Bản án số 760/2023/HS-PT ngày 27/09/2023 của TAND cấp cao về tội tham ô tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 760/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 760/2023/HS-PT ngày 27/09/2023 của TAND cấp cao về tội tham ô tài sản
Tội danh: 278.Tội tham ô tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao
Số hiệu: 760/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Đỗ Chế L tội tham ô tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 760/2023/HS-PT
Ngày: 27 - 9 - 2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Hà Huy Cầu
Các Thẩm phán: Bà Huỳnh Thanh Duyên
Ông Phan Đức Phương
- Thư ký phiên tòa: Trần Thị Kim Yến Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Lê Công Thành - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 27 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số
491/2023/TLPT-HS ngày 07 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo Đỗ Chế L do
kháng cáo của bị cáo kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh đối với Bản án hình sự thẩm số: 241/2023/HS-ST
ngày 24 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng nghị: Đỗ Chế L, sinh năm 1987 tại Đ; nơi
thường trú: thôn A, E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắc; nghề nghiệp: Tài xế; trình
độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt
Nam; con ông Đỗ Quang L1 bà Nguyễn Thị B; vợ 01 con; tiền án:
không; tiền sự: không; nhân thân:
+ Tại Bản án số 02/2011/HSST ngày 28/01/2011 của Tòa án nhân dân
huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắc xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Cưỡng đoạt
tài sản”, đến ngày 14/01/2012 chấp hành xong hình phạt tù;
+ Tại Bản án số 83/2013/HSST ngày 28/3/2013 của Tòa án nhân dân quận
Thủ Đức (nay là thành phố T) Thành phố Hồ Chí Minh) xử phạt 02 năm về
tội Trộm cắp tài sản” đến ngày 28/7/2014 chấp hành xong hình phạt tù, chấp
hành xong việc đóng án phí ngày 04/7/2013.
Bị tạm giam từ ngày 17/8/2022 (có mặt)
- Bị hại: Công ty trách nhiệm hữu hạn T, địa chỉ trụ sở: số B đường T,
Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Trương Thị Huỳnh L2, chức vụ Giám
đốc (xin xét xử vắng mặt)
2
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Công ty trách nhiệm
hữu hạn K, địa chỉ trụ sở: X, K3-2, K3-3, K3-4, Khu công nghiệp T mở rộng, thị
trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Leung Lai S, chức vụ Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Dịp Cắm D (theo văn bản ủy quyền lập
ngày 06/4/2021 (có mặt)
- Người làm chứng:
1. Ông Trần Hoàng V (vắng mặt)
Địa chỉ: khu phố K, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
2. Ông Nguyễn Tấn H (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện C, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ vụ ándiễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 06/4/2021, Công ty trách nhiệm hữu hạn K (viết tắt Công ty K1)
địa chỉ tại xưởng X, Khu công nghiệp T, khu phố T, Thị trấn C, huyện C, tỉnh
Long An, thuê Công ty trách nhiệm hữu hạn T (viết tắt Công ty T) địa chỉ tại
số B đường T, Phường A, quận G vận chuyển 21 thùng hàng gồm 240 túi xách
da mã 84864 30 da 84497 đến Công ty T1 tại Cảng C, thành phố T,
Thành phố Hồ Chí Minh để soi chiếu hàng trước khi xuất khẩu. Khoảng 11 giờ
00 phút ngày 06/4/2021, Công ty T phân công Đỗ Chế L điều khiển xe ô tải
biển số 51C - 195.13 đến Công ty K1 nhận vận chuyển số hàng hóa nêu trên.
Khoảng 12 giờ cùng ngày, tại kho hàng của Công ty K2, anh Nguyễn Tấn H (là
nhân viên xuất kho) L đã giao nhận và kiểm đếm đủ số lượng thùng hàng rồi
đưa lên xe ô tô tải nêu trên. Trên đường vận chuyển số hàng hóa nêu trên, L nảy
sinh ý định chiếm đoạt một phần hàng hóa để đem bán lấy tiền tiêu xài. Để thực
hiện ý định, khi vận chuyển đến đoạn đường Q thuộc tổ A, khu phố A, phường
T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, L dừng xe bên đường, dùng dao cắt rạch
các thùng hàng lấy mỗi thùng từ 03 - 05 cái túi xách một số da. Sau đó, L
điện thoại cho người bạn Nguyễn Văn H1 (chưa rõ lai lịch) đến nhận số hàng
hóa vừa lấy được để đem đi bán. L tiếp tục điều khiển xe ô vận chuyển hàng
hóa đến Cảng C. Tại đây, anh Trần Hoàng V (là nhân viên kiểm hàng), nhận và
kiểm tra số hàng hóa trên xe của L, phát hiện bị mất 80 cái túi xách 25 cái
bóp da, nên đã báo sự việc về Công ty K2. Dịp Cắm D (là người được Công
ty K2 y quyền) đã mời Công ty Khang Bảo Đỗ Chế L đến làm việc vsố
hàng hóa bị mất, nhưng L không thừa nhận nên bà D trình báo Cơ quan Cảnh sát
điều tra Công an huyện C, tỉnh Long An. Do vụ việc xảy ra trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh nên quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Long
An đã chuyển hvụ việc đến quan Cảnh sát điều tra ng an Thành phố
3
H. Ngày 17/8/2022, quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H bắt tạm
giam đối với Đỗ Chế L.
Kết luận định giá tài sản số 36/KLĐG ngày 27/4/2021 của Hội đồng định
giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, tỉnh Long An: Trị giá của 80 cái túi
xách và 25 cái bóp da là 148.183.600 đồng” (BL số 81).
Tại bản án hình sự thẩm số 241/2023/HS-ST ngày 24 tháng 5 năm
2023 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 353, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 48 Bộ
luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Đỗ Chế L 08 (tám) năm tù về tội “Tham ô tài sản”. Thời
hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/8/2022.
Buộc bị cáo phải trả lại số tiền 148.183.600 đồng cho Công ty trách nhiệm
hữu hạn T.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí, quyền
kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm,
- Ngày 02/6/2023 bị cáo kháng cáo với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm xét xử lại vụ án và xin giảm nhẹ hình phạt.
- Ngày 07/6/2023 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh có Quyết định số 30/KN-VKS-P2 kháng nghị phần tội danh của Bản án sơ
thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo
trình bày: Bị cáo chỉ là nhân viên bình thường, không có chức vụ quyền hạn nên
hành vi của bị cáo không phạm tội “Tham ô tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử
xem xét lại tội danh giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa rút toàn bộ
Quyết định kháng nghị số 30/KN-VKS-P2 ngày 07/6/2023 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong phần tranh luận:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố HChí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Bị cáo đã thỏa thuận với công ty T về việc vận chuyển hàng hóa, có trách
nhiệm quản lý tài sản của công ty K2 trên đường vận chuyển. Theo quy định của
Luật phòng chống tham nhũng thì hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội
“Tham ô tài sản”. Tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử đối với bị cáo
căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xkhông chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
4
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết
quả tranh luận tại phiên tòa, trên sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý
kiến của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh làm trong hạn luật định nên
hợp lệ.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa rút toàn bộ Quyết định kháng nghị
số 30/KN-VKS-P2 ngày 07/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ quy định tại Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự,
Hội đồng xét xđình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung quyết định kháng
nghị.
[3] Công ty T nhận vận chuyển hàng hóa cho Công ty K2, bị cáo Đỗ Chế
L tài xế của Công ty T. Ngày 06/4/2021, bị cáo L được Công ty T phân công
điều khiển xe ô tải biển số 51C - 195.13 vận chuyển 21 thùng hàng gồm 240
túi xách da mã 84864 30 da 84497 tCông ty K2 đến Công ty T1 tại
Cảng C, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nhận hàng từ Công ty
K2, trên đường vận chuyển bị cáo L đã dừng xe tại đoạn đường Q thuộc tổ A,
khu phố A, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, chiếm đoạt 80 cái túi
xách 25 cái bóp da giá trị qua định g148.183.600 đồng rồi giao cho
Nguyễn Văn H1 đem đi tiêu thụ. Phát hiện bị mất tài sản, phía Công ty K2 đã
mời Công ty T bị cáo L làm việc. Sau đó, Công ty K2 đơn tố cáo bị cáo L
đến Cơ quan điều tra, bị cáo L đã thừa nhận hành vi chiếm đoạt số tài sản như đã
nêu trên.
Đối với đối tượng Nguyễn Văn H1 do chưa xác định được hiện đang
đâu nên quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã ra Quyết định tách
vụ án hình sự, tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Đỗ
Chế L phạm tội “Tham ô tài sản” theo Khoản 2 Điều 353 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo:
Bị cáo lái xe của công ty T, được giao nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa
từ Công ty K2 đến Công ty T1 tại Cảng C, thành phố T, Thành phố Hồ Chí
Minh, trên đường vận chuyển bị cáo L đã dừng xe dọc đường để chiếm đoạt 80
cái túi xách 25 cái bóp da giá trị qua định giá 148.183.600 đồng. Xét,
với nhiệm vụ được giao thì từ lúc hàng hóa lên xe cho đến khi đến nơi giao hàng
theo u cầu, thì hàng hóa trên thuộc quyền quản của bị cáo. Do vậy, hành vi
của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tham ô tài sản” theo khoản 2 Điều 352,
khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản
4 Điều 2 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm
5
phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng tội phạm khác vchức vụ,
khoản 2 Điều 3 của Luật Phòng, chống tham nhũng. Tòa án cấp thẩm c
định bị cáo phạm tội “Tham ô tài sản” là có căn cứ.
Hành vi của bị cáo L nguy hiểm cho hội, đã xâm phạm đến hoạt
động đúng đắn của Công ty T, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Tài
sản mà bị cáo L chiếm đoạt có trị giá như đã nêu trên dấu hiệu định khung
hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm).
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp thẩm đã nhận định bị cáo thành khẩn
khai báo đây tình tiết giảm nhtrách nhiệm hình sđược quy định tại điểm s
khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo
không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm x
phạt bị cáo mức đầu của khung hình phạt căn cứ, tương xứng với vai trò
tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
Đối với việc bị cáo cho rằng bị cáo chỉ là nhân viên lái xe, không chức
vụ quyền hạn nên hành vi của bị cáo không cấu thành tội “Tham ô tài sản”, thì
nội dung này đã được Tòa án cấp thẩm nhận định làm , nên Hội đồng xét
xử không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo.
[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của
đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
[6] Các quyết định khác ca bản án thẩm không kháng cáo, kháng
ngh đã có hiệu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng ngh.
[7] Án phí hình s phúc thẩm: Do kháng cáo không được chp nhn nên
b cáo phi chu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 348, điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015,
I. Đình chỉ xét xphúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị s30/KN-
VKS-P2 ngày 07/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh.
II. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đỗ Chế L;
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 241/2023/HS-PT ngày 24/5/2023
của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Chế L phạm tội “Tham ô tài sản”
6
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 353, điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 48
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Đỗ Chế L 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt
tính tngày 17/8/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày đđảm bảo thi
hành án.
Buộc bị cáo phải trả lại số tiền 148.183.600 đồng cho Công ty trách nhiệm
hữu hạn T.
2. Các phần quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật ktừ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
III. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đỗ Chế L phải chịu 200.000 đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân ti cao;
- VKSND cp cao ti TP.HCM
- TAND TP.HCM;
- VKSND TP.HCM;
- Cc THADS TP.HCM;
- Công an TP.HCM;
- S tư pháp TP.HCM;
- Tri tm giam CA TP.HCM;
(Tống đạt cho các b cáo (1))
-NLQ (2);
- Lưu (10) 22b (ÁnTTKY).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Hà Huy Cu
Tải về
Bản án 760/2023/HS-PT Bản án 760/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 760/2023/HS-PT Bản án 760/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất