục sang nhượng và cũng vẫn sử
dụng đất của gia đình, chăm sóc và thu hoạch toàn bộ quả cà phê (700 cây cà phê
thu được 12 tấn cà phê tươi) có trên đất bán lấy tiền. Lẽ ra bà H không có nhu cầu
nhận chuyển nhượng đất nữa thì phải thông báo ngay cho ông, bà vào thời điểm
hết 90 ngày kể từ ngày 20/6/2022 và giao trả lại đất để ông, bà sử dụng, chăm sóc
tài sản trên đất để thu hoạch. Nhưng bà H vẫn tiếp tục sử dụng đất nên ông, bà vẫn
hiểu là giao dịch đang được tiếp tục thực hiện. Vì lý do giá đất hạ bà H không
muốn nhận chuyển nhượng nữa nên lấy lý do là ông, bà chậm sang nhượng vi
phạm hợp đồng để không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng. Đến cuối năm 2022
âm lịch, sau khi bà H thu hoạch cà phê và bán cho anh Võ Hoàng V, thu được tổng
số tiền là 44.138.100 đồng. Toà án đã tiến hành lấy lời khai của anh Võ Hoàng V
để xác minh nội dung này. Hiện nay, ông bà cũng nhận lại tài sản là quyền sử dụng
diện tích đất đã thỏa thuận nhưng ông, bà không đồng ý trả lại tiền cọc đã nhận là
4
100.000.000 đồng và tiền phạt cọc là 100.000.000 đồng vì tính đến thời điểm này
ông, bà đã làm xong thủ tục cấp GNCQSDĐ nên ông bà sẽ tiếp tục chuyển nhượng
diện tích đất đã thỏa thuận cho bên mua. Ông, bà chỉ đồng ý trả lại tiền cọc cho bà
H khi bà H trả lại tiền đã thu cà phê và bồi thường những thiệt hại cho cây cà phê
do không được chăm sóc bón phân dẫn đến bị suy kiệt, một số cây bị chết làm
giảm sản lượng năm sau. Khi ông, bà nhận lại diện tích đất từ bà H hai bên cũng
không lập biên bản gì.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2024/DS-ST ngày 06/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện KBang, tỉnh Gia Lai đã quyết định:
Xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị H.
Buộc ông Lương Thế T và bà Lê Thị H1 phải liên đới trả cho bà Đinh Thị H
toàn bộ số tiền đặt cọc là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) và số tiền phạt
cọc là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Tổng cộng 200.000.000 đồng (hai
trăm triệu đồng)
Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận về yêu cầu phản tố của bị đơn về việc: Bà
Đinh Thị H phải trả cho ông Lương Thế T, bà Lê Thị H1 số tiền 30.000.000 đồng
(ba mươi triệu đồng) tiền hoa lợi, lợi tức thu được từ việc sử dụng đất của ông T,
bà H1.
Như vậy, sau khi khấu trừ nghĩa vụ ông Lương Thế T và bà Lê Thị H1 phải
liên đới trả cho bà Đinh Thị H số tiền 170.000.000 đồng (một trăm bảy mươi
đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ
thẩm,thông báo quyền yêu cầu, tự nguyện hoặc bị cưỡng chế thi hành án và thời
hiệu thi hành án; tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 18/9/2024, bị đơn ông T kháng cáo với nội dung: Yêu cầu sửa bản án
số 21/2024/DS-ST ngày 06/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện KBang, tỉnh Gia
Lai, bị đơn ông T không đồng ý với quyết định buộc phạt cọc 100.000.000 đồng,
đồng ý trả lại 100.000.000 đồng tiền đặt cọc, nhưng phải khấu trừ số tiền thu được
từ việc bán quả cà phê.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Phía nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
- Bị đơn không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và giữ
kháng cáo.
- Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Tòa cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy
định của pháp luật. Các đương sự cũng được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ của mình.
5
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Lương
Thế T, sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng buộc ông Lương Thế T, bà Lê Thị
H1 phải trả cho bà Đinh Thị H tiền cọc 100.000.000 đồng nhưng được khấu trừ
30.000.000 đồng từ việc thu tiền hoa lợi, lợi tức trên đất và không chấp nhận phạt
cọc 100.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông Lương Thế T ngày 18/9/2024 trong hạn
luật định và đúng trình tự thủ tục mà Bộ luật tố tụng dân sự quy định nên Hội đồng
xét xử chấp nhận xem xét lại bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Các bên thực hiện việc đặt cọc vào ngày 20/6/2022 mục đích để thực
hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng cấp sơ thẩm xác định quan hệ
tranh chấp “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất về đặt cọc và
phạt cọc”là chưa phù hợp, cần xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh
chấp hợp đồng đặt cọc” cho phù hợp với qui định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật
tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của bị đơn, thấy rằng:
[2.1] Ngày 20/6/2022 vợ chồng ông Lương Thế T, bà Lê Thị H1 và bà Đinh
Thị H cùng thỏa thuận ký “biên bản v/v sang nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền trên đất”. Theo đó, các bên thỏa thuận ông T, bà H1 sẽ chuyển nhượng
cho bà H phần đất có diện tích 6.357m
2
tại thôn C, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai với
giá 590.000.000 đồng, thỏa thuận đặt cọc trước số tiền 100.000.000 đồng. Tại thời
điểm đặt cọc thì đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chỉ có trích
lục thửa đất. Ông T, bà H1 có trách nhiệm làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
xong thì sang tên cho bà H, thời hạn hợp đồng là 90 ngày. Trường hợp không làm
được sổ đỏ thì trả lại tiền cọc, thỏa thuận phạt cọc 200%. Như vậy, bản chất của
hợp đồng ngày 20/6/2022 là hợp đồng đặt cọc theo quy định tại Điều 328 của Bộ
luật dân sự 2015, không phải hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Việc
đặt cọc tiền trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên.
[2.2] Chứng cứ tại hồ sơ thể hiện, sau khi ký hợp đồng đặt cọc vào 20/6/2022,
ông T, bà H1 đã tiến hành nộp hồ sơ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất vào ngày 16/8/2022 tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện K, tỉnh Gia
Lai. Thủ tục, trình tự cấp đất được cơ quan này thực hiện và đến ngày 01/6/2023
ông T, bà H1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DĐ 050231 với
diện tích 6.357m
2
tại thôn C, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai, sơ đồ thửa đất thể hiện
có con đường đi rộng 4m.
Tại điểm a khoản 2 Điều 61 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ và khoản 40 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của
Chính phủ, quy định “Thời gian thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền
với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận được quy định như sau: a) Đăng ký đất
6
đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là không quá 30 ngày”. Theo quy định
này thì đến ngày 18/9/2022 ông T, bà H1 sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thế nhưng đến ngày 01/6/2023 họ mới được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số DĐ 050231. Do vậy, hết thời hạn đặt cọc 90 ngày (tức ngày
18/9/2022) ông T, bà H1 không thể ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho bà H vì tại thời điểm này bị đơn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; việc ông T, bà H1 không thực hiện đúng cam kết với bà H là do Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện K chậm trễ trong việc tiến hành thủ tục để
cấp quyền sử dụng đất cho ông T, bà H1. Đồng thời, sau khi các bên đương sự ký
hợp đồng đặt cọc, bà H đã nhận đất và tài sản trên đất để khai thác hoa lợi, lợi
tứccho đến khi hết thời hạn 90 ngày kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc nhưngbà
không có ý kiến gì vềhợp đồng đặt cọc mà vẫntiếp tục sinh sống, canh tác, thu
hoạch quả cà phê trên thửa đấtcho đến tháng 12/2022 âm lịch.Sau khi ông T, bà H1
được cấp quyền sử dụng đấtthì họ vẫn có thiện chí chuyển nhượng thửa đất này
cho nguyên đơn. Theo nội dung Án lệ số 25/2018/AL trường hợp này, phải xác
định việc bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do khách quan và
bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt cọc.
[2.3]Trong quá trình tham gia tố tụng, các đương sự đã thống nhất bà H thu
hoạch quả cà phê bán được 44.138.100 đồng. Người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn và ông Lương Thế T đã tự nguyện thỏa thuận, bà H được hưởng
14.138.100 đồng chi phí công chăm sóc, phân bón và thu hoạch quả cà phê; số tiền
còn lại 30.000.000 đồng bà H đồng ý trả lại cho ông T, bà H1. Vì vậy, số tiền thỏa
thuận này được khấu trừ vào số tiền đặt cọc mà bị đơn còn phải trả cho nguyên
đơn.
[3] Từ những nhận định và phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một
phần kháng cáo của bị đơn, sửa bản án dân sự sơ thẩm.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Do sửa bản án dân sự sơ thẩm
nên cần sửa lại án phí dân sự sơ thẩm cho phù hợp.
Bị đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Án lệ số 25/2018/AL
Áp dụng Điều 27 và Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-
2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
7
1. Chấp nhận một phần kháng của ông Lương Thế T; SửaBản án sơ thẩm số
21/2024/DS-ST ngày 06/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện KBang, tỉnh Gia Lai,
cụ thể như sau:
1.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị H.
Buộc ông Lương Thế T và bà Lê Thị H1 phải liên đới trả cho bà Đinh Thị H
toàn bộ số tiền đặt cọc là 100.000.000đồng (một trăm triệu đồng).
1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị H về
việc buộc ông Lương Thế T và bà Lê Thị H1 phải chịu số tiền phạt cọc là
100.000.000đồng (một trăm triệu đồng).
1.3. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận về yêu cầu phản tố của bị đơn về việc
bà Đinh Thị H phải trả cho ông Lương Thế T, bà Lê Thị H2 tiền 30.000.000 đồng
(ba mươi triệu đồng) tiền hoa lợi, lợi tức thu được từ việc sử dụng đất của ông T,
bà H1.
Như vậy, sau khi khấu trừ nghĩa vụ, ông Lương Thế T và bà Lê Thị H3 liên
đới trả cho bà Đinh Thị H 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả quy
định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.
1.4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc ông Lương Thế T và bà Lê Thị H1 phải liên đới chịu 3.500.000 đồng
(ba triệu, năm trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số
tiền 1.103.450 đồng (một triệu, một trăm lẻ ba nghìn, bốn trăm năm mươi đồng)
theo biên lai thu tiền tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0002292 ngày 08/08/2024 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. Ông Lương Thế T, bà Lê
Thị H1 còn phải nộp số tiền 2.396.550 (hai triệu ba trăm chín mươi sáu ngàn năm
trăm năm mươi đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Đinh Thị H phải chịu 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) tiền án phí dân sự
sơ thẩm;được khấu trừ vào số tiền 5.000.000đồng (năm triệu đồng) theo biên lai
thu tiền tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0003904 ngày 19/6/2023 của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. Bà H đã nộp đủ án phí.
2. Về án phí phúc thẩm: Bị đơn ông Lương Thế T không phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm. Ông Lương Thế T được nhận lại số tiền 300.000 đồng (ba trăm
nghìn đồng) án phí đã nộp theo biên lai số 0002326, ngày 18/9/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện KBang, tỉnh Gia Lai.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 của Luật
8
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
của Luật Thi hành án dân sự.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Gia Lai;
- TAND huyện KBang, tỉnh Gia Lai;
- Chi cục THADS huyện KBang, tỉnh Gia
Lai;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, Tòa Dân sự, Văn thư.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lưu Anh Tuấn
9
Tải về
Bản án số 112/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 112/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 08/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 03/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm