Bản án số 80/2024/DS-ST ngày 16/12/2024 của TAND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang về tranh chấp hợp đồng hợp tác
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 80/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 80/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 80/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 80/2024/DS-ST ngày 16/12/2024 của TAND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang về tranh chấp hợp đồng hợp tác |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng hợp tác |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Việt Yên (TAND tỉnh Bắc Giang) |
Số hiệu: | 80/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Thân Vĩnh Q khởi kiện tranh chấp hợp đồng hợp tác với công ty TNHH thực phậm Anh T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ VIỆT YÊN
TỈNH BẮC GIANG
Bản án số: 80/2023/DS-ST
Ngày 16-12-2024
“V/v tranh chấp hợp đồng hợp tác”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Hữu Luyện
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Thu Hằng;
Ông Giáp Huy Tưởng
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Ngọc Mai – Thư ký Tòa án
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang tham gia
phiên toà: ông Ong Văn Chúc - Kiểm sát viên.
Ngày 16/12/2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Việt Yên, tỉnh
Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 92/2024/TLST- DS ngày
17/7/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2024/QĐXX-ST ngày
13/11/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 108/2024/QĐST-DS ngày
29/11/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Thân Vĩnh Q, sinh năm 1984; địa chỉ: TDP N, phường H,
thị xã V, tỉnh Bắc Giang; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Lâm Văn Q1 – Công ty L –
Đoàn Luật sư Thành phố H; địa chỉ: Số A, V, phường Y, quận C, thành phố Hà
Nội; có mặt.
Bị đơn: Công ty TNHH C2 - Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Đức
V – Giám đốc; địa chỉ: Khu A, thôn T, xã V, thị xã V, tỉnh Bắc Giang; vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Lê Thị Lan O, sinh năm 1984; có đơn xin vắng mặt.
2. Chị Thân Thị Thúy H, sinh năm 1973; có đơn xin vắng mặt.
3. Anh Thân Văn T, sinh năm 1973; có đơn xin vắng mặt.
Cùng địa chỉ: TDP N, phường H, thị xã V, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Tại đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa
nguyên đơn là anh Thân Vĩnh Q trình bày:
Ngày 26 tháng 11 năm 2021 giữa anh và Công ty TNHH C2 đã ký kết Hợp
đồng góp vốn số: HĐGV-26/11/2021 và Phụ lục hợp đồng số 01, có nội dung: Hai
bên cùng nhau góp vốn với tổng số tiền góp vốn của hai bên là: 10.000.000.000đ
(Mười tỷ đồng) để mở rộng quy mô sản xuất và kinh doanh mặt hàng Phở sạch,
Bánh đa nem truyền thống. Số tiền góp trên hai bên đồng ý sử dụng vào mục đích:
Thuê 1.800 m
2
đất của nhà nước; đặt mua dây chuyền bánh đa nem tráng liên
hoàn, hệ thống sấy bánh đa nem.
Thực hiện Hợp đồng góp vốn số: HĐGV-26/11/2021 và Phụ lục hợp đồng số
01 nêu trên anh đã góp vốn đủ 5.000.000.000đ (Năm tỷ đồng) cho Công ty TNHH
C2 theo đúng thỏa thuận của hai bên, cụ thể như sau: anh chuyển khoản
3.800.000.000 đồng từ tài khoản tại V1 của anh đến tài khoản của Công ty C2 tại
V2, tiền mặt 200.000.000 đồng anh đưa cho bà Nguyễn Thị T1 là vợ ông V cầm
(khi đưa tiền cho bà T1 ông Nguyễn Đức V có mặt và chứng kiến; số tiền
1.000.000.000 đồng còn lại anh nhờ chị gái anh là Thân Thị Thúy H, sinh năm
1973, địa chỉ: tổ dân phố N, phường H, thị xã V, tỉnh Bắc Giang chuyển khoản hộ
anh vào tài khoản của công ty C2. Sau khi anh chuyển khoản xong, ông V – Giám
đốc công ty đều ký nhận tiền vào phiếu nhận tiền cho anh vào các ngày: ngày
14/01/2021 số tiền 1.500.000.000 (Một tỷ năm trăm triệu đồng) tiền vốn góp cho
Công ty TNHH C2 có Phiếu nhận tiền ngày 14/01/2021; ngày 02/12/2021 số tiền
1.000.000.000 (Một tỷ đồng) cho Công ty TNHH C2 có Phiếu nhận tiền ngày
02/12/2021; ngày 23/12/2021 số tiền 1.500.000.000 (Một tỷ năm trăm triệu đồng)
cho Công ty TNHH C2 có Phiếu nhận tiền ngày 23/12/2021; ngày 28/12/2021 số
tiền 1.000.000.000 ( Một tỷ đồng) cho Công ty TNHH C2 có Phiếu nhận tiền ngày
28/12/2021. Như vậy, từ ngày 14/01/2021 đến ngày 28/12/2021, anh đã thực hiện
góp vốn đủ 5.000.000.000đ (Năm tỷ đồng) cho Công ty TNHH C2 theo Hợp đồng
góp vốn số: HĐGV-26-11-2021 và Phụ lục hợp đồng số 01. Anh xác định tiền góp
vốn vào công ty C2 là tiền của chung gia đình anh, vợ anh là Lê Thị Lan O ban đầu
vợ anh không đồng ý để anh góp vốn vào công ty, tuy nhiên do anh quyết tâm làm
nên vợ anh cũng đồng ý.
Số tiền 1.000.000.000 đồng anh nhờ chị gái anh là chị H chuyển cho công ty
C2 là tiền anh vay của chị H, không phải là tiền chị H góp vốn kinh doanh cùng
anh. Việc vay tiền giữa anh và chị H không có giấy tờ gì.
Anh xác định ông Thân Văn T, sinh năm 1973, địa chỉ: TDP N, phường H, thị
xã V, tỉnh Bắc Giang không tham gia góp vốn vào Công ty C2 cùng với anh, việc
góp vốn này chỉ có 1 mình anh thực hiện.
Sau khi anh góp vốn xong phía Công ty TNHH C2 đã vi phạm Hợp đồng
góp vốn, cụ thể như sau:
3
- Công ty TNHH C2 đã không thực hiện nghĩa vụ góp 5.000.000.000đ (Năm
tỷ đồng) để cùng anh đầu tư kinh doanh theo thỏa thuận của hai bên tại Phụ lục hợp
đồng số 01.
- Từ khi Công ty TNHH C2 nhận đủ 5.000.000.000đ (Năm tỷ đồng) của anh
nhưng không thực hiện nghĩa vụ thông báo cho anh về tiến độ công việc và cùng
anh thống nhất việc đầu tư xây dựng, khai thác tài sản góp vốn là vi phạm quy định
tại Điểm 5.2, Điều 5 Hợp đồng góp vốn số: HĐGV-26/11/2021: “Hai bên phải
thông báo cho nhau và cùng thống nhất về việc đầu tư, xây dựng, khai thác tài sản
vốn góp”; vi phạm nghĩa vụ “Các bên có trách nhiệm thông tin kịp thời cho nhau
tiến độ thực hiện công việc..”
Nhiều lần anh đến làm việc trực tiếp với ông Nguyễn Đức V - Giám đốc
công ty C2 để yêu cầu cung cấp thông tin về việc sử dụng vốn góp có đúng mục
đích không, nhưng ông Nguyễn Đức V từ chối cung cấp thông tin cho anh về việc
sử dụng tiền góp vốn của anh và cho rằng Hợp đồng góp vốn số: HĐGV-
26/11/2021 và Phụ lục hợp đồng số 01 quy định anh có nghĩa vụ góp vốn
5.000.000.000đ (Năm tỷ đồng) là có sự nhầm lẫn nên ông Nguyễn Đức V yêu cầu
anh phải góp vốn thêm 5 tỷ đồng cho đủ mỗi bên góp vốn 10.000.000.000đ (Mười
tỷ đồng). Như vậy, Công ty TNHH C2 đã vi phạm Hợp đồng góp vốn số: HĐGV-
26/11/2021 dẫn đến mục đích của giao kết hợp đồng không đạt được.
Việc Công ty TNHH C2 đã vi phạm hợp đồng lại chiếm giữ 5.000.000.000đ
(Năm tỷ đồng) góp vốn của anh, gây thiệt hại cho anh về lợi ích gắn liền với việc
sử dụng, khai thác tài sản (thiệt hại do mất là lãi gửi ngân hàng trên số tiền này), cụ
thể như sau:
- Công ty TNHH C2 chiếm giữ 1.500.000.000 ( Một tỷ năm trăm triệu
đồng) của anh từ ngày 14/01/2021 theo Phiếu nhận tiền ngày 14/01/2021, tạm tính
từ ngày 14/01/2021 đến 01/07/2024 là 1.264 ngày x tiền lãi gửi ngân hàng 4%/năm
= 210.000.000đ;
- Công ty TNHH C2 chiếm giữ 1.000.000.000 ( Một tỷ đồng) của anh từ
ngày 02/12/2021 theo Phiếu nhận tiền ngày 02/12/2021, tạm tính đến 01/07/2024
là 942 ngày x tiền lãi gửi ngân hàng 4%/năm = 103.000.000đ;
- Công ty TNHH C2 chiếm giữ 1.500.000.000 ( Một tỷ năm trăm triệu đồng)
của anh từ ngày 23/12/2021 theo Phiếu nhận tiền ngày 23/12/2021, tạm tính đến
ngày đến 01/07/2024 là 921 ngày x tiền lãi gửi ngân hàng D = 150.000.000 đồng;
- Công ty TNHH C2 chiếm giữ 1.000.000.000 (Một tỷ đồng) của anh từ ngày
28/12/2021 theo Phiếu nhận tiền ngày 28/12/2021, tạm tính đến ngày đến
01/07/2024 là 916 ngày x tiền lãi gửi ngân hàng 4%/năm =100.000.000 đồng.
Tổng số tiền thiệt hại như trình bày nêu trên là: 563.000.000 đ (Năm trăm sáu
mươi ba triệu đồng đồng).
Đến nay anh yêu cầu tòa án giải quyết: Tuyên hủy Hợp đồng góp vốn số:
HĐGV-26/11/2021 và Phụ lục hợp đồng số 01 được ký kết giữa anh và tôi và
4
Công ty TNHH C2 ngày 26/11/2021; buộc Công ty TNHH C2 phải trả lại cho anh
số tiền góp vốn 5.000.000.000đ (Năm tỷ đồng); Buộc Công ty TNHH C2 phải bồi
thường thiệt hại cho tôi số tiền: 563.000.000 đ (Năm trăm sáu mươi ba triệu đồng
đồng).
Tại phiên toà: anh Thân Vĩnh Q rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu
cầu: Buộc Công ty TNHH C2 phải bồi thường thiệt hại số tiền: 563.000.000đ.
Lời trình bày của bị đơn thể hiện: Trong quá trình giải quyết vụ án Công ty
TNHH C2 (viết tắt là Công ty C2) do ông Nguyễn Đức V đại diện theo pháp luật
không có văn bản trình bày ý kiến, tuy nhiên theo đơn trình bày ngày 09/11/2024
và Đơn trình bày ý kiến và yêu cầu ngày 26 tháng 11 năm 2024 của Công ty C2 do
bà Nguyễn Thị T1 là Phó giám đốc ký; Văn bản trình bày ý kiến của Công ty C2
(Bút lục 345 đến 351) và các tài liệu kèm theo đơn trình bày thể hiện: Năm 2021,
Công ty TNHH C2 có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất nên đã kêu gọi góp vốn.
Theo đó, ông Thân Văn T đã làm việc, trao đổi với Công ty TNHH C2 về nguyện
vọng được góp vốn vào Dự án này. Tại các buổi trao đổi, thảo luận, ban lãnh đạo
Công ty C2 đã giới thiệu cụ thể, chi tiết về “Dự án” mở rộng quy mô sản suất và
kinh doanh mặt hàng mỳ, phở sạch, bánh đa nem truyền thống của cụm làng nghề
T của công ty C2. Tổng vốn để đầu tư xây dựng và vận hành Dự án khoảng từ 22
tỷ đồng, trong đó, chi phí đầu tư xây dựng Dự án dự kiến khoảng 14 tỷ đồng. Chi
phí vận hành sản xuất (nhân công trực tiếp; nhân công gián tiếp; nguyên liệu…)
khoảng 8 tỷ đồng. Việc góp vốn thực hiện Dự án là trách nhiệm của ông T, Công
ty C2 là bên nhận góp vốn có trách nhiệm triển khai công việc. Số tiền góp vốn do
ông T góp sẽ được sử dụng vào việc thuê đất diện tích 1800m
2
; thuê đơn vị thiết kế
và xây dựng nhà xưởng; mua dây chuyền máy bánh đa nem liên hoàn, hệ thống sấy
bánh đa nem; di dời trạm điện cũ hoặc lắp thêm thiết bị cần thiết trong quá trình thi
công; lắp đặt hệ thống báo động, an ninh, phòng cháy chữa cháy của nhà xưởng,
thiết kế mô hình và giải pháp xử lý chất thải trong quá trình sản xuất…chi phí cho
việc vận hành Dự án. Việc chia lợi nhuận sẽ được tính trên cơ sở tỷ lệ vốn góp.
Sau khi được tìm hiểu và được thông tin đầy đủ về Dự án nêu trên thì ông
Thân Văn T đã đồng ý góp vốn để thực hiện Dự án cùng công ty C2.
Khi trao đổi về nội dung Hợp đồng góp vốn, ngoài các nội dung cơ bản trên
thì hai bên cũng đã thống nhất một số nội dung khác. Cụ thể: Bên nhận góp vốn
chịu trách nhiệm đứng ra thuê thi công thiết kế, xây dựng Dự án, Bên góp vốn
thực hiện trách nhiệm cùng đồng hành giám sát. Bên góp vốn được quyền đơn
phương chấm dứt việc thực hiện Hợp đồng trong trường hợp bên nhận góp vốn
(Công ty C2) không thực hiện công việc theo đúng thỏa thuận và thời hạn. Bên
nhận góp vốn (Công ty C2) được quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng trong
trường hợp bên góp vốn (ông T) không góp đủ vốn theo thỏa thuận.
Tuy nhiên, vì ông Thân Văn T hiện đang giữ chức vụ Phó chủ tịch UBND
thị xã V nên không thể trực tiếp đứng tên trên Hợp đồng góp vốn vào Công ty C2.
5
Theo đó, ông T đã đưa ông Thân Vĩnh Q đến gặp đại diện của Công ty C2 để thay
mặt ông T đứng tên trên Hợp đồng góp vốn với tư cách là người góp vốn.
Ngày 26/11/2021, hai bên gồm, đại diện Công ty C2 là ông Nguyễn Đức V
và ông Thân Vĩnh Q, có sự chứng kiến của ông Thân Văn T cùng nhau ký kết
Hợp đồng góp vốn số HĐGV-26/11/2021 và Phụ lục số 01 số:…../2021/HĐGV.
Sau khi Hợp đồng góp vốn được ký kết thì hai bên đều triển khai công việc theo
thỏa thuận.
Tuy nhiên, trong đơn khởi kiện, ông Thân Vĩnh Q cho rằng ông đã góp đủ số
vốn góp theo Hợp đồng góp vốn đã ký kết là việc cố tình hiểu sai, cố tình thực
hiện không đúng thỏa thuận ban đầu cũng như quy định trong Hợp đồng góp vốn
số HĐGV-26/11/2021 và Phụ lục số 01 số:…../2021/HĐGV. Bởi lẽ:
Tổng số vốn đầu tư và xây dựng Dự án đã được ông T và Công ty C2 thống
nhất khoảng 22 tỷ đồng, trong đó xây dựng Dự án khoảng 14 tỷ đồng và 8 tỷ đồng
tiền để vận hành sản xuất.
Theo đó, tại mục A1, phần A - Phụ lục Hợp đồng số 01 của Hợp đồng góp
vốn số HĐGV-26/11/2021, có ghi nội dung bằng chữ viết tay: “Hai bên cùng
nhau góp với tổng số vốn góp của hai bên là: 10.000.000.000 đồng, bằng chữ
mười tỷ đồng chẵn”, và theo luật doan nghiệp thì phải trong vòng 90 ngày phải
góp đủ theo như phụ lục hợp đồng đã ký kết nhưng mới góp được 5.000.0000đ thì
anh Q, ông T đã xuống Công ty đòi rút tiền, khởi kiện đến Tòa án đòi hủy hợp
đồng, đòi tiền làm ảnh hưởng đến uy tín Công ty, chậm tiến độ thi công công
trình.
Về quá trình triển khai Dự án của bên nhận góp vốn (Công ty C2).
Sau khi hai bên nhất trí kế hoạch triển khai Dự án và nhận được tiền góp vốn
từ bên góp vốn, Bên nhận góp vốn - Công ty C2 đã trực tiếp ký kết các Hợp đồng
sau:
Ngày 27/12/2021: Ký kết Hợp đồng thuê 1800m
2
đất làm mặt bằng Dự án
với giá trị là 1.950.000.000 đồng. Ngày 27/12/2021, Công ty C2 đã ký kết hợp
đồng thi công nhà máy chế biến thực phẩm với Công ty TNHH X1, giá trị Hợp
đồng tạm tính là 2.188.488.000 đồng. Công ty C2 đã tạm ứng thanh toán cho
Công ty X1 500.000.000 đồng; ngày 27/12/2021, Công ty A Hợp đồng khoán thi
công các hạng mục như xúc đất, đào móng, lát nền sơ bộ, lắp đặt hệ thống cửa…
với tổng giá trị tạm tính là 1.311.190.000 đồng. Thực hiện hạng mục này, đến thời
điểm ngày 28/6/2022, Công ty C2 đã thanh toán được 830.530.000 đồng; ngày
01/03/2022, Công ty C2 và Công ty T5 đã ký kết Hợp đồng số 02 HĐKT về việc
mua máy chế biến thực phẩm gồm 01 máy tráng bánh tráng và 01 máy sấy sơ bộ,
kiểu sấy treo với giá trị Hợp đồng là 5.400.000.000 đồng. Thực tế khi triển khai
thực hiện Hợp đồng này, Công ty T5 đã thực hiện được 50% giá trị Hợp đồng lý
do vì Dự án chưa hoàn thiện nên chưa thể lắp được máy. Công ty C2 đã thanh
toán cho Công ty T5 đủ 5.400.000.000 đồng. Như vậy, tổng tiền thực tế mà Công
6
ty C2 đã thanh toán, tạm ứng cho các Nhà thầu thi công Dự án là: 8.680.530.000
đồng.
Các hạng mục công việc thực hiện là công việc đã được hình thành cụ thể, rõ
ràng được các bên ký kết thực hiện bằng Hợp đồng và thực tế đã đang triển khai
chứ không phải chỉ là trên giấy tờ.
Trên thực tế, ông T, ông Q đều được thông báo, bàn bạc trao đổi cụ thể về
Giá trị thi công Dự án. Kết quả thực hiện công việc do Công ty C2 thực hiện thì
ông Q, ông T cũng đều nhìn thấy rất rõ chứ không phải không biết gì. Mỗi lần
chuyển tiền góp vốn, ông T, ông Q đều nắm được và cũng đều ghi chú rõ số tiền
đó được sử dụng cho hạng mục công việc nào.
Mặt khác, trong Hợp đồng góp vốn số HĐGV-26/11/2021 và phụ lục Hợp
đồng số 01 do Công ty C2 và ông Q ký kết ngày 26/11/2021 cũng không quy định
rõ thời hạn thực hiện Dự án đến khi nào phải hoàn thành. Do đó, Công ty C2
không có bất cứ vi phạm nào về thời hạn triển khai thực hiện Dự án.
Về việc thông tin thực hiện Dự án giữa các bên:
Trong quá trình thực hiện Hợp đồng, Công ty C2 thường xuyên trao đổi công
việc và tiến độ thực hiện Dự án cho ông Thân Văn T và ông Thân Vĩnh Q bằng
hình thức trực tiếp gặp hoặc qua điện thoại, tin nhắn zalo. Công ty C2 xin gửi
Quý Tòa một số bản chụp tin nhắn trao đổi này để chứng minh cho nội dung trình
bày trên.
Mặt khác, trong Hợp đồng góp vốn số HĐGV-26/11/2021 và phụ lục Hợp
đồng số 01 do Công ty C2 và ông Q ký kết ngày 26/11/2021 cũng không quy định
rõ phải thông báo tiến độ công việc việc thống nhất đầu tư, xây dựng Dự án giữa
hai bên phải thực hiện bằng các hình thức văn bản, mail nên Công ty C2 chỉ thực
hiện theo hình thức tiện lợi, giản đơn như trên.
Kể từ khi ký Hợp đồng góp vốn, triển khai công việc, Công ty C2 và ông T,
ông Q đều liên hệ, thông tin, thông báo bằng các hình thức trên và không bên nào
có ý kiến gì khác.
Trong suốt quá trình triển khai Dự án, Công ty C2 cũng không nhận được bất
cứ ý kiến, thông tin, thông báo nào từ bên ông T, ông Q về việc thực hiện quyền và
trách nhiệm của các bên đối với Hợp đồng góp vốn. Đến tháng 03/2022, ông T,
ông Q thông tin về việc Công ty C2 chiếm dụng vốn góp 5 tỷ đồng, không triển
khai xây dựng Dự án và yêu cầu hoàn trả lại 5 tỷ đồng đã góp và khi nhận được
đơn khởi kiện từ ông Q thì Công ty C2 mới biết bên ông T, ông Q đã hiểu sai về
việc thực hiện Hợp đồng góp vốn của Công ty C2. Thực tế, trong suốt quá trình
thực hiện Hợp đồng góp vốn, Công ty C2 đang triển khai Dự án theo đúng mục
đích giao kết của hai bên, đúng các điều khoản quy định của Hợp đồng.
Thể hiện, Công ty C2 không vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào quy định tại Hợp
đồng góp vốn số HĐGV-26/11/2021 và phụ lục Hợp đồng số 01 do Công ty C2 và
ông Thân Vĩnh Q ký kết ngày 26/11/2021.
7
Như vậy, việc ông Thân Vĩnh Q trình bày trong đơn khởi kiện với nội dung:
Công ty C2 sau khi nhận đủ 5 tỷ đồng của ông Q nhưng không thực hiện nghĩa vụ
thông báo cho ông Q về tiến độ công việc và cùng ông Q thống nhất việc đầu tư
xây dựng, khai thác tài sản góp vốn là vi phạm nghĩa vụ quy định tại điểm 5.2,
Điều 5 Hợp đồng, vi phạm nghĩa vụ “thông tin kịp thời cho nhau tiến độ thực hiện
công việc” quy định tại Điều 6 Hợp đồng là hoàn toàn không có cơ sở. Theo đó,
Bên góp vốn là ông Thân Vĩnh Q không có quyền đơn phương chấm dứt cũng
như không có quyền hủy bỏ Hợp đồng góp vốn số HĐGV-26/11/2021 và phụ lục
Hợp đồng số 01 do Công ty C2 và ông Q ký kết ngày 26/11/2021.
Vì vậy, từ các căn cứ nêu trên, Công ty TNHH C2 đề nghị Tòa án bác toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy bỏ Hợp đồng và yêu cầu Công ty
C2 phải trả lại cho ông số tiền góp vốn 5 tỷ đồng và bồi thường thiệt hại. Đồng
thời, buộc ông Thân Vĩnh Q phải có trách nhiệm tiếp tục thực hiện Hợp đồng góp
vốn số HĐGV-26/11/2021 và phụ lục Hợp đồng số 01 do Công ty C2 và ông Q ký
kết ngày 26/11/2021.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Thân Văn T trình bày: Năm 2021, ông Nguyễn Đức V có mời ông
tham gia góp vốn vào Công ty TNHH C2 để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh
nhưng ông đã từ chối tham gia vì gia đình không có tiền để góp vốn. Việc ông
Nguyễn Đức V cho rằng ông tham gia góp vốn vào Công ty TNHH C2 để mở rộng
quy mô sản xuất và kinh doanh mặt hàng Phở sạch, Bánh đa nem truyền thống
thông qua việc ký kết Hợp đồng góp vốn số: HĐGV-26/11/2021 ngày 26 tháng 11
năm 2021 là không đúng sự thật, vì ông không tham gia ký kết hợp đồng này và
không góp vốn vào Công ty TNHH C2.
Hợp đồng góp vốn số: HĐGV-26/11/2021 được ký kết giữa ông Thân Vĩnh
Q và Công ty TNHH C2, do vậy, ông không liên quan đến việc góp vốn giữa ông
Q và Công ty TNHH C2. Trong vụ việc này, ông Thân Vĩnh Q vay ông
300.000.000 đ (Ba trăm triệu đồng) để góp vốn với Công ty TNHH C2, ông đồng
ý cho ông Q vay số tiền này, ông Q có nhờ ông chuyển khoản số tiền này cho
Công ty TNHH C2 vào ngày 02/12/2021 ông đã chuyển khoản Công ty TNHH C2
300.000.000 đ (Ba trăm triệu đồng). Số tiền này ông Q đã trả cho ông nên ông
không còn liên quan. Nay ông xác định ông không có quyền lợi và nghĩa vụ gì liên
quan đến việc tranh chấp hợp đồng góp vốn giữa nguyên đơn ông Thân Vĩnh Q, bị
đơn Công ty TNHH C2. Vì vậy, ông đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt tại các
buổi hòa giải công khai chứng cứ và phiên tòa sơ thẩm.
Bà Thân Thị Thúy H trình bày: Năm 2021, ông Thân Vĩnh Q có vay của bà
số tiền 1.000.000.000 đ (Một tỷ đồng) mục đích để góp vốn với Công ty TNHH C2
theo Hợp đồng góp vốn số: HĐGV-26/11/2021 ngày 26 tháng 11 năm 2021 để mở
rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Bà không tham gia gì liên quan việc góp vốn
giữa ông Thân Vĩnh Q và Công ty TNHH C2.
8
Đối với số tiền 1.000.000.000 đ (Một tỷ đồng) này theo yêu cầu của ông
Thân Vĩnh Q, bà chuyển khoản cho Công ty TNHH C3. Sau đó ông Q đã trả lại
cho bà số tiền 1.000.000.000 đ ( Một tỷ đồng) này.
Vì vậy, bà không có quyền lợi và nghĩa vụ gì liên quan đến việc tranh chấp
hợp đồng góp vốn giữa ông Thân Vĩnh Q và Công ty TNHH C2. Do điều kiện
công việc bà đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà.
Chị Lê Thị Lan O trình bày: Chị là vợ anh Thân Vĩnh Q, việc anh Q góp 5 tỷ
đồng vào Công ty C2 chị có được biết, việc anh Q làm thủ tục góp vốn và chuyền
tiền cho công ty C2 chị có biết, chị xác định số tiền 5 tỷ đồng này là tiền chung của
hai vợ chồng. Chị đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh Q, chị đề nghị Tòa án
buộc công ty C2 trả cho anh Q số tiền 5 tỷ đồng góp vốn. Do điều kiện công việc
bận, chị O đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Việt Yên phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử là đúng
với quy định của pháp luật; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
Đối với nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tại các Điều 70,
Điều 71, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của
pháp luật dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ: khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1
Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217; Điều 271,
Điều 273, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, b,
khoản 1 Điều 423, Điều 425; Điều 427, Điều 504, Điều 510; Điều 512, Bộ luật dân
sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí, xử: Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của anh Thân Vĩnh Q:
Tuyên bố hủy hợp đồng góp vốn số HĐGV -26/11/2021 và phụ lục hợp đồng
số 01 ngày 26 tháng 01 năm 2021, giữa anh Thân Vĩnh Q và Công ty TNHH C2;
buộc công ty C2 phải trả lại anh Q số tiền góp vốn là 5.000.000.000 đồng.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu bị đơn đối với
yêu cầu bồi thường số tiền 563.000.000 đồng.
Về án phí: Công ty TNHH C2 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là
113.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, chứng cứ đã được xem xét tại
phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền: Bị đơn Công ty TNHH C2 có trụ sở tại thôn T, xã V, thị
xã V, tỉnh Bắc Giang. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35;
9
điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
[2] Về quan hệ tranh chấp: nguyên đơn anh Thân Vĩnh Q yêu cầu Tòa án giải
quyết tuyên hủy hợp đồng góp vốn số HĐGV-26/11/2021 và phụ lục số 01 ngày
26/11/2021 do anh Thân Vĩnh Q ký kết với công ty TNHH C2 và yêu cầu Công ty
TNHH C2 phải trả lại cho anh số tiền góp vốn là 5.000.000.000đ, Tòa án thấy rằng
việc anh Thân Vĩnh Q góp vốn vào công ty C2 không nhằm mục đích tăng vốn
điều lệ của Công ty C2, không tham gia là thành viên Công ty, không phải góp vốn
để thành lập công ty khác, việc góp vốn chỉ nhằm hợp tác kinh doanh thu lợi
nhuận, do vậy cần xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Tranh chấp hợp
đồng hợp tác” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về sự vắng mặt của các đương sự: Bị đơn Công ty TNHH C2 do ông
Nguyễn Đức V giám đốc đại diện được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt;
ông Thân Văn T, bà Thân Thị Thúy H, chị Lê Thị Lan O là người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn xin xét xử
vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Nội dung vụ án:
[2.1] Hợp đồng hợp tác (thể hiện là hợp đồng góp vốn và phụ lục của hợp
đồng góp vốn): anh Thân Vĩnh Q thông qua sự giới thiệu của ông Thân Văn T,
biết được công ty C2 có nhu cầu hợp tác mở rộng kinh doanh, anh Q đã đặt vấn đề
hợp tác kinh doanh với công ty C2 nhằm mục đích thu lợi nhuận. Để thực hiện việc
hợp tác kinh doanh, anh Q và công ty C2 đã ký kết hợp đồng góp vốn số HĐGV
ngày 26/11/2021 và phụ lục số 01 ngày 26/11/2021. Theo nội dung hợp đồng góp
vốn hai bên thỏa thuận: số tiền góp vốn của hai bên là 10.000.000.000 đồng, sử
dụng vào việc thuê diện tích 1.800m
2
đất, thuê người thiết kế và xây dựng nhà
xưởng cấp tốc, đặt mua dây chuyền máy bánh đa nem tráng liên hoàn, hệ thống sấy
bánh đa nem, di dời trạm điện cũ hoặc lắp đặt thêm thiết bị cần thiết trong quá
trình thi công, lắp đặt hệ thống báo động, an ninh, phòng cháy, chữa cháy, thiết kế
mô hình và giải pháp xử lý chất thải trong quá trình sản xuất.
[2.2] Số tiền góp và người góp: Thực hiện Hợp đồng góp vốn số: HĐGV-
26/11/2021 và Phụ lục hợp đồng số 01 anh Q đã góp vốn đủ 5.000.000.000đ (Năm
tỷ đồng) cho Công ty TNHH C2 theo đúng thỏa thuận của hai bên, cụ thể như sau:
Ngày 14/01/2021 số tiền 1.500.000.000 (Một tỷ năm trăm triệu đồng) có Phiếu
nhận tiền ngày 14/01/2021, lý do nhận tiền: "góp vốn mua dây chuyền sản xuất mỳ
và bánh đa nem"; ngày 02/12/2021 số tiền 1.000.000.000 (Một tỷ đồng) có Phiếu
nhận tiền ngày 02/12/2021 lý do nhận tiền: "góp vốn mua 1800m
2
đất tại xã V,
huyện V, tỉnh Bắc Giang để xây dựng nhà xưởng"; ngày 23/12/2021 nộp
1.500.000.000 (Một tỷ năm trăm triệu đồng) có Phiếu nhận tiền ngày 23/12/2021,
lý do nhận tiền: "góp vốn xây dựng nhà xưởng"; ngày 28/12/2021 số tiền
10
1.000.000.000 (Một tỷ đồng) có Phiếu nhận tiền ngày 28/12/2021, lý do nhận tiền:
"góp đủ vốn đóng góp theo hợp đồng (5 tỷ), mua nguyên liệu sản xuất".
Về số tiền vốn phải góp: Tại hợp đồng góp vốn không thể hiện số tiền phải
góp cụ thể của mỗi bên là bao nhiêu, không thể hiện thời hạn góp vốn, thời hạn
hoàn thành các công việc theo thỏa thuận của hợp đồng.
Tại phụ lục hợp đồng mục A1 thể hiện "Hai bên cùng nhau góp vốn với
tổng số vốn góp của hai bên là 10.000.000đ (mười tỷ đồng)” nguyên đơn xác định
số vốn phải góp là 5.000.000.000 đồng, bị đơn xác định nguyên đơn có nghĩa vụ
phải góp 10.000.000.000 đồng, tuy nhiên tại phiếu nhận tiền ngày 28/12/2021 tại
phần lý do nhận tiền đã ghi “góp đủ vốn theo hợp đồng (5 tỷ)”, do đó có thể thấy
rằng số tiền góp vốn của mỗi bên là 5.000.000.000 đồng và anh Q đã góp đủ số
vốn theo hợp đồng.
Đối với việc ông Thân Văn T và bà Nguyễn Thúy H1 chuyển khoản tổng số
tiền 1.000.000.000đ vào tài khoản của Công ty C2; ông T và bà H1 cho rằng do
anh Q khi ký kết hợp đồng góp vốn với Công ty C2 bị thiếu phần vốn góp nên có
hỏi vay ông bà, ông bà đã cho anh Q vay số tiền này nên đã chuyển khoản trực tiếp
đến tài khoản của Công ty C2, số tiền này anh Q đã trả lại ông bà. Mặt khác căn cứ
vào hợp đồng góp vốn và các phiếu thu tiền Công ty C2 cấp cho anh Q đều thể
hiện anh Q là một bên trong giao dịch và số tiền thu là của anh Q do đó xác định số
tiền góp vốn là của anh Thân Văn Q2.
[2.2] Về việc thực hiện các công việc theo thỏa thuận của hợp đồng và lỗi
khi thực hiện hợp đồng:
Sau khi nhận tiền góp vốn, Công ty C2 đã thực hiện các công việc cụ thể
như:
Ngày 27/12/2021, Công ty A1 các Hợp đồng thuê nhà xưởng số 04/HĐTNX,
số 03/HĐTNX và số 02/HĐTNX thuê 1800m
2
đất tại khu cụm làng nghề xã V của
bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1952, ông Nguyễn Văn C sinh năm 1949, anh
Nguyễn Văn T2, sinh năm 1990 ở Thôn Y, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang làm
mặt bằng dự án với giá 1.950.000.000 đồng. Tòa án thấy rằng ngày 25 tháng 12
năm 2015 UBND huyện V (nay là thị xã V) đã ký lần lượt với ông Nguyễn Văn
T2, ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị N hợp đồng thuê đất số: 14/HĐ-TNMT;
15/HĐ-TNMT; 13/HĐ-TNMT với nội dung UBND huyện V cho ông T2, ông C,
bà N mỗi người thuê 600m
2
đất tại khu H, thời hạn thuê đất là 30 năm; mục đích
sử dụng là: xây dựng cơ sở S; phương thức nộp tiền thuê đất là: trả tiền hàng năm;
theo quy định của khoản 1 Điều 4 của hợp đồng ..."Bên thuê đất trong thời hạn
thực hiện của hợp đồng, không được chuyển giao quyền sử dụng đất trên cho bên
thứ ba" do đó ông C, bà N, ông T2 không được phép cho thuê lại diện tích đất
trên, việc cho công ty C2 thuê lại đất đã vi phạm hợp đồng thuê đất ông C, bà N,
ông T2 đã ký với UBND huyện V và Điều 175 Luật Đất đai 2013.
Đối với hợp đồng với Công ty X1: ngày 27/12/2021, Công ty C2 đã ký kết
hợp đồng kinh tế số 27/12/2021/HĐKT/HQ-AT về việc thi công nhà xưởng
11
K30L60m với Công ty TNHH X1. Qua xác minh Công ty X1 cung cấp, ngày
27/12/2021 Công ty TNHH X1 có ký hợp đồng kinh tế số
27/12/2021/HĐKT/HQ-AT về việc thi công Nhà xưởng K30L60m, theo nội dung
hợp đồng đã ký kết Công ty X1 đã sản xuất xong toàn bộ khung kết cấu thép nhà
xưởng với giá trị hoàn thành là khoảng 1,2 tỷ. Hiện các khung kết cấu thép nhà
xưởng công ty X1 đang phải lưu kho mà chưa tiến hành lắp ráp tại hiện trường.
Phí lưu kho do bên Công ty C2 chịu trách nhiệm. Công ty X1 chưa tiến hành lắp
ráp được nhà xưởng là do Công ty C2 chưa tiến hành thanh toán tạm ứng theo
điều khoản của hợp đồng và chưa đảm bảo mặt bằng thi công. Đến nay Công ty
C2 mới thanh toán được cho Công ty H3 tiền 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu
đồng chẵn)
Đối với hợp đồng với anh Nguyễn Trọng C1: Ngày 27/12/2021, Công ty A
Hợp đồng thuê khoán về việc thi công công trình xưởng sản xuất mỳ, phở sạch,
bánh đa nem của cụm làng nghề Thổ H2 tại thôn Y với anh Nguyễn Trọng C1.
Tòa án đã làm việc với anh C1, anh C1 cung cấp như sau: Anh có nhận thi công
cho Công ty C2 những hạng mục như: Đào móng, thuê máy múc móng, gạch ốp
tường, tôn be công trình, tân đất, anh đã hoàn thành các công việc như đào móng,
xây móng quây tường cao 1,5m; trát và ốp tường nhà xưởng, xây dựng bể nước
sạch, 01 nhà vệ sinh công cộng khoảng 40m
2
, phía Công ty C2 đã thanh toán cho
anh khoảng 180.000.000đ.
Đối với hợp đồng ngày 01/03/2022, Công ty C2 và X thiết bị thực phẩm Trực
P đã ký kết Hợp đồng số 02 HĐKT về việc mua máy chế biến thực phẩm gồm 01
máy tráng bánh tráng và 01 máy sấy sơ bộ, kiểu sấy treo giá trị hợp đồng là
5.400.000.000 đồng, Công ty C2 cung cấp được các chứng từ thể hiện đã thanh
toán đầy đủ số tiền 5.400.000.000 đồng cho xưởng thiết bị T6. Tuy nhiên căn cứ
vào Biên bản xác minh; lời khai khai của ông Nguyễn Văn P1 chủ Xưởng thiết bị
thực phẩm Trực P về việc ký kết, thực hiện Hợp đồng kinh tế số 02 HĐKT ngày
01/03/2022 thể hiện ông Nguyễn Văn P1, khẳng định Hợp đồng kinh tế số 02
HĐKT ngày 01/03/2022 là do ông V nhờ ông P1 ký để sử dụng vào việc vay vốn
ngân hàng. Thực tế hai bên không có mua máy móc dây chuyền sản xuất bánh đa
nem nên hợp đồng là không có thật, đồng thời ông không thực hiện việc xuất hóa
đơn VAT cho côn ty Anh Thư. Như vậy, ông Nguyễn Đức V, Giám đốc công ty
C2 đã lập khống Hợp đồng kinh tế số 02 HĐKT ngày 01/03/2022 để nhằm hợp lý
hóa việc sử dụng vốn góp của nguyên đơn, do đó phía Công ty C2 đã vi phạm mục
A1 phụ lục số 01 hợp đồng góp vốn "hai bên cùng đồng ý đặt mua dây chuyền
máy bánh đa nem tráng liên hoàn, hệ thống sấy bánh đa nem".
Theo Điểm 5.2 Điều 5 hợp đồng góp vốn quy định “Hai bên phải thông báo
cho nhau và cùng thống nhất về việc đầu tư, xây dựng, khai thác tài sản góp
vốn”
Trong quá trình thực hiện các hợp đồng nêu trên phía Công ty C2 không
thông báo và thống nhất với anh Q2 về việc ký hợp đồng mua máy móc với Công
ty T5 và Công ty X1; Công ty C2 không mua dây chuyền bánh đa nem liên hoàn,
12
hệ thống sấy bánh đa nem. Mặt khác hiện nay tại nơi Công ty C2 thuê đất của bà
N, ông C, ông Thi Công ty Anh T3 không tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh trên diện tích đất tại cụm làng nghể V, trên đất chỉ có một số tài sản như
tường bao xung quanh, hệ thống nước thải, 01 nhà tạm đã bị bay mái tôn diện tích
khoảng 12m
2
, từ khi ký kết hợp đồng góp vốn và anh Q2 đã góp đủ tiền nhưng
Công ty C2 không hoạt động, không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo thoả thuận
trong hợp đồng và phụ lục; không có khả năng thực hiện thoả thuận theo hợp
đồng và phụ lục do đó đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng và phụ lục
làm cho anh Q2 không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Căn cứ
điểm 4.1 Điều 4 số HĐGV-26/11/2021 “Bên A được quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng trong trường hợp bên B không thực hiện công việc theo đúng
thoả thuận…”. Việc anh T4 Vĩnh Quý yêu cầu hủy hợp đồng góp vốn số HĐGV-
26/11/2021 và phụ lục số 01 là đúng theo thoả thuận trong hợp đồng và có căn cứ
để chấp nhận phù hợp với quy định tại các Điều 423; Điều 427; Điều 504, Điều
512 Bộ luật dân sự; cần buộc Công ty C2 phải trả anh T4 Vĩnh quý số tiền vốn đã
góp là 5.000.000.000 đồng.
[3] Đối với yêu cầu bồi thường của nguyên đơn tại phiên tòa nguyên đơn rút
phần yêu cầu khởi kiện này do đó Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của anh Thân Vĩnh Q được chấp nhận
nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; bị đơn công ty C2 phải chịu án phí
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐINH:
Căn cứ: khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217; Điều 271, Điều 273, khoản 1 Điều 227,
khoản 1 Điều 228, Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 423; Điều 427, Điều 504, Điều
510; Điều 512, Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về án phí và lệ phí, xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Thân Vĩnh Q:
Tuyên bố hủy hợp đồng góp vốn số HĐGV -26/11/2021 và phụ lục hợp đồng
số 01 ngày 26 tháng 01 năm 2021, giữa anh Thân Vĩnh Q và Công ty TNHH C2;
buộc công ty C2 phải trả lại anh Q số tiền góp vốn là 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ
đồng)
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật dân sự năm 2015.

13
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi
thường số tiền 563.000.000 đ (Năm trăm sáu mươi ba triệu đồng)
3. Án phí: Công ty TNHH C2 phải chịu 113.000.000đ án phí dân sự sơ
thẩm, hoàn trả anh Q số tiền tạm ứng án phí là 57.081.500 đồng tiền tạm ứng án
phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0006707 ngày 20/12/2022 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Việt Yên.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi
hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi
hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được quy định tại điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
4. Quyền kháng cáo: Báo cho đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo cho các đương sự vắng mặt được
quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc
từ ngày bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND TX. Việt Yên;
- Các đương sự.
- Chi cục THADS thị xã Việt Yên;
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Hữu Luyện
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 103/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm