Bản án số 214/2024/DS-PT ngày 27/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 214/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 214/2024/DS-PT ngày 27/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng hợp tác
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 214/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp hợp đồng góp vốn Thế tuấn- Cty Phú gia thịnh
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 214/2024/DS-PT
Ngày 27/12/2024
“Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng góp
vốn vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng
vô hiệu; yêu cầu sửa đổi và tiếp tục thực hiện
hợp đồng góp vốn; yêu cầu tuyên bố hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Bé.
Các Thẩm phán: Ông Cao Văn Hiếu.
Trần Thị Thanh Mai.
- Thư phiên tòa: Ông Huỳnh Trung Tiến - Thư Tòa án nhân dân thành phố
Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Ông Nguyễn Văn Hưng
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 27 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét
xử phúc thẩm ng khai ván dân sự thụ số: 84/2024/TLPT-DS ngày 11 tháng 10
năm 2024 về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng góp vốn hiệu giải
quyết hậu quả hợp đồng hiệu; yêu cầu sửa đổi tiếp tục thực hiện hợp đồng góp
vốn; yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 41/2024/DSST ngày 09 tháng 7 năm 2024 của Tòa
án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 186/2024/QĐ-PT ngày 12
tháng 11 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 290/2024/QĐ-PT ngày
28 tháng 11 năm 2024 Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 576/TB-TA
ngày 20 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng giữa các đương
sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Đ; Địa chỉ: Số B đường L, phường H, quận H,
thành phố Đà Nẵng. Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Anh T, chức danh: Chủ tịch
Hội đồng quản trị Công ty.
Người đại diện theo uỷ quyền cuả nguyên đơn Công ty Cổ phần Đ: Nguyễn Thị
Thanh T1, sinh năm 1985 hoặc Trần Thị Lâm N, sinh năm 1995 hoặc Nguyễn Tú
2
Q, sinh năm 2000 hoặc ông Bùi Sơn C, sinh năm 1996. Cùng địa chỉ: B L, quận H,
thành phố Đà Nẵng (Theo giấy uỷ quyền s200/UQ-PGT ngày 18/11/2024). Trần
Thị Lâm N có mặt.
- Bị đơn: Ông Thế T2, sinh năm: 1965; Địa chỉ: Thôn C, T, huyện T, tỉnh
Hải Dương.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Công T3, sinh năm 1995; Hoàng
Thị Thúy Q1, sinh năm 1997; ông Q2, sinh năm 1996 Trần Thị D; Cùng địa chỉ:
Tầng B, Tòa nhà T, H N, phường N, quận H, thành phố Đà Nẵng (Theo Hợp đồng uỷ
quyền lập ngày 18/5/2022). Ông Lê Q2 có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Văn C1, Trần
Thị H, Phạm Thị T4 Luật sư của Công ty L2 thuộc Đoàn Luật thành phố Đ.
Cùng địa chỉ: Tầng B, Tòa nhà T, H N, phường N, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Phạm Thị T4 có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ1 (P1); Địa chỉ: Số B N, phường T, quận H,
thành phố Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đình L Chức vụ: Chủ
tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP Đ1: Ông Mai Xuân T5,
chức vụ: Giám đốc Khối Quản lý T6 cấu trúc tài sản (Theo Giấy ủy quyền
10771/UQ-PVB ngày 10/6/2020).
Ông Mai Xuân T5 ủy quyền lại: Bà Nguyễn Thị Kim X, Chức vụ: Giám đốc
QLKH khu vực M hoặc ông Hoàng Thế Q3, Chức vụ : Phó Giám đốc QLKH khu vực
M hoặc Phan Thị Thanh H1 Chức vụ: Chuyên viên Tố tụng hoặc Huỳnh Thị
Trung P, Chức vụ: Chuyên gia QLKH hoặc ông Nguyễn Văn L1, Chức vụ Chuyên viên
Tố tụng. Cùng địa chỉ: B đường C, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng (Theo Giấy
uỷ quyền số 3585/UQ-PVB ngày 01/02/2024 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng
TMCP Đ1).
+ Văn phòng C2; địa chỉ: Số A, đường B, phường B, quận H, thành ph Đà
Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: Nguyễn Hải S Chức danh: Trưởng Văn
phòng. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Công ty Cổ phần Đ nguyên đơn ông Thế T2 b
đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần Đ trình bày: Ngày
14/5/2018, Công ty Cổ phần Đ (sau đây viết tắt “Công ty Đ”) ông Thế T2 đã
thỏa thuận kết 02 Hợp đồng p vốn: 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-
3
PGT-PC (sau đây viết tắt là “Hợp đồng”) để cùng hợp tác góp vốn tại Dự án Khu dân cư
T (P2) tại địa chỉ: Khu tái định V - N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng (sau
đây viết tắt “Dự án”). Theo nội dung các bên thỏa thuận tại Hợp đồng, ông Thế
T2 đồng ý góp vốn cùng Công ty Đ để Công ty Đ thực hiện các thủ tục pháp Dự án
theo quy định của pháp luật. Sau khi ông Vũ Thế T2 hoàn thành việc góp vốn và trên cơ
sở Dự án đã đáp ứng đủ các điều kiện pháp lý để chuyển nhượng các đất nền thuộc
Dự án, Công ty Đ ông Thế T2 sẽ kết hợp đồng chuyển nhượng để giao cho
ông Thế T2 02 đất thuộc Dự án với vị trí: 36, 40, diện tích mỗi lô: 116 m
2
thuộc Khu A. Trường hợp Công ty Đ vi phạm vthời hạn công chứng thì ông Thế
T2 quyền tiếp tục thực hợp hoặc chấm dứt hợp đồng; trong trường hợp chấm dứt hợp
đồng thì Công ty Đ sẽ hoàn trả lại cho ông Vũ Thế T2 số tiền đã góp vốn và tiền lãi theo
lãi suất tiết kiệm của một trong các Ngân hàng thương mại trên địa bàn dự án đang
thực hiện, tiền lãi tính từ thời điểm bên B (ông T2) góp vốn cùng với bên A (Công ty
Đ). Công ty Đ đã triển khai các thủ tục pháp để thực hiện dự án, ông Thế T2 đã
thực hiện trách nhiệm góp vốn cho 02 Hợp đồng với tổng số tiền đã góp vốn là
1.357.200.000 đồng. Tuy nhiên, xuất phát bởi các lý do khách quan trong quá trình thực
hiện các trình tự, thủ tục pháp lý Dự án, trong đó gồm sự thay đổi quy hoạch và các yêu
cầu soát, yêu cầu điều chỉnh tcác quan thẩm quyền; các trở ngại khách quan
từ tình hình dịch bệnh (Covid-19) kể tđầu năm 2020 cho tới nay. Tiếp đó, kể từ ngày
08/02/2021, Nghị định số: 148/2020/NĐ-CP sửa đổi Điều 41 của Nghị định số:
43/2014/NĐ-CP hiệu lực thi hành, trong đó tại khoản 17 Điều 1 quy định như sau:
“Chủ đầu dự án xây dựng kinh doanh nhà để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê
được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền tại khu vực
không nằm trong địa bàn các phường của các đô thị loại đặc biệt đô thị loại I trực
thuộc Trung ương ...”. Dự án các bên cùng hợp tác góp vốn nằm trong địa bàn
phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng của đô thị loại I trực thuộc Trung ương, dẫn đến
không còn được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền,
đây hoàn cảnh thay đổi bản xảy ra một cách khách quan khiến Công ty Đ đến nay
không thể tiếp tục thực hiện Hợp đồng theo nội dung, mục đích ban đầu.
Tại đơn khởi kiện, căn cứ quy định tại Điều 6 của Hợp đồng, Điều 420 B luật tố
tụng Dân sự năm 2015 và các quy định của pháp luật có liên quan, Công ty Đ khởi kiện
yêu cầu Tòa án tuyên chấm dứt Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số: 1718/HĐGV-
PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 được kết giữa Công ty Đ ông
Thế T2 kể từ ngày 08/02/2021. Tuy nhiên, sau khi khởi kiện tại Tòa án, ngày
20/5/2022, UBND thành phố Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số:
1369/QĐ-XLHC đối với Công ty Đ do hành vi vi phạm hành chính về việc huy động
vốn không đúng quy định trong hoạt động kinh doanh bất động sản tại Dự án Khu dân
T, quận L, thành phố Đà Nẵng (điểm d khoản 4 Điều 58 Nghị định số: 16/2022/NĐ-
CP ngày 28/01/2022). Sau khi nhận được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số:
1369/QĐ-XLHC ngày 20/5/2022 của UBND thành phố Đ, Công ty Đ nhận thấy việc ký
4
kết Hợp đồng giữa Công ty Đ ông Thế T7 vi phạm điều cấm của pháp luật theo
quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự; khoản 5 Điều 8, Điều 31 Điều 32 Luật Kinh
doanh bất động sản; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 19 Nghị định Nghị định số:
99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ. Do đó, ngày 31/3/2023, Công ty Đ
đơn yêu cầu thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án căn cứ quy định tại Điều 117,
Điều 122, Điều 123, khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự, các quy định của pháp luật
liên quan Quyết định số: 1369/QĐ-XLHC ngày 20/5/2022 của UBND thành phố Đ
tuyên bố Hợp đồng góp vốn số: 1718/HĐGV-PGT-PC và 1730/HĐGV-PGT-PC ngày
14/5/2018 được ký kết giữa Công ty Đ ông Thế T2 hiệu do vi phạm điều cấm
của luật giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu, ng ty Đ sẽ hoàn trả lại cho ông
Vũ Thế T2 số tiền 1.357.200.000 đồng. Công ty Đ xác định lỗi của các bên dẫn đến việc
hợp đồng hiệu thì ông Thế T2 cũng một phần lỗi đã được Công ty Đ thông
tin cũng như cung cấp đầy đủ các giấy tờ pháp lý liên quan đến dự án, hiểu rõ hiện trạng
pháp của dự án, hiểu Công ty Đ chưa đủ điều kiện pháp để nhận góp vốn đ
thực hiện dự án. Do đó, Công ty Đ đề nghị xem xét mức đlỗi dẫn đến hợp đồng vô
hiệu phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.
Đối với yêu cầu phản tố của ông Thế T2 thì Công ty Đ ý kiến như sau: Do
hợp đồng góp vốn kết giữa hai bên hiệu nên việc ông Thế T2 yêu cầu tiếp
tục thực hiện hợp đồng góp vốn trái với các quy định của pháp luật. Đồng thời việc
ông Thế T8 cầu Công ty Đ tháo dỡ công trình xây dựng trên đất cũng không
sở bởi các hạng mục xây dựng trên Dự án thuộc trường hợp được miễn giấy phép xây
dựng theo như quy định tại điểm h khoản 2 Điều 89 Luật xây dựng năm 2014, sửa đổi
bổ sung tại khoản 30 Điều 1 Luật xây dựng năm 2020.
Đối với việc ông Thế T2 yêu cầu được liên hệ với UBND thành phố Đ, Sở
Xây dựng thành phố Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L
các quan liên quan để thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất,
quyền sở hữu ntài sản gắn liền với đất không phù hợp với quy định tại khoản
11 Điều 1 Nghị định số: 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023 của Chính Phủ vì đây là nghĩa
vụ của chủ đầu tư; thủ tục cho phép nhân, tổ chức khác tự liên hệ quan thẩm
quyền không quy định không căn cứ để thực hiện. Đối với việc yêu cầu
tuyên bố hiệu Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 111/2019/HĐMB-PVB-
CNĐN ngày 17/5/2019 là không có căn cứ vì thời điểm thế chấp Công ty Đ đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất không tranh chấp, không bị biên để đảm
bảo thi hành án và vẫn còn thời hạn sử dụng đất, hợp đồng thế chấp đã được công chứng
và phù hợp với khoản 1 Điều 167, khoản 1 Điều 188 Luật đất đai. Trước đây, Công ty Đ
đưa ra phương án hòa giải tại Tòa án, trong đó phương án xác định tổng số tiền
Công ty hoàn lại cho ông Thế T2 nếu chấm dứt hợp đồng 1.566.000.000 đồng
mỗi lô, trên số tiền đã góp vốn 01 678.600.000đồng. Tuy nhiên, ông Thế T2
không đồng ý với phương án trên nên Công ty không chấp nhận hỗ trợ theo số tiền này
nữa mà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật theo hướng đề nghị tuyên
5
bố hiệu hợp đồng góp vốn đã kết với ông Thế T9 giải quyết hậu quả của hợp
đồng hiệu: Công ty Cổ phần Đ trả lại số tiền đã góp vốn mỗi 678.600.000đồng.
Đồng thời, đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.
- Đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Thế T2 Nguyễn Thị Hải N1,
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Thế T2 Phạm Thị T4 -
Luật Công ty L2 trình bày: Công ty Đ ông Thế T2 kết Hợp đồng góp
vốn số: 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 để cùng hợp
tác góp vốn tại Dự án Khu dân T tại địa chỉ: Khu tái định V - N, phường H, quận
L, thành phố Đà Nẵng. Mặc dù ký Hợp đồng góp vốn nhưng thực tế là hợp đồng chuyển
nhượng theo như hợp đồng, thì ông Thế T2 đã đóng cho Công ty Đ số tiền
1.357.200.000 đồng/02 lô. Tại Điều 3.2 Điều 3.3 Hợp đồng thỏa thuận “Trong thời
hạn 06 tháng kể từ ngày thỏa thuận góp vốn hai bên sẽ tiến hành công chứng hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bàn giao đất” “Trong thời hạn 60 ngày làm
việc kể từ ngày hai bên công chứng hợp đồng chuyển nhượng, bên A sẽ giao cho bên B
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bên B”. Như vậy, chậm nhất đến ngày
10/11/2018, Công ty Đ đã phải hoàn thành nghĩa vụ công chứng hợp đồng chuyển
nhượng hạn cuối đến ngày 09/01/2019 ông Thế T2 đã được Công ty Đ cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên của ông T2. Tuy nhiên, từ khi kết Hợp
đồng góp vốn đến nay, Công ty Đ vẫn chưa hoàn thiện pháp để ký kết hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng cho ông Thế T2 các khách hàng
mua đất khác tại dự án trong khi ông Thế T2 đã hoàn thành nghĩa vụ đóng tiền theo
đúng tiến độ quy định tại Hợp đồng. Do vậy, trước hết cần khẳng định Công ty Đ là bên
đã vi phạm nghiêm trọng hợp đồng, không tuân thủ các cam kết đã được hai bên thống
nhất chính sự vi phạm này của Công ty Đ nguyên nhân khiến cho Dự án bị ảnh
hưởng bởi Nghị định số: 148/2020/NĐ-CP. Chính sách pháp luật mới tại Nghị định số:
148/2020/NĐ-CP sthay đổi hoàn cảnh bản Công ty Đ nghĩa vụ sửa đổi
thoả thuận để cân bằng quyền và lợi ích của các bên. So với quy định trước đây tại Nghị
định số: 43/2014/NĐ-CP thì Nghị định số: 148/2020/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày
08/02/2012 đã bổ sung thêm trường hợp chủ đầu không được phép phân lô bán nền
tại các phường của đô thị loại I trực thuộc Trung ương. Dự án KDC T thuộc trường hợp
này nên không được phân lô bán nền như thoả thuận ông Vũ Thế T2 đã ký kết với Công
ty Đ. Tuy nhiên, việc Công ty Đ lợi dụng sự thay đổi này yêu cầu chấm dứt thoả thuận
với ông Thế T2 hoặc yêu cầu tuyên bố hợp đồng hiệu là không sở. Sau khi
Nghị định số: 148/2020/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, ông Vũ Thế T2 cũng đã chấp nhận
việc sẽ xây dựng nhà trên đất nhận chuyển nhượng đồng thời nhà đất. Tuy nhiên,
Công ty Đ đã thiếu thiện chí, đưa ra nhiều phương án bất lợi cho ông Thế T2. Do
vậy, ông Thế T2 quyền yêu cầu Tòa án sửa đổi Hợp đồng để cân bằng quyền
lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định tại khoản 3 Điều 420 Bộ Luật Dân sự 2015.
Ngoài ra, theo Công văn số: 9819/SXD-TTS ngày 22/12/2022 của Sở Xây dựng gửi
UBND thành phố Đ về việc xử các vướng mắc bất cập tại dự án Khu dân T, ông
6
Thế T2 được biết hiện nay Công ty Đ chưa hoàn thiện các thủ tục pháp để được
cấp Giấy phép xây dựng thi ng hạng mục hạ tầng kỹ thuật. Tuy nhiên từ tháng
01/2022 đến tháng 03/2022, Công ty Đ đã tự ý tổ chức xây dựng bất chấp những công
văn yêu cầu ngừng thi công của Sở Xây dựng và UBND quận L.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Thế T2 được biết Công ty Đ đã kết
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 111/2019/HĐMB-PVB-CNĐN
ngày17/5/2019 được công chứng tại Văn phòng C2, số công chứng 7316, quyển số 01
TP/CC-SCC/HĐGD. Theo đó, Công ty Đ đã thế chấp toàn bộ diện tích đất 17.598 m
2
,
thửa số 38, tờ bản đồ số 20, Lô B, khu tái định cư vệt biệt thự X - N, phường H, quận L,
thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất số CO 161090, số vào sổ cấp GCN: CT50231 do Sở Tài
nguyên Môi trường thành phố Đ cấp ngày 20/9/2018. Trong diện tích đất Công ty Đ
thế chấp Ngân hàng diện tích đất Công ty Đ đã bán cho ông Thế T2 theo 02
Hợp đồng góp vốn số: 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018
được kết giữa ông Thế T2 Công ty Đ. Việc Công ty Đ đã nhận tiền mua bán
đất của những người mua đất như ông Vũ Thế T2, thế nhưng vẫn đem Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đi thế chấp ngân hàng là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong thoả
thuận của ông T2.
Đồng thời Ngân hàng TMCP Đ1 cũng vi phạm nghiêm trọng trong quá trình xét
duyệt khoản vay của Công ty Đ khi không kiểm tra, xét duyệt khoản vay kỹ lưỡng. Việc
kết hợp đồng bàn giao đất của Công ty Đ diễn ra công khai, rầm rộ, tranh chấp
giữa những người mua đất và Công ty Đ diễn ra thường xuyên, báo chí, truyền thông
đăng tin, thế nhưng việc Ngân hàng này vẫn tiến hành cho vay một điều bất thường
vi phạm pháp luật. vậy, ông Thế T2 đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của Công ty Đ và có yêu cầu phản tố, đề nghị:
1. Buộc Công ty Cổ phần Đ tiếp tục thực hiện Thỏa thuận tại Hợp đồng góp vốn
dự án khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018
được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Thế T2 theo hướng:
a. Sửa đổi 02 Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC
1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 được kết giữa Công ty Đ ông Thế T2
để cân bằng quyền lợi ích của hai bên do hoàn cảnh thay đổi bản với các yêu cầu
sửa đổi như sau:
- Buộc Công ty Cổ phần Đ phải tiến hành tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng
hiện có trên lô đất số 36, 40 - Khu A2 dự án KDC T.
- Tuyên ông Thế T2 được quyền xây dựng chịu chi phí xây dựng nhà trên
đất số 36, 40 - Khu A dự án KDC T, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng theo
thiết kế đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
- Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn thiện các điều kiện pháp lý để đất s36,
40 - Khu A2 dự án KDC T công trình trên đất đủ điều kiện chuyển nhượng cho ông
7
Thế T2 theo quy định của pháp luật với giá trị quyền sdụng đất giữ nguyên trong
thỏa thuận góp vốn đã ký kết.
- Buộc Công ty Cổ phần Đ liên hệ UBND thành phố Đ, Sở Xây dựng thành phố
Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L các quan liên
quan lập các thủ tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
tài sản khác gắn liền với đất cho ông Thế T2 đối với nhà và đất tại đất số 36, 40 -
Khu A2 dự án KDC T.
b. Các điều khoản không sửa đổi tại 02 Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số:
1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 được ký kết giữa Công
ty Cổ phần Đ ông Vũ Thế T2 đã có hiệu lực pháp luật tiếp tục được thực hiện.
2. Tuyên ông Thế T2 được quyền chủ động liên hệ với UBND thành phố Đ,
Sở Xây dựng thành phố Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận
L các quan liên quan để thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối với nhà và đất tại lô đất số 36, 40
- Khu A2 dự án KDC T sau khi trả phần giá trị đất còn lại theo thỏa thuận tại 02 Hợp
đồng góp vốn dán khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC
ngày 14/5/2018 được ký kết giữa Công ty Đ và ông Vũ Thế T2.
3. Tuyên Hợp đồng thế chấp quyền s dụng đất số: 111/2019/HĐMB-PVB-
CNĐN ngày 17/5/2019 giữa Ngân hàng TMCP Đ1, chi nhánh Đ2 Công ty Cổ phần
Đ được công chứng tại Văn phòng C2, công chứng số 7316, quyển số 01 TP/CC-
SCC/HĐGD liên quan dến diện tích đất tại KDC T thửa đất số 38, tờ bản đồ số 20, địa
chỉ Lô B Khu tái định cư V - N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng là vô hiệu.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP Đ1 trình bày: Công ty Đ đã thực
hiện việc vay vốn tại Ngân hàng TMCP Đ1 (Sau đây gọi P1) theo các Hợp đồng tín
dụng được kết giữa hai bên hiện đang thực hiện nghĩa vtrả nợ cho Ngân hàng.
Để đảm bảo cho toàn bộ các nghĩa vụ tài chính, Công ty Đ đã sử dụng các tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình để thế chấp cho P1; trong đó, bao gồm tài sản bảo đảm là quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại đất số 38, tờ bản đồ số 20, diện tích 17.598 m
2
tại địa chỉ B Khu tái định V - N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng (Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số
CO 161090 do Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ cấp ngày 20/09/2018 cho
Công ty Cổ phần Đ) theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 111/2019/HĐMB-
PVB-CNĐN ngày 17/5/2019. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng thế chấp
theo đúng quy định của pháp luật.
Sau khi thế chấp tài sản tại P1, Công ty Đ tiếp tục thực hiện việc quản sử
dụng đối với tài sản bảo đảm nêu trên, P1 chỉ quản lý hồ sơ gốc Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CO 161090. Tạm
tính đến ngày 07/6/2024, tổng nghĩa vụ trả nợ của Công ty Đ tại P1 là 431.428.821.716
đồng, gồm ngốc 199.842.324.689 đồng nợ lãi 231.586.497.027 đồng. Trường hợp
8
Công ty Đ tất toán toàn bộ các nghĩa vụ tài chính, P1 sẽ thực hiện việc giải chấp tài sản
bảo đảm theo quy định nên đề nghị xem xét, giải quyết các vụ án theo đúng quy định
của pháp luật.
+ Văn phòng C2 trình bày: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số:
111/2019/HĐMB-PVB-CNĐN ngày 17/5/2019 giữa Ngân hàng TMCP Đ1, chi nhánh
Đ2 Công ty Cổ phần Đ được công chứng tại Văn phòng C2, công chứng số 7316,
quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD liên quan dến diện tích đất tại KDC T thửa đất số 38,
tờ bản đồ s20, địa chỉ B Khu tái định V - N, phường H, quận L, thành phố Đà
Nẵng. Tại thời điểm công chứng, Văn phòng C2 không nhận được bất kỳ văn bản tranh
chấp, phong tỏa tài sản nào; hcông chứng đầy đủ thủ tục theo quy định; các bên
giao dịch năng lực hành vi dân sự, ng lực pháp luật dân sự theo quy định, tự
nguyện giao kết hợp đồng, không bị đe dọa, lừa dối; không bị ép buộc. Ông Anh T,
người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Đ tự nguyện yêu cầu công chứng và
ghi trong hợp đồng “Tôi đã đọc và đồng ý”. Như vậy, Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất đã được công chứng theo đúng quy định của pháp luật nên đề nghị bác yêu cầu
phản tố của ông Thế T2 về yêu cầu Tòa án tuyên bố hiệu đối với Hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất do Văn phòng C2 chứng nhận ngày 17/5/2019.
Với nội dung nói trên, Bản án dân sự sơ thẩm số: 41/2024/DSST ngày 09 tháng 7
năm 2024 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xử quyết
định: Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 228, 244, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
các Điều 122, 123, 131, 357, 468, 407, 500, 501 Bộ luật Dân sự; khoản 4 Điều 12;
Khoản 2 Điều 168; Điều 188, Điều 194 Luật Đất Đai; Điều 8, Điều 29, Điều 31, Điều
32 Luật Kinh doanh BĐS năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Toà án.
I. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Đ về việc “Yêu
cầu tuyên bố hợp đồng góp vốn hiệu giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu”.
Tuyên:
- Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC
1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 được kết giữa Công ty Cổ phần Đ ông
Thế T2 vô hiệu.
- Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn trả cho ông Vũ Thế T2 số tiền
2.342.533.808 đồng; Trong đó tiền gốc là 1.357.200.000 đồng, tiền bồi thường thiệt hại
là 985.333.808 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi
hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357
và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
9
II. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Thế T2 về việc “Yêu
cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng góp vốn yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất vô hiệu” gồm:
1. Buộc Công ty Cổ phần Đ tiếp tục thực hiện Thỏa thuận tại Hợp đồng góp vốn
dự án khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018
được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Thế T2 theo hướng:
a. Sửa đổi 02 Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC
1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 được kết giữa Công ty Đ ông Thế T2
để cân bằng quyền lợi ích của hai bên do hoàn cảnh thay đổi bản với các yêu cầu
sửa đổi như sau:
- Buộc Công ty Cổ phần Đ phải tiến hành tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng
hiện có trên lô đất số 36, 40 - Khu A2 dự án KDC T.
- Tuyên ông Thế T2 được quyền xây dựng chịu chi phí xây dựng nhà trên
đất số 36, 40 - Khu A dự án KDC T, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng theo
thiết kế đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
- Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn thiện các điều kiện pháp lý để đất s36,
40 - khu A2 dự án KDC T công trình trên đất đủ điều kiện chuyển nhượng cho ông
Thế T2 theo quy định của pháp luật với giá trị quyền sử dụng đất giữ nguyên trong
Thỏa thuận góp vốn đã ký kết.
- Buộc Công ty Cổ phần Đ liên hệ UBND thành phố Đ, Sở Xây dựng thành phố
Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L các quan liên
quan lập các thủ tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
tài sản khác gắn liền với đất cho ông Thế T2 đối với nhà và đất tại đất số 36, 40 -
Khu A2 dự án KDC T.
b. Các điều khoản không sửa đổi tại 02 Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số:
1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 được ký kết giữa Công
ty Cổ phần Đông Vũ Thế T2 đã có hiệu lực pháp luật tiếp tục được thực hiện.
2. Tuyên ông Thế T2 được quyền chủ động liên hệ với UBND thành phố Đ,
Sở Xây dựng thành phố Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận
L các quan liên quan để thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối với nhà và đất tại lô đất số 36, 40
- Khu A2 dự án KDC T sau khi trả phần giá trị đất còn lại theo thỏa thuận tại 02 Hợp
đồng góp vốn dán khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC
ngày 14/5/2018 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Thế T2.
3. Tuyên Hợp đồng thế chấp quyền s dụng đất số: 111/2019/HĐMB-PVB-
CNĐN ngày 17/5/2019 giữa Ngân hàng TMCP Đ1, chi nhánh Đ2 Công ty Cổ phần
Đ được công chứng tại Văn phòng C2, công chứng số 7316, quyển số 01 TP/CC-
SCC/HĐGD liên quan dến diện tích đất tại KDC T thửa đất số 38, tờ bản đồ số 20, địa
chỉ Lô B Khu tái định cư V - N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng là vô hiệu.
10
III. Án phí dân sthẩm: Buộc Công ty Cổ phần Đ phải chịu tiền án phí
78.850.676 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai
thu số 0000339 ngày 05/4/2022 26.358.000 đồng biên lai thu số 0000872 ngày
25/5/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Công
ty Cổ phần Đ còn phải tiếp tục nộp số tiền 52.192.676 đồng. Buộc Ông Vũ Thế T2 phải
chịu tiền án phí 600.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã
nộp theo biên lai thu s0005421 ngày 05/9/2022 300.000 đồng số tiền tạm ứng án
phí đã nộp theo biên lai thu số 0001063 ngày 03/8/2023 của Chi cục thi hành án dân sự
quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Ông Vũ Thế T2 đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
IV. Chi ptố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ 2.000.000 đồng; Chi
phí thẩm định giá 10.000.000 đồng nguyên đơn Công ty Đ chịu (Đã nộp và đã chi
xong).
Ngoài ra, bản án thẩm còn thông báo quyền kháng cáo cho các đương sbiết
theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 20/7/2024 ông Thế T2 đơn kháng cáo
ngày 23/12/2024, ông có đơn sửa đổi đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm hủy toàn b
bản án thẩm số: 41/2024/DSST ngày 09/7/2024 của Tòa án nhân dân quận Liên
Chiểu và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm
theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông Vũ Thế T2.
Ngày 22/7/2024 Công ty cổ phần Đ đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm sửa
đổi số tiền Công ty Đ phải bồi thường cho ông Thế T2 trên sở xác định lại mức
độ lỗi của các bên dẫn đến các Hợp đồng góp vốn đã ký kết hiệu, để xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của các bên phù hợp với mức độ lỗi thực tế của vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng
tại phiên toà, sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, sau khi thảo luận nghị
án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét kháng cáo của ông Vũ Thế T2Công ty Cổ phần Đ thì thấy: Căn cứ vào
Hợp đồng góp vốn số: 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018
giữa Công ty Đ ông Thế T2 cho thấy ông Thế T2 đồng ý cùng góp vốn với
Công ty Đ để Công ty Đ thực hiện các thủ tục pháp theo quy định của pháp luật. Sau
khi ông Thế T2 hoàn thành việc góp vốn theo tiến độ quy định tại Điều 3 Hợp đồng
thì Công ty Đ sẽ giao cho ông Thế T2 02 đất số 36, 40, thuộc Khu A. diện tích
mỗi lô: 116 m
2
thuộc dự án Khu đô thị T tại vệt biệt thự X - N, phường H, quận L, thành
phố Đà Nẵng. Giá trị sau chiết khấu mỗi đất là 1.357.200.000 đồng. Ông Thế T2
đã góp vốn cho Công ty Đ số tiền 1.357.200.000 đồng/02 (tương đương 50% giá trị
theo hợp đồng, đã bao gồm tiền đặt cọc). HĐXX phúc thẩm xét thấy: Tại thời điểm các
bên ký kết hợp đồng góp vốn tdán Khu đô thị T mới được Sở Tài nguyên Môi
11
trường thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài
sản khác gắn liền với đất số CO 161090 ngày 20/9/2018, thửa số 38, tờ bản đồ số 20,
diện tích đất 17.598 m
2
, mục đích sử dụng: đất thương mại, dịch vụ; thời hạn sử dụng
đến ngày 25/12/2057. Tại Quyết định số: 380/QĐ-UBND ngày 04/02/2021 của Ủy ban
nhân dân thành phố Đ đã chấp thuận nhà đầu Công ty Đ được thực hiện dự án đầu tư
Khu dân T. Sau đó, Ủy ban nhân dân thành phố Đ đã cho phép Công ty Đ chuyển
mục đích sử dụng đất từ đất thương mại dịch vụ thành đất đô thị theo Quyết định số:
2417/QĐ-UBND ngày 12/7/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố Đ. Tại Quyết định số:
1097/QĐ-UBND ngày 21/4/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố Đ đã quy định giá đất
cụ thể để làm cơ sở thực hiện nghĩa vụ tài chính do chuyển mục đích sử dụng đất từ đất
thương mại dịch vụ sang đất đối với dự án khu dân T. Trên sở đó, Cục Thuế
thành phố Đ đã ban hành Thông báo số: 3883/TB-CTDAN ngày 13/10/2022 về việc nộp
tiền sử dụng đất do chuyển mục đích sử dụng đất của dự án Khu dân T với số tiền
160.470.993.123 đồng Thông báo nộp lệ phí trước bạ nhà đất số: 2379/TB-CTDAN
ngày 14/10/2022 số tiền 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, đến nay Công ty Đ vẫn chưa nộp
các khoản tiền này vào ngân sách nhà nước. Sở Xây dựng thành phố Đ đã Công
văn số: 9979/SXD-TTS ngày 28/12/2022 với nội dung: “Đối với dự án khu dân T,
Sở Xây dựng chưa ban hành thông báo nhà ở thương mại hình thành trong tương lai đủ
điều kiện được huy động thông qua hình thức góp vốn, hợp tác đầu tư, hợp tác kinh
doanh, liên doanh, liên kết của các tổ chức, hộ gia đình, nhân”. Tại Quyết định x
phạt vi phạm hành chính số: 1369/QĐ-XPHC ngày 20/5/2022 của UBND thành phố Đ
về việc xử phạt hành chính đối với Công ty Đ với hành vi huy động vốn không đúng
quy định, cụ thể: “Chủ đầu Công ty Cổ phần Đ đã thực hiện huy động vốn từ các
cá nhân/tổ chức thông qua ký kết “Hợp đồng góp vốn” và “Thỏa thuận góp vốn” tại dự
án Khu dân T khi chưa Thông báo đủ điều kiện được huy động vốn của Sở xây
dựng không đúng quy định tại khoản 3 Điều 19 Nghị định số: 99/2015/NĐ-CP ngày
20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
nhà ở”. Như vậy, việc cấp sơ thẩm xác định tại thời điểm ký kết, Hợp đồng góp vốn số:
1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 vi phạm khoản 2 Điều
168, Điều 188, Điều 194 Luật Đất đai; khoản 5 Điều 8, Điều 31 và Điều 32 Luật Kinh
doanh bất động sản và khoản 3 Điều 19 Nghị định số: 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015
của Chính phủ nên bị hiệu theo quy định tại Điều 117, Điều 122, Điều 123, Điều
407, Điều 501 Bộ luật Dân shoàn toàn căn cứ. Theo quy định tại khoản 2 Điều
131 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi xác định Hợp đồng góp vốn vô hiệu thì các bên hoàn
trả cho nhau những đã nhận. Như vậy, Công ty Đ phải trả lại cho ông Thế T2 số
tiền đã nhận là 1.357.200.000 đồng/02 lô. Tuy nhiên, phải xét lỗi làm cho hợp đồng góp
vốn vô hiệu và nghĩa vụ bồi thường của các bên. Ở đây, từ khi ký kết hợp đồng góp vốn
thì dự án Khu dân cư T mới được cấp Giấy chứng nhận là đất thương mại dịch vụ; chưa
thực hiện nghĩa vụ chuyển đối mục đích; đến thời điểm hiện nay vẫn chưa đủ điều kiện
được bán chưa được ban hành thông báo nhà thương mại đủ điều kiện được huy
12
động vốn thông qua hình thức góp vốn. Tuy nhiên, tại Điều 3.2 Điều 3.3 Hợp đồng
góp vốn dán khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày
14/5/2018 thỏa thuận “Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày thỏa thuận góp vốn hai
bên stiến hành công chứng hợp đồng chuyển nhượng” “Trong thời hạn 60 ngày làm
việc kể từ ngày hai bên công chứng hợp đồng chuyển nhượng, bên A sẽ giao cho bên B
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bên B”. Như vậy, Công ty Đ biết tính
pháp của dự án nhưng đưa ra thời hạn không khả năng thực hiện trong hợp đồng.
Đồng thời, ông T2 không đủ điều kiện khả năng để tìm hiểu tính pháp của dự
án, hoàn toàn tin tưởng vào các thông tin do Công ty Đ đưa ra. Hậu quả dự án Khu
dân T bị ảnh hưởng bởi khoản 17 Điều 1 Nghị định số: 148/2020/NĐ-CP ngày
18/12/2020 của Chính phủ (có hiệu lực từ ngày 08/02/2021), sửa đổi Điều 41 của Nghị
định số: 43/2014/NĐ-CP, cụ thể: Chủ đầu dự án xây dựng kinh doanh nhà đbán
hoặc để bán kết hợp cho thuê được chuyển nhượng quyền sdụng đất dưới hình thức
phân lô, bán nền tại khu vực không nằm trong địa bàn các phường của các đô thị loại
đặc biệt đô thị loại I trực thuộc Trung ương ...”. Việc Công ty Đ cho rằng do
khách quan trong quá trình thực hiện các trình tự, thủ tục pháp Dự án, trong đó gồm
sự thay đổi quy hoạch và các yêu cầu rà soát, yêu cầu điều chỉnh từ các cơ quan có thẩm
quyền; các trở ngại khách quan từ tình hình dịch bệnh (Covid-19) kể từ đầu năm 2020
cho tới nay là không cơ sở. Do đó, cấp sơ thẩm xác định Công ty Đ phải có nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại cho ông Thế T2 theo như quy định tại khoản 4 Điều 131
Điều 407 Bộ luật Dân sự hoàn toàn căn cứ. Căn cứ khoản 7.2 Điều 7 Hợp đồng
góp vốn số: 1718/HĐGV-PGT-PC và 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 giữa Công
ty Cổ phần Đ ông Thế T2 các bên đã thỏa thuận nếu Công ty Đ quá hạn vthởi
gian công chứng hợp đồng thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo mức lãi suất
vay vốn kinh doanh của một trong các Ngân hàng thương mại đóng trên địa bàn d
án đang thực hiện, tiền lãi được tính từ thời điểm góp vốn mà được cấp sơ thẩm thu thập
tại giai đoạn thẩm tại Công văn số: 311/CV/CNBĐN-TH ngày 25/6/2024 của Ngân
hàng TMCP C3 Chi nhánh Đ2 thì lãi suất cho vay kinh doanh bất động sản trung
dài hạn từ năm 2018 - năm 2022 11%/năm; từ năm 2023 m 2024 là 14%. Do đó,
số tiền Công ty Đ nghĩa vụ trả lại cho ông Vũ Thế T2 1.357.200.000 đồng bồi
thường thiệt hại từ ngày 26/4/2018 đến ngày xét xử thẩm, ngày 09/7/2024 với tổng
số tiền lãi 985.333.808 đồng. Tổng cộng nợ gốc lãi 2.342.533.808 đồng hoàn
toàn đúng quy định của pháp luật.
[2] Đối với Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 111/2019/HĐMB-PVB-
CNĐN ngày 17/5/2019 giữa Ngân hàng TMCP Đ1, chi nhánh Đ2 Công ty Đ, Hội
đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Theo quy định tại Điều 319 Bộ luật Dân sự thì cấp
thẩm đã nhận định tại thời điểm ký kết hợp đồng thế chấp, thửa đất số 38, tờ bản đồ số
20 đã Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quyền sử dụng đất không tranh chấp,
không bị kê biên để đảm bảo thi hành án, trong thời hạn sử dụng đất, đáp ứng điều kiện
tham gia giao dịch tại khoản 1 Điều 168, Điều 188 Luật Đất đai là hoàn toàn đúng. Việc
13
thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định tại Điều 323 Bộ luật Dân sự
nên giá trị pháp lý, phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm
đăng ký là có căn cứ.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của ông Thế T2 người
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông T2 yêu cầu hủy toàn bộ bản án thẩm,
chuyển vụ án về Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xét xử lại theo hướng chấp nhận toàn
bộ yêu cầu kháng cáo của ông. HĐXX phúc thẩm xét thấy: Đối với Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính số: 3612/QĐ-XPHC ngày 04/12/2023 của UBND quận L Quyết
định xử phạt hành chính số: 1369/QĐ-XPHC ngày 20/5/2022 cuả UBND thành phố Đ
đều là quyết định hành chính. Đối tượng giải quyết tranh chấp là Quyết định hành chính,
trong khi đó vụ án này đang giải quyết tranh chấp là yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng
và đối tượng giải quyết là quyền sử dụng đất. Trong quá trình cơ quan nhà nước có thẩm
thẩm ra quyết định xử phạt, Công ty Đ không khiếu nại đối với các quyết định đó
và nếu có khiếu nại thì thuộc thủ tục giải quyết khiếu nại. Do đó, việc cấp thẩm chưa
thu thập đầy đủ không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Hơn nữa, việc thu
thập định giá tài sản là biện pháp thu thập để nhằm đưa ra phương án giải quyết nào cho
hợp và đúng pháp luật cho việc bồi thường thiệt hại. Do đó, việc cấp thẩm không
sử dụng kết quả định giá mà áp dụng phương thức tính lãi theo quy định của pháp luật
cũng là phù hợp. Do đó, HĐXX phúc thẩm xét thấy quan điểm của Luật sư là không phù
hợp với nhận định của HĐXX nên không chấp nhận.
[4] Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy không sở chấp nhận kháng
cáo của Công ty Đ về việc xem xét lại số tiền bồi thường cho ông Vũ Thế T2 không
cơ sở chấp nhận kháng cáo của ông Vũ Thế T2 về việc hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm.
[5] Về chi phi tố tụng: Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ 2.000.000 đồng;
Chi phí thẩm định giá 17.000.000 đồng nguyên đơn Công ty Đ chịu (Đã nộp và đã
chi xong). Các đương sự không có kháng cáo nên HĐXX không xem xét.
[6] Án phí DSST: Công ty Đ phải chịu án phí đối với yêu cầu giải quyết hậu quả
của hợp đồng vô hiệu là: 78.850.676 đồng. Ông Vũ Thế T2 phải chịu án phí đối với yêu
cầu khởi kiện về việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu của nguyên đơn Công ty Đ được
chấp nhận là 300.000 đồng và phải chịu án phí đối với yêu cầu phản tố về việc tiếp tục
thực hiện hợp đồng góp vốn yêu cầu tuyên bhợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
vô hiệu không được Tòa án chấp nhận là 300.000 đồng.
[7] Do không chấp nhận kháng cáo nên Công ty Đ ông Thế T2 phải chịu
án phí DSPT.
[8] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự giai đoạn phúc thẩm đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, hủy Bản án
thẩm số: 41/2024/DSST ngày 09 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân quận Liên
Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ
án theo thủ tục sơ thẩm.
14
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 122, 123; 131; 407; 500;
501 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 12; khoản 2 Điều 168; Điều 188, Điều 194
Luật Đất Đai năm 2013; Điều 8, 29, 31, 32 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014;
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án.
I. Không chấp nhận kháng cáo của Công ty Cổ phần Đ về việc xem xét lại số tiền
bồi thường cho ông Vũ Thế T2.
II. Không chấp nhận kháng cáo của ông Thế T2 về việc hủy toàn bộ Bản án
thẩm số: 41/2024/DSST ngày 09/7/2024 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu,
thành phố Đà Nẵng, giao về cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm’’.
III. Giữ nguyên Bản án thẩm số: 41/2024/DSST ngày 09 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Đ về việc “Yêu
cầu tuyên bố hợp đồng góp vốn hiệu giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu”.
Tuyên:
1.1. Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC
1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 được kết giữa Công ty Cổ phần Đ ông
Thế T2 vô hiệu.
1.2. Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn trả cho ông Vũ Thế T2 số tiền góp vốn là
2.342.533.808 đồng; trong đó tiền góp vốn 1.357.200.000 đồng, tiền bồi thường thiệt
hại là 985.333.808 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
II. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Thế T2 về việc “Yêu
cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng góp vốn yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất vô hiệu”, gồm:
1. Buộc Công ty Cổ phần Đ tiếp tục thực hiện Thỏa thuận tại Hợp đồng góp vốn
dự án khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018
được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Thế T2 theo hướng:
a. Sửa đổi 02 Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số: 1718/HĐGV-PGT-PC
1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 được kết giữa Công ty Đ ông Thế T2
để cân bằng quyền lợi ích của hai bên do hoàn cảnh thay đổi bản với các yêu cầu
sửa đổi như sau:
15
- Buộc Công ty Cổ phần Đ phải tiến hành tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng
hiện có trên lô đất số 36, 40 - Khu A2 dự án KDC T.
- Tuyên ông Thế T2 được quyền xây dựng chịu chi phí xây dựng nhà trên
đất số 36, số D - Khu A dự án KDC T, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng theo
thiết kế đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
- Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn thiện các điều kiện pháp lý để đất s36,
số D - Khu A2 dự án KDC T và công trình trên đất đủ điều kiện chuyển nhượng cho
ông Thế T2 theo quy định của pháp luật với giá trị quyền sử dụng đất giữ nguyên
trong Thỏa thuận góp vốn đã ký kết.
- Buộc Công ty Cổ phần Đ liên hệ UBND thành phố Đ, Sở Xây dựng thành phố
Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L các quan liên
quan lập các thủ tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất cho ông Vũ Thế T2 đối với nhà và đất tại lô đất số 36, số D
- Khu A2 dự án KDC T.
b. Các điều khoản không sửa đổi tại 02 Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số:
1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC ngày 14/5/2018 được ký kết giữa Công
ty Cổ phần Đ ông Vũ Thế T2 đã có hiệu lực pháp luật tiếp tục được thực hiện.
2. Tuyên ông Thế T2 được quyền chủ động liên hệ với UBND thành phố Đ,
Sở Xây dựng Tp Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L
các quan liên quan để thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất đối với nhà đất tại lô đất số 36, số D -
Khu A2 dự án KDC T sau khi trả phần gtrị đất còn lại theo Thỏa thuận tại 02 Hợp
đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1718/HĐGV-PGT-PC 1730/HĐGV-PGT-PC
ngày 14/5/2018 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Thế T2.
3. Tuyên Hợp đồng thế chấp quyền s dụng đất số: 111/2019/HĐMB-PVB-
CNĐN ngày 17/5/2019 giữa Ngân hàng TMCP Đ1, chi nhánh Đ2 Công ty Cổ phần
Đ được công chứng tại Văn phòng C2, công chứng số 7316, quyển số 01 TP/CC-
SCC/HĐGD liên quan dến diện tích đất tại KDC T thửa đất số 38, tờ bản đồ số 20, địa
chỉ Lô B Khu tái định cư V - N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng là vô hiệu.
III. Về chi phí tố tụng: Không đề cập đến.
IV. Án phí DSST: Công ty Cổ phần Đ phải chịu tiền án phí 78.850.676 đồng
nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu
số 0000339 ngày 05/4/2022 26.358.000 đồng biên lai thu số 0000872 ngày
25/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Công
ty Cổ phần Đ còn phải tiếp tục nộp số tiền 52.192.676 đồng. Ông Thế T2 phải chịu
600.000 đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp
theo biên lai thu số 0005421 ngày 05/9/2022 và 300.000 đồng số tiền tạm ứng án phí đã
nộp theo biên lai thu số 0001063 ngày 03/8/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận
Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
16
V. Án phí DSPT: Công ty Cổ phần Đ phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu
trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000922 ngày
05/8/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Ông
Thế T2 phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã
nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000936 ngày 07/8/2024 tại Chi cục Thi hành án
dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu;
- Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng;
- Chi cục THA dân sự quận Liên Chiểu;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Bé
Tải về
Bản án số 214/2024/DS-PT Bản án số 214/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 214/2024/DS-PT Bản án số 214/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất