Bản án số 67/2025/DS-PT ngày 22/04/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng hợp tác
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 67/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 67/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 67/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 67/2025/DS-PT ngày 22/04/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng hợp tác |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng hợp tác |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thái Nguyên |
Số hiệu: | 67/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Sửa bản án sơ thẩm số 100/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI NGUYÊN
Bản án số: 67/2025/DS-PT
Ngày 22/4/2025
V/v “tranh chấp hợp đồng hợp
tác chăn nuôi”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Văn Giang
Các Thẩm phán: Ông Dương Văn Bản và bà Vũ Thị An.
Thư ký phiên tòa: Bà Lý Bích Ngọc - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Thái
Nguyên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên tòa: Bà
Lê Ngọc Kim Loan - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên mở
phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 205/2024/TLPT-DS
ngày 06 tháng 11 năm 2024 về việc "Tranh chấp hợp đồng hợp tác chăn nuôi".
Do bản án dân sự sơ thẩm số 100/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 285/2024/QĐXX-DS
ngày 13 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty Cổ phần S.
Trụ sở: Xóm 6, xã Sơn Cẩm, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
Đại diện theo pháp luật: Bà Hoàng Trung T, chức vụ: Giám đốc
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Đỗ Quỳnh H, nhân viên công ty
Bà Phạm Ngọc A – Luật sư công ty
(Có mặt)
Bị đơn: Ông Ngô Doãn M, sinh năm 1962.
Địa chỉ: Xóm V, xã C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông M: Ông Ngô Xuân T1, sinh năm 1982.
Địa chỉ: Xóm V, xã C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
(Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông M: Ông Nguyễn Văn T2 –
Tư vấn viên Trung tâm T5.
Địa chỉ: Tổ D, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên
(Có mặt)
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Ngô Xuân T1, sinh năm 1982.
Địa chỉ: Xóm V, xã C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
(Có mặt)
+ Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1964.
Địa chỉ: Xóm V, xã C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Đ: Ông Ngô Xuân T1, sinh năm 1982.
Địa chỉ: Xóm V, xã C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
(Có mặt)
Người làm chứng: Bà Phùng Thị H1, sinh năm 1998.
Địa chỉ: Tổ C, phường C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên
(Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các bản khai tại Tòa án và tại phiên toà người được uỷ
quyền của nguyên đơn trình bày: Công ty Cổ phần S (viết tắt Công ty S) và ông
Ngô Doãn M có hợp tác chăn nuôi gà với nhau và các bên có ký kết hợp đồng hợp
tác, thể hiện tại Hợp đồng hợp tác chăn nuôi ngày 13/4/2021 và Phụ lục hợp đồng
kèm theo giữa Công ty S với ông Ngô Doãn M. Về nội dung hợp đồng thì Công ty S
cung cấp gà giống, số lượng nuôi được quy định tại Phụ lục hợp đồng, thuốc thú ý,
thức ăn chăn nuôi. Ông M chủ trang trại lo hệ thống chuồng trại; chủ trang trại phải
đặt cọc tiền giống. Thời hạn hợp đồng là 1 năm kể từ ngày ký kết và sẽ tự động gia
hạn. Tiền công: Công ty S sẽ trả cho chủ trại là 6.000đ/kg gà đối với gà thịt;
5.000đ/kg đối với gà mái nướng, lẩu. Ngoài ra, còn quy định về quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia hợp đồng, quy định về tỷ lệ thức ăn, tỷ lệ thuốc thú y, tỷ lệ gà
chết được tính theo tỷ lệ phần trăm, điều kiện chấm dứt hợp đồng, xử lý tài sản.
Do ông Ngô Doãn M không đặt tiền cọc, nhưng có thoả thuận với Công ty là
đồng ý trả lãi suất là 1%/tháng. Tại Biên bản giao nhận tiền cọc ngày 13/4/2021 ông
M đồng ý trả lãi suất là 1%/100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) từ là 1.000.000
đồng/1 tháng khi thanh toán công mỗi lứa. Đồng thời ông M có bàn giao cho Công
ty S (hai) bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 230196 cấp ngày
14/10/2009 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 230248 cấp ngày
19/10/2009 cùng mang tên hộ Ngô Doãn M và bà Nguyễn Thị Đ. Việc giao nhận
giấy tờ trên cho Công ty S là để làm tin đảm bảo cho việc thả gà vào trang trại của
ông M.
Quá trình thực hiện hợp đồng từ năm 2021 đến đầu năm 2022 thì giữa Công
ty S và ông Ngô Doãn M vẫn thực hiện theo đúng quy định trong hợp đồng hợp tác
chăn nuôi đã ký kết. Tuy nhiên, đối với lứa gà vào 03/01/2022 và lứa gà vào ngày
13/01/2022, sau khi hoàn thành việc gia công chăn nuôi, xuất bán gà thì gia đình
ông M không đến Công ty S để đối chiếu công nợ. Đồng thời gia đình ông M tự ý
nuôi các con giống khác trong chuồng trại không được sự đồng ý của Công ty S.
Theo Điều 6 của Hợp đồng hợp tác chăn nuôi ngày 13/4/2021 thì Công ty S chấm
dứt hợp đồng với ông Ngô Doãn M.
Đồng thời, trong quá trình hợp tác chăn nuôi với nhau trước đây (trước năm
2021) thì ông M và Công ty S đã tiến hành hợp tác chăn nuôi gà với nhau. Năm
2020 thì do gà bị dịch bệnh phải tiêu huỷ. Phía Công ty S và ông Ngô Doãn M đã
thống nhất thoả thuận cùng chia sẻ thiệt hại với Công ty với số tiền thiệt hại là
400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng). Trong Biên bản giao nhận giấy tờ ngày
13/4/2021 cũng có thể hiện nội dung “Ngày 13/4/2021 thống nhất chia sẻ tiền âm
của lứa trước số tiền là 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng) trừ vào công mỗi
lứa 30 triệu đồng/1 chuồng/1 lứa (8 – 15k)”.
Trong quá trình hợp tác chăn nuôi thì số tiền 400.000.000 đồng (tiền chia sẻ
thiệt hại) đã được trừ vào tiền công các lứa gà, cụ thể: Lứa gà vào ngày 19/4/2021
và lứa gà vào 26/4/2021 là 50.000.000 đồng; L gà vào ngày 30/8/2021 là 20.000.000
đồng; Lứa gà vào ngày 06/9/2021 là 20.000.000 đồng; Lứa gà vào ngày 16/9/2021
là 20.000.000 đồng. Tổng số tiền đã trừ vào cho các lứa là 110.000.000 đồng (một
trăm mười triệu đồng). Đến nay số tiền âm (tiền chia sẻ thiệt hại) còn lại là
290.000.000 đồng (hai trăm chín mươi triệu đồng).
Công ty S khởi kiện buộc ông Ngô Doãn M phải trả số tiền 290.000.000 đồng
(hai trăm chín mươi triệu đồng) tiền chia sẻ tiền âm; tiền nợ các lứa gà vào ngày
03/01/2022 và lứa gà vào ngày 13/01/2022 là 195.586.000 đồng (một trăm chín
mươi lăm triệu, năm trăm tám mươi sáu nghìn đồng). Tổng số tiền Công ty yêu cầu
ông M phải trả là 485.586.000 đồng (bốn trăm tám mươi lăm triệu, năm trăm tám
mươi sáu nghìn đồng).
Ý kiến của bị đơn Ngô Doãn M, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông
Ngô Xuân T1, bà Nguyễn Thị Đ và người đại diện theo uỷ quyền trình bày:
Khoảng năm 2015 – 2016 thì giữa ông Ngô Doãn M và Công ty S có hợp tác
chăn nuôi gà với nhau, tuy nhiên các bên không lập hợp đồng về việc chăn nuôi gà.
Ngày 13/4/2021 thì ông M và Công ty S có ký Hợp đồng hợp tác chăn nuôi gà.
Ngày 13/4/2021 ông M có ký với Công ty S việc giao nhận tiền cọc, thể hiện là ông
M đồng ý trả lãi suất là 1%/100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) từ là 1.000.000
đồng/ 1 tháng khi thanh toán công mỗi lứa.
Cùng ngày 13/4/2021 ông M có bàn giao cho Công ty S (hai) bản chính giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 230196 cấp ngày 14/10/2009 và giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đất số AO 230248 cấp ngày 19/10/2009 cùng mang tên hộ
Ngô Doãn M và bà Nguyễn Thị Đ. Việc giao nhận giấy tờ trên cho Công ty S là để
làm tin đảm bảo cho việc thả gà vào trang trại. Hai bên không làm hợp đồng thế
chấp tài sản là quyền sử dụng đất trong 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên.
Quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên thực hiện đều theo quy định. Đến năm
2020 thì do bị dịch bệnh cả vùng nên gà phải bị tiêu huỷ hết. Phía Công ty S đến
trao đổi với gia đình ông M là lứa gà dịch thì Công ty S bị thiệt hại, có thoả thuận
với gia đình ông M là phía chủ trang trại sẽ cùng chia sẻ thiệt hại với Công ty S với
số tiền là 400.000.000 đồng. Trong Biên bản giao nhận giấy tờ ngày 13/4/2021 cũng
có thể hiện nội dung “Ngày 13/4/2021 thống nhất chia sẻ tiền âm của lứa trước số
tiền là 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng) trừ vào công mỗi lứa 30 triệu
đồng/1 chuồng/1 lứa (8 – 15k)”.
Trong quá trình hợp tác chăn nuôi thì số tiền 400.000.000 đồng (tiền chia sẻ
thiệt hại) đã được trừ vào tiền công các lứa gà, số tiền đã trừ vào cho các lứa là
110.000.000 đồng. Đến nay số tiền âm còn lại là 290.000.000 đồng (hai trăm chín
mươi triệu đồng).
Công ty S có vào gà cho trang trại chúng tôi đối với lứa vào ngày 03/01/2022
và vào ngày 13/01/2022. Chúng tôi chưa chốt bảng công với nhau.
Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty S: Yêu cầu Công ty S phải cung cấp
bảng tính tiền gia công chăn nuôi các lứa 03/01/2022 và 13/01/2022. Yêu cầu chốt
sản lượng gà bán ra để tính tiền công. Đối với số tiền 290.000.000 đồng, theo thoả
thuận là có nuôi gà thì có chia sẻ, còn không nuôi gà thì không chia sẻ thiệt hại. Yêu
cầu tính phần vượt tiền cám, tiền thuốc cho chúng tôi, yêu cầu có hoá đơn. Đối với
số lượng gà chết 3 lứa, tôi yêu cầu tính theo hợp đồng hợp tác ngày 13/4/2021.
Với nội dung nêu trên, tại bản án số 100/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã xét xử và quyết
định:
Căn cứ Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều
271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 357, 385, 398, 399, 400, 401, 403,
422, 428, 429, 504, 505, 512 Bộ luật Dân sự; Luật Người cao tuổi; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần S. Buộc
ông Ngô Doãn M có trách nhiệm trả cho Công ty Cổ phần S số tiền là 485.586.000
đồng (bốn trăm tám mươi lăm triệu, năm trăm tám mươi sáu nghìn đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải
thi hành án chậm thi hành án thì phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm thi hành án
theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các
đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 07/10/2024 ông Ngô Doãn M kháng cáo bản án sơ thẩm. Yêu cầu sửa
toàn bộ bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên. Theo hướng
bác yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Người đại diện theo uỷ quyền của ông Ngô Doãn M và người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của ông Ngô Doãn M yêu cầu nguyên đơn cung cấp các số liệu
về hợp tác chăn nuôi giữa ông M và Công ty để làm cơ sở cho việc tính toán, giải
quyết công nợ của 02 bên.
Người đại diện theo uỷ quyền của Công ty S cung cấp cho Hội đồng xét xử
02 bảng thanh toán phí gia công của 02 lứa gà ngày 03/01/2022 và 13/01/2022 có
đóng dấu treo của công ty, có chữ ký của người lập Hoàng Thị Kim T3, kế toán
trưởng Hoàng Thị Kim T3, Lãnh đạo ký duyệt công Lại Thị T4. Đồng thời đề nghị
sử dụng biểu giá từng loại gà mà công ty đã bán (Bản phô tô) đã nộp có trong hồ sơ
vụ án để làm cơ sở giải quyết (Bút lục từ 112-121). Công ty sẽ trừ đi số tiền công
và tiền chia sẻ giá bán gà mà ông M được hưởng. Còn thừa thiếu bao nhiêu thì yêu
cầu ông M phải trả lại cho công ty các khoản tiền đã ký và số tiền chia sẻ thiệt hại
(Tiền nợ) các lứa trước đã chốt 290.000.000đ.
Tại phiên toà, giữa đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn và đại diện theo
uỷ quyền của bị đơn thống nhất được: Số gà vào để chăn nuôi: 39.500 con; Tỷ lệ gà
chết 5%; Số gà xuất bán 76.267,9kg; Số cám dư 19.799kg X 11.700đ/kg =
231.648.300đ; Số thuốc thu ý và V dư là 244.342.200đ; Tiền lãi của khoản tiền đặt
cọc ông M phải trả cho Công ty S 6.200.000đ. Không thống nhất được loại gà xuất
bán là gà thịt hay gà nướng lẩu, tiền công ông M được hưởng, tiền chia sẻ lợi nhuận
và không thống nhất được tiền chia sẻ thiệt hại các lứa trước (Tiền nợ)
290.000.000đ.
Đại diện theo uỷ quyền của Công ty S cho rằng số gà đã xuất bán từ trại của
ông M là gà thịt, ông M được hưởng công là 6.000đ/kg và tiền chênh lệch mà ông M
được hưởng 50% tiền chênh lệch giá bán vượt quá 62.000đ/kg theo biểu giá từng
loại gà mà công ty đã bán (Bản phô tô) đã nộp có trong hồ sơ vụ án là 5.211.300đ.
Còn số tiền mà ông M đã nhận nợ, chia sẻ rủi ro của những đàn trước, ông M đã
thực hiện được 1 phần là 110.000.000đ, còn lại 290.000.000đ ông M phải có nghĩa
vụ thực hiện, trả cho Công ty S.
Đại diện theo uỷ quyền của ông M và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của ông M cho rằng, toàn bộ số gà mà bị đơn đã hợp tác và chăn nuôi, Công ty S đã
xuất bán, ông M đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm của phía người nuôi. Số gà đã xuất
bán của lứa ngày 03/01/2022 được nuôi 93 ngày, lứa gà ngày 13/01/2022 được nuôi
91 ngày. Cả 02 lứa gà này không đủ điều kiện là gà thịt theo hợp đồng đã ký là 95-
110 ngày, trong khi gà nướng lẩu là 65-80 ngày. Toàn bộ số cám và thuốc thú y ông
M đã phải chịu trách nhiệm. Do đó, toàn bộ số gà đã xuất bán của cả 02 lứa ngày
03/01/2022 và ngày 13/01/2022 được tính là gà nướng lẩu, ông M được hưởng công
là 5.000đ/kg và hưởng 50% tiền chênh lệch giá bán vượt quá 52.000đ/kg theo biểu
giá từng loại gà mà công ty đã bán (Bản phô tô) đã nộp có trong hồ sơ vụ án để làm
cơ sở giải quyết (Bút lục từ 1) là 225.265.825đ. Còn số tiền mà ông M đã nhận nợ,
chia sẻ rủi ro của những đàn trước là 400.000.000đ, ông M đã thực hiện được 1
phần là đã trừ 110.000.000đ vào công của các lứa gà ngày 19/4/2021; 26/4/2021;
30/8/2021; 06/9/2021 và ngày 16/9/2021. Nay giữa ông M và Công ty S không còn
hợp tác chăn nuôi với nhau nữa, Công ty S yêu cầu ông M phải trả 290.000.000đ,
ông M không đồng ý trả.
Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà: Trong quá trình giải quyết vụ án
từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi nghị án Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã
thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Các đương sự chấp
hành đúng các quy định của pháp luật.
Về nội dung: Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm. Đối trừ nghĩa vụ
của ông M với Công ty S, buộc ông Ngô Doãn M phải có trách nhiệm trả cho Công
ty S số tiền là 165.585.175 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh
tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông Ngô Doãn M làm trong thời hạn luật định,
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định. Đủ điều kiện để được xem xét
giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của ông Ngô Doãn M.
Ngày 13/4/2021, Công ty Cổ phần S (gọi tắt Công ty S) và ông Ngô Doãn M
ký kết Hợp đồng hợp tác chăn nuôi gà không số và Phụ lục hợp đồng kèm theo.
Quá trình thực hiện hợp đồng từ năm 2021 đến đầu năm 2022 thì giữa Công
ty S và ông Ngô Doãn M đã hợp tác, chăn nuôi các lứa gà ngày 19/4/2021;
26/4/2021; 30/8/2021; 06/9/2021 và ngày 16/9/2021. Công ty và ông M đã thanh
toán xong, đồng thời đã trừ tiền chia sẻ thiệt hại theo thoả thuận với tổng số tiền
110.000.000 đồng (một trăm mười triệu đồng).
Lứa gà vào ngày 03/01/2022 (Bao gồm cả gà thả vào chuồng ngày
06/01/2022) và lứa gà vào ngày 13/01/2022 giữa Công ty S và ông M chưa đối
chiếu và thanh toán cho nhau. Do vậy, Công ty S khởi kiện yêu cầu Toà án giải
quyết là đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ
thẩm Công ty S đã cung cấp biểu giá từng loại gà mà công ty đã bán (Bản phô tô) đã
nộp có trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết (Bút lục từ 112-121).
Tại phiên toà phúc thẩm người được uỷ quyền của Công ty S cung cấp 02
bảng thanh toán phí gia công có đóng dấu treo của Công ty S.
Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn và đại diện theo uỷ quyền của bị đơn
thống nhất được tổng số gà, số vật tư mà Công ty S đã đưa vào chuồng của ông M
bao gồm: Số lượng gà nuôi; Tỷ lệ gà chết 5%; Số tiền cám dư; Số tiền thuốc dư; số
gà xuất bán và số lượng gà bán/giá (Theo biểu phô tô của Công ty đã cung cấp có
trong hồ sơ vụ án); Tiền lãi của khoản tiền đặt cọc ông M phải trả cho Công ty S.
Xét thấy, Hợp đồng đã ký giữa 02 bên không trái đạo đức xã hội, không trái
pháp luật. Do vậy, các bên phải thực hiện theo hợp đồng đã ký. Từ bảng bảng thanh
toán phí gia công được đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn nộp tại phiên toà và
bảng bán gà (phô tô) mà nguyên đơn đã nộp có trong hồ sơ vụ án, theo hợp đồng đã
ký. Số gà thực bán lứa ngày 03/01/2022 (Bao gồm cả gà thả vào chuồng ngày
06/01/2022) đều được tính là nuôi là 93 ngày và lứa gà ngày 13/01/2022 được nuôi
là 91 ngày, được 02 bên thừa nhận. Thời gian nuôi thực tế của 02 lứa gà trên đều
không phù hợp với thời gian nuôi của hợp đồng quy định. Hơn nữa, tại thời điểm
Công ty S bán gà, thì giữa Công ty S và ông M không xác định, đối chiếu, phân loại
gà theo hợp đồng đã ký. Do vậy, lời khai của đại diện theo uỷ quyền của bị đơn và
quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là có cơ sở để
chấp nhận. Theo đó, tiền công ông M được hưởng chỉ được tính 5.000đ/01 kg là
381.339.500đ, đồng thời ông M chỉ được hưởng số tiền chênh lệch 50% từ số gà
Công ty S đã bán trên 52.000
đ
/kg theo Biểu của công ty có trong hồ sơ là
225.265.825đ, tổng số tiền 606.605.325đ. Tuy nhiên, ông M phải có trách nhiệm trả
toàn bộ tiền cám dư, thuốc thú y và V1 xin dư, tiền lãi của số tiền đặt cọc cho Công
ty S là 482.190.500đ. Đối với số tiền chia sẻ thiệt hại của việc hợp tác giữa Công ty
S và ông M trước đây được cả 02 bên thống nhất và thoả thuận ngày 13/4/2021 phải
được hiểu là ông M đã nhận nợ với Công ty S, thực tế ông M đã thực hiện được một
phần là 110.000.000đ, nay Công ty S yêu cầu ông M phải trả nợ chưa thanh toán số
tiền là 290.000.000đ là có căn cứ. Tổng số tiền ông M phải trả cho Công ty S là
772.190.500đ.
Đối trừ các nghĩa vụ ông Ngô Doãn M và Công ty S. Buộc ông Ngô Doãn M
phải trả cho Công ty S số tiền chênh lệch là phù hợp, đúng pháp luật.
Đối với 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp AO 230196 cấp
ngày 14/10/2009 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 230248 cấp ngày
19/10/2009 cùng mang tên hộ Ngô Doãn M và bà Nguyễn Thị Đ, ông M đã giao cho
Công ty S để làm tin. Nay đại diện theo uỷ quyền của bị đơn vẫn đồng ý để làm tin
cho đến khi ông M thanh toán xong các khoản tiền cho Công ty S, cần được ghi
nhận.
Do vậy, có cơ sở để chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ
thẩm số 100/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thái
Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Về án phí: Một phần kháng cáo của bị đơn ông Ngô Doãn M được chấp nhận.
Do vậy, ông Ngô Doãn M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Quan điểm của kiểm sát viên tại phiên toà là có căn cứ, phù hợp với thực tế và
đúng pháp luật cần được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Ngô Doãn M.
2. Sửa bản án sơ thẩm số 100/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Buộc ông Ngô Doãn M phải trả cho Công ty cổ phần S số tiền 165.585.178đ
(Một trăm sáu mươi lăm triệu lăm trăm tám mươi lăm nghìn một trăm bẩy mươi tám
đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải
thi hành án chậm thi hành án thì phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm thi hành án
theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Ngô Doãn M không phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm do là người cao tuổi.
4. Ghi nhận việc người đại diện theo uỷ quyền của ông Ngô Doãn M và bà
Nguyễn Thị Đ về 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 230196 cấp ngày
14/10/2009 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 230248 cấp ngày
19/10/2009 cùng mang tên hộ Ngô Doãn M và bà Nguyễn Thị Đ mà ông M đã gửi
Công ty S cho đến khi thanh toán xong nghĩa vụ.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi
hành án, tự nguyên yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- TAND thành phố Thái Nguyên;
- Chi cục THADS thành phố Thái
Nguyên;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Hoàng Văn Giang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 103/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm