Bản án số 06/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 của TAND huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ về tội tham ô tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 06/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 của TAND huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ về tội tham ô tài sản
Tội danh: 278.Tội tham ô tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Đoan Hùng (TAND tỉnh Phú Thọ)
Số hiệu: 06/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/01/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐOAN HÙNG
TỈNH PHÚ THỌ
Bản án số: 06/2023/HS-ST
Ngày: 13 - 01 - 2023
CNG HOÀ XÃ HI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Khanh
- Các Hội thẩm nhân dân: Ông Vũ Văn Võ
Ông Vũ Quang Yên
- Thư phiên toà: Ông Trần Minh Thắng - Thư Tòa án nhân dân huyện
Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đoan Hùng tham gia phiên tòa:
Trần Thị Minh Huệ - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh
Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ số: 52/2022/TLST-
HS ngày 14 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét x số:
02/2023/QĐXXST - HS ngày 29 tháng 12 năm 2022, đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Xuân T, sinh ngày: 16/3/1976; Nơi trú: Khu P, T, huyện
Đ, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Giáo viên; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh;
Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái: Đảng viên Đảng
công sản Việt Nam (Đình chỉ sinh hoạt Đảng ngày 28/11/2022) Con ông: Khắc Đ
(đã chết) và : Lê Thị H, sinh năm 1924; Vợ: Nguyễn Việt H, và có: 02 con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện đang tại ngoại tại T, huyện Đ, tỉnh
Phú Thọ. Có mặt
2. Họ tên: Nguyễn Kiều L, sinh ngày: 12/02/1991; Nơi thường trú: Khu T,
thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Kế toán; Trình độ văn hóa: 12/12;
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái:
Không; Con ông: Nguyễn Hồng K, sinh năm 1963 bà: Kiều Thị L, sinh năm 1963;
Chồng: Lưu Mạnh H, sinh năm 1982; Con: Chưa có;
Tiền án, tiền sự: Không
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện đang tại ngoại tại thị trấn Đ, huyện Đ,
tỉnh Phú Thọ. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Lê Thị L, sinh năm 1965. Vắng mặt.
Địa chỉ: Thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Phú Th.
+ Ông Phan Quốc T, sinh năm 1964. Vắng mặt.
Địa chỉ: Khu 5, xã M, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ.
2
- Nguyên đơn dân sự: Trường Tiểu học Q. Vắng mặt.
Đại diện nhà trường: Bà Trần Thị Hương G - Chức v: Phó Hiệu trưởng.
Địa chỉ: Xã P, huyện Đ, tỉnh Phú Th.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Ngày 29/6/2022, Công an huyện Đoan Hùng kiểm tra hoạt động chấp hành
pháp luật trong quản sử dụng tài sản của Trường Tiểu học Q, xã P, huyện Đ,
xác định, bộ chứng từ chi ngân sách năm 2017 của Trường một số chứng tchi
không đảm bảo trình tự thủ tục, không có hàng hóa được mua sắm theo 03 tờ hóa đơn
đã được quyết toán theo Quyết định số 2705/QĐ-UBND ngày 24/8/2017 của UBND
huyện Đoan Hùng về cấp bổ sung kinh phí từ nguồn dự toán Ngân sách năm 2017 hỗ
trợ cơ sở, vật chất duy trì trường đạt chuẩn quốc gia với số tiền được cấp là
170.000.000 đồng. Quá trình làm việc, Xuân T, sinh năm 1976, khu P, T,
huyện Đ, hiệu trưởng ntrường Nguyễn Kiều L, sinh năm 1991, khu T, thị trấn
Đ, huyện Đ, kế toán nhà trường thừa nhận đã sử dụng bất hợp pháp hóa đơn (mua 03
tờ hóa đơn không có hàng hóa dịch vụ kèm theo) để quyết toán. Công an huyện Đoan
Hùng đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với Xuân T Nguyễn Kiều L về
hành vi sử dụng không hợp pháp hóa đơn”. Đấu tranh mở rộng xác định vụ việc
dấu hiệu tội phạm “Tham ô tài sản”. Ngày 05/7/2022, Công an huyện Đoan Hùng
chuyển hồ vụ việc vi phạm hành chính trên đến Cơ quan CSĐT ng an huyện
Đoan Hùng để xử lý theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/7/2022, quan CSĐT Công an huyện Đoan Hùng ra Quyết định
khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can đối với Lê Xuân T và Nguyễn Kiều L
về tội “Tham ô tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 353 Bộ luật Hình sự.
Quá trình điều tra đã làm rõ nội dung vụ án như sau:
Trường Tiểu học Q là sở giáo dục công lập được thành lập theo Quyết định
số 115/QĐ-GDĐT ngày 20/7/1992 của Sở Giáo dục đào tạo tỉnh Phú Thọ, hoạt
động theo Điều lệ Trường tiểu học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục ban hành theo Thông tư
số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30/12/2010. Hiệu trưởng nhà trường Xuân T, (từ
năm 2016 đến nay). Kế toán nhà trường Nguyễn Kiều L, (từ năm 2015 đến năm
2019). Nhà trường tự chủ i chính hoạt động sử dụng 02 nguồn kinh phí gồm nguồn
tiền ngân sách nhà nước cấp nguồn tiền vận động, tài trợ từ hội hóa trong hoạt
động giáo dục.
Để duy trì Trường đạt chuẩn Quốc gia, ngày 24/8/2017, Chủ tịch UBND huyện
Đoan Hùng ban hành Quyết định số 2705/QĐ-UBND cấp bổ sung kinh phí từ nguồn
dự toán Ngân sách năm 2017 hỗ trợ cơ sở, vật chất duy trì trường đạt chuẩn quốc gia,
đối với Trường Tiểu học Q được cấp 170.000.000 đồng, chuyển trực tiếp vào tài
khoản số 9527.3.1060827 của nhà trường mở tại kho bạc nhà nước huyện Đoan Hùng
để quản sử dụng. Ngày 26/8/2017, sau khi xác nhận tiền được cấp về tài khoản
của Trường Tiểu học Q, Nguyễn Kiều L đã báo cáo Xuân T, đồng thời L xây dựng
dự toán bổ sung chi ngân sách với mục chi sử dụng số tiền được cấp bao gồm chi mua
vật tư văn phòng là 47.850.000 đồng, chi sửa chữa tài sản phục vụ công tác chuyên
3
môn (nhà cửa) là 81.300.000 đồng, chi mua sắm hàng hóa, vật tư chuyên môn từng
ngành 40.850.000 đồng. Sau khi dự toán được xây dựng, duyệt theo quy định.
Xuân T chỉ đạo Nguyễn Kiều L hoàn thiện chứng từ, quyết toán các khoản tiền sau:
- Trang bị máy tính, máy in: Ngày 08/12/2017, Trường Tiểu học Q mua 02 bộ
máy tính, 02 chiếc máy in của Công ty Cổ phần thương mại và tin học H có địa chỉ tại
số 79, Trần Quốc H, phường D, quận C, TP. Hà Nội, với số tiền 21.400.000 đồng, thể
hiện tại bộ chứng từ giấy rút tiền số 35 ngày 22/12/2017, m theo tờ hóa đơn số
0000458 ngày 08/12/2017 của Công ty Cổ phần thương mại và tin học H.
- Hợp thức chứng từ thanh toán không có hàng hóa dịch vụ kèm theo:
Tháng 10/2017, Xuân T chỉ đạo Nguyễn Kiều L mua hóa đơn vật liệu xây
dựng. L đã trực tiếp mua hóa đơn của bà Lê Thị L, sinh năm 1965, ở thị trấn Đ, huyện
Đ, với nội dung cung ứng vật liệu xây dựng, doanh số 68.400.000 đồng nhưng không
hàng hóa dịch vkèm theo, thỏa thuận số tiền mua hóa đơn 7.068.000 đồng, (
L đã nộp thuế: 1.026.000 đồng, hưởng lợi: 6.042.000 đồng). Hồ này được thể hiện
tại bộ chứng từ giấy rút dtoán ngân sách số 39 ngày 26/12/2017, kèm theo hóa đơn
số 0006977 ngày 13/10/2017 của hộ kinh doanh Thị L xuất bán cho Trường Tiểu
học Q. Số tiền L nhận lại là 61.332.000 đồng.
Tiếp tục trong tháng 10/2017, Xuân T chỉ đạo Nguyễn Kiều L mua hóa đơn
quét vôi ve. L đã trực tiếp mua hóa đơn của ông Phan Quốc T, sinh năm 1964, ở C,
huyện Đ, với nội dung mua, thuê khoán quét vôi ve, doanh số 39.350.000 đồng nhưng
không hàng hóa dịch vụ kèm theo, thỏa thuận tiền mua hóa đơn 1.967.500 đồng
(ông Tâm đã nộp thuế 1.770.750 đồng, hưởng lợi 196.750 đồng). Hồ này được
thể hiện tại bộ chứng từ giấy rút dự toán ngân sách số 33 ngày 28/12/2017, kèm theo
hóa đơn số 0034223 ngày 26/10/2017 của hộ kinh doanh Phan Quốc T xuất bán cho
Trường Tiểu học Q. Số tiền L nhận lại là 37.382.500 đồng.
Tháng 11/2017, Lê Xuân T trực tiếp liên hệ với bà Nguyễn Thị L (hiện đã chết),
giám đốc Công ty TNHHTM Ngọc N N, huyện Đ, để mua hóa đơn với số tiền
40.850.000 đồng, T chỉ đạo L làm hồ sơ chứng từ thanh toán về nội dung cung ứng
bàn ghế, doanh số 40.850.000 đồng nhưng không hàng hóa dịch vụ kèm theo, thỏa
thuận tiền mua hóa đơn 4.085.000 đồng, (Công ty TNHH TM Ngọc N đã nộp thuế
là 3.713.636đ, hưởng lợi 371.364 đồng). Hồ sơ này được thể hiện tại bộ chứng từ giấy
rút dự toán ngân sách số 32 ngày 26/12/2017, kèm theo hóa đơn số 0000396 ngày
02/11/2017 của Công ty TNHH TM Ngọc N xuất bán cho Trường Tiểu học Q. Số tiền
L nhận lại là 36.765.000 đồng.
Như vậy, L đã trực tiếp hoàn thiện các hợp đồng mua bán không thực tế,
thực hiện thao tác nghiệp vụ kế toán chuyển đến T xác nhận tài liệu kế toán,
chuyển số tiền 148.600.000 đồng trong số 170.000.000 đồng từ tài khoản số
9527.3.1060827 của Trường Tiểu học Q, mở tại Kho bạc nhà nước huyện Đoan Hùng
đến 03 sở kinh doanh trên địa bàn huyện Đoan Hùng, đã bán trái phép hóa đơn,
(không hàng hóa dịch vụ kèm theo). Đầu tháng 01/2018, L nhận lại 135.479.500
đồng tiền mặt t những người bán hóa đơn, sau khi đã trừ tiền mua hóa đơn
13.120.500 đồng. Sau đó, L báo cáo với T đã nhận tiền mặt từ tiền mua hóa đơn và đề
nghị T trích chi cho L tiền công đi lại là 6.219.500 đồng, (bao gồm trích chi 3.094.000
4
đồng trong tổng số 61.332.000 đồng nhận lại từ L; trích chi 2.360.500 đồng từ
37.382.500 đồng nhận lại từ ông Tâm và 765.000 đồng trong tổng số 36.765.000 đồng
nhận lại từ Công ty TNHH TM Ngọc N). T đồng ý, đồng thời chia cho L thêm
10.000.000 đồng. L trực tiếp đưa lại cho T 119.260.000 đồng tiền mặt, còn L giữ lại
16.219.500 đồng. Đối với số tiền L đưa, T giữ lại cho nhân T 20.000.000 đồng,
chi 18.960.00 đồng xăng xe đi lại cảm ơn cấp trên, khoản tiền nay T không tài
liệu, chứng cứ chứng minh.
Đối với khoản tiền 80.300.000 đồng n lại, T tchia cho mình 40.000.000
đồng, chia cho L 40.300.000 đồng để trả các khoản nợ T L đã sử dụng tiền cá
nhân ứng chi phục vụ công tác duy trì Trường đạt chuẩn quốc gia, cụ thể duy trì cơ
sở vật chất, giảng dạy, học tập cho nhà trường trong năm học 2016 - 2017.
Quá trình điều tra, căn cứ vào Thông số 42/2012/TT-BGDĐT ngày
23/11/2012 của Bộ giáo dục và đào tại ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng giáo dục và quy trình chu kỳ kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông, cơ
sở giáo dục thường xuyên và xác minh thực tế các cá nhân, tổ chức giao dịch hàng hóa
với T L, đồng thời xác minh với đại diện Trường Tiểu học Q xác định, các khoản
ứng chi của T và L phù hợp với các khoản chi phục vụ sở vật chất nhà trường duy
trì Trường đạt chuẩn. Trong đó, đối với số tiền T sử dụng là 40.000.000 đồng đủ căn
cứ chứng minh T thực chi 32.659.000 đồng (bao gồm chi đóng bàn ghế, tủ; sửa chữa
hệ thống điện nước; tạo cảnh quan xanh cho nhà trường …), n 7.341.000 đồng
không tài liệu chứng minh thực chi; đối với số tiền L sử dụng 40.300.000 đồng
đủ căn cứ chứng minh L thực chi 38.137.000 đồng (bao gồm chi sửa chữa thiết bị máy
tính; mua sắm công cụ, dụng cụ văn phòng …), còn 2.163.000 đồng không có tài liệu
chứng minh thực chi.
Như vậy, đối với số tiền 170.000.000 đồng Trường Tiểu học Q được UBND
huyện Đoan Hùng cấp bổ sung ngân sách, thực chi 21.400.000 đồng; đối với số
tiền 148.600.000 đồng còn lại, T L đã sử dụng 13.120.500 đồng mua hóa đơn để
quyết toán; chi trả các khoản ứng chi trước đó phục vụ công tác duy trì Trường đạt
chuẩn quốc gia 70.796.000 đồng; do không tài liệu chứng minh khoản chi
18.960.000 đồng nên T phải chịu trách nhiệm về số tiền này. Còn lại số tiền
64.683.500 đồng không tài liệu chứng minh đã thực chi, T L cùng phải chịu
trách nhiệm, trong đó Xuân T chiếm đoạt 46.301.000 đồng; Nguyễn Kiều L chiếm
đoạt 18.382.500 đồng.
Tại Bản Cáo trạng số: 56/CT - VKSĐH ngày 05/11/2022 của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ truy tcác bị cáo: Lê Xuân T, Nguyễn Kiều L về
tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 353 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đoan ng, tỉnh Phú Thọ
vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bcáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội
dung bản Cáo trạng và đề nghị Hi đồng xét xử:
- Về tội danh: Tuyên bcác bcáo Lê Xuân T, Nguyễn Kiều L phạm tội Tham
ô tài sản”.
- Về hình phạt:
5
+ Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 353; điểm b,s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
41; Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Xuân T từ 30 tháng đến 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo
về tội Tham ô tài sản”. Thời hạn thử thách 05 năm. Thời gian thử thách được tính từ
ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 13/01/2023.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Kiều L từ 24 tháng đến 30 tháng nhưng cho hưởng án
treo về tội “Tham ô tài sản”. Thời hạn thử thách từ 48 tháng đến 60 tháng. Thời gian
thử thách được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 13/01/2023.
Giao các bị cáo cho UBND xã nơi các bị cáo cư trú giám sát giáo dục trong thời
gian ththách. Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi trú thì thực hiện theo quy định
tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định
buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho hưởng
án treo.
Về hình phạt bổ sung: Cấm Xuân T đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng trong
các trường công lập dân lập trong thời hạn từ 01 năm đến 02 năm kể tngày bản
án có hiệu lực pháp luật. Cấm Nguyễn Kiều L đảm nhiệm chức vụ Kế Toán trong thời
hạn từ 01 năm đến 02 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều
585, Điều 587 Điều 589 của Bộ luật dân sự; điểm b khoản 2 Điều 106; khoản 2
Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Xuân T phải nộp số tiền 46.301.000đ
(bốn mươi sáu triệu ba trăm L một nghìn đồng), bị cáo Nguyễn Kiều L phải nộp số
tiền 18.382.500đ (mười tám triệu ba trăm tám mươi hai nghìn năm trăm đồng) vào
ngân sách nhà nước. Xác nhận các bị cáo đã nộp lại toàn bộ số tiền nêu trên.
- Về xử lý vật chứng:
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền hưởng lợi bất chính của ông Phan
Quốc T 197.000 đồng.
- Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp
luật.
- Các bị cáo không tranh luận, không bào chữa gì, thừa nhận hành vi phạm tội
và ăn năn hối hận với hành vi phạm tội của bản thân.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án,n cứ vàoc tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phn a, Hội đồng xét xnhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của quan điều tra, Điều tra
viên Công an huyện Đoan Hùng; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân huyện Đoan Hùng trong quá trình điều tra, truy tđã thực hiện đúng vthẩm
quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại
phiên tòa các bị cáo không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của
6
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành ttụng. Do đó Hội đồng xét xử xác định các
hành vi, quyết định tố tụng của quan tiến hành ttụng, người tiến nh tố tụng đã
thực hiện là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Vn cứ buộc tội: Tại phiên a hôm nay,c bị cáo Lê Xuân T, Nguyễn Kiều
L đã khai nhận toàn bộ nh vi vi phạm pháp luật của mình. Lời khai của các bị cáo tại
phna p hợp với lời khai của các bị cáo trong quá tnh điều tra, truy tố phù hợp với
lời khai của ngun đơn dân sự, nời có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan, và cáci liệu có
trong hồ vụ án. N vậy, đủ cơ sở để kết luận:
Năm 2017, tại Trường Tiểu học Q thuộc P, huyện Đ, Xuân T Hiệu
trưởng Trường Tiểu học Q cùng Nguyễn Kiều L là Kế toán Trường Tiểu học Q đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn được giao chiếm đoạt tổng số tiền 64.683.500 đồng mà các
bị cáo trách nhiệm quản lý, trong đó bị cáo T chiếm đoạt 46.301.000đ (bốn mươi
sáu triệu ba trăm L một nghìn đồng), bị cáo L chiếm đoạt số tiền 18.382.500đ (mười
tám triệu ba trăm tám mươi hai nghìn năm trăm đồng), khoản tiền được UBND
huyện Đoan Hùng cấp bổ sung kinh phí từ nguồn dự toán Ngân sách năm 2017 hỗ trợ
cơ sở, vật chất duy trì trường đạt chuẩn quốc gia cho Trường Tiểu học Q.
Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đoan Hùng truy tố c bị cáo
về tội “Tham ô tài sản”. Tội phạm hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 353
của Bộ luật hình sự là đúng người, đu
́
ng tô
̣
i va
̀
đu
́
ng pha
́
p luâ
̣
t.
Khoản 1 Điều 353 của Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mình
trách nhiệm quản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới
2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ 02
năm đến 07 năm”.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự nhận thức hành vi của mình thực hiện Nhà nước nghiêm cấm.
Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quan hệ sở hữu, hoạt động đúng đắn của
Trường Tiểu học Q trong lĩnh vực quản tài sản nói chung hoạt động quản tài
chính kế toán nói riêng. Các b cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý.
Trong vụ án này, các bị cáo Xuân T, Nguyễn Kiều L đều người chức
vụ, quyền hạn, phạm tội tính chất đồng phạm giản đơn; bị cáo Xuân T chủ
mưu, bị cáo L người thực hành tích cực. Tổng số tiền tham ô 64.683.500 đồng,
trong đó bị cáo T chiếm đoạt 46.301.000đ, bị cáo L chiếm đoạt số tiền 18.382.500đ.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Lê Xuân T được sinh ra trong gia đình cơ bản, được gia đình tạo điều kiện
học tập văn hóa đến lớp 12/12. Bị cáo đã tốt nghiệp Đại học phạm nội 2, được
tuyển dụng làm giáo viên từ 3/2016 bị cáo Hiệu trưởng Trường Tiểu học Q. Bị
cáo Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam bị đình chỉ sinh hoạt Đảng ngày
28/112022. Bị cáo chưa tiền án, tiền sự, không tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự.
Trong quá trình điều tra, truy tố tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn
năn hối cải; đã tự nguyện khắc phục toàn bộ hậu quả do hành vi phạm tội của mình
gây ra; Quá trình công tác, bị cáo đã nhiều thành tích xuất sắc và được tặng thưởng
7
Bằng khen, giấy khen; Vợ bị cáo nhiều thành tích trong công tác được tặng thưởng
giấy khen trong nhiều năm; Bị cáo gia đình bị cáo tích cực tham gia đóng góp quỹ
phòng chống covid 19; Bị cáo đã tích cực cứu người bị nạn, đóng góp hỗ trợ xây dựng
“mái m khuyến học”, có văn bản đề nghị xem xét giảm nhcho bị cáo của quan,
chi bnơi bị cáo công tác sinh hoạt Đảng. Do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết
giảm nhẹ quy định tại điểm b, s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo Nguyễn Kiều L được sinh ra trong gia đình cơ bản, được gia đình tạo điều
kiện học tập văn hóa đến lớp 12/12. Bị cáo đã tốt nghiệp Đại học Công nghiệp, được
tuyển dụng nhân viên kế toán Trường Tiểu học Q tnăm 2013 đến 2019, nay
nhân viên kế toán trưởng của trường tiểu học Tây C. Bị cáo chưa tiền án, tiền sự,
không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Trong quá trình điều tra, truy tố tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn
năn hối cải; đã tự nguyện khắc phục toàn bộ hậu quả do hành vi phạm tội của mình
gây ra; Quá trình ng tác, bị cáo đã nhiều thành tích xuất sắc được công nhận
chiến sỹ thi đua sở được nâng lương trước thời hạn; bố, mẹ đẻ bị cáo nhiều
thành tích trong công tác được tặng thưởng giấy khen trong nhiều năm; bị cáo gia
đình bị cáo tích cực tham gia đóng góp quỹ phòng chống covid 19 nên bị cáo được
hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật
hình sự.
Về hình phạt chính: Các b cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, không phải
chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình s, nơi trú ràng. Tại phiên tòa đại
diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đoan Hùng đề nghị xử phạt đối với bị cáo T từ 30
tháng đến 36 tháng nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 05 năm. Bcáo L
từ 24 tháng đến 30 tháng nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách t48 tháng
đến 60 tháng.
Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: Đnghị của
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp, nên không cần thiết phải cách ly các
bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian cho các bị cáo được hưởng án treo dưới sự
giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú, gia đình các bị cáo cũng đủ
để giáo dục các bcáo thành người có ích cho gia đình hội, thể hiện được chính
sách khoan hồng của pháp luật.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo đều sống cùng gia đình, không có
tài sản có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là
phạt tiền đối với các bị cáo phù hợp. Tuy nhiên, cần áp dụng hình phạt bổ sung
cấm đảm nhiệm chức vụ mt thời gian nhất định đối với các bị cáo để không điều
kiện tái phạm.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Xuân T trách nhiệm nộp số tiền
46.301.000đ đã chiếm đoạt trái phép. Bị cáo Nguyễn Kiều L trách nhiệm nộp số
tiền 18.382.500đ đã chiếm đoạt trái phép. Các bị cáo đã khắc phục thiệt hại nộp lại
toàn bộ stiền nêu trên. Xét thấy việc khắc phục thiệt hại của các bị cáo Xuân T,
Nguyễn Kiều L là tự nguyện, phù hợp quy định pháp luật nên cần được xác nhận.
8
Hành vi phạm tội ca các bị cáo đã gây thiệt hại cho ngân sách cấp cho Trường
Tiểu học Q, toàn bộ số tiền các bị cáo nộp khắc phục thiệt hại 64.683.500 đồng cần
nộp vào ngân sách Nhà nước.
[8] Đối với số tiền hưởng lợi bất chính từ việc mua bán hóa đơn của ông Phan
Quốc T 197.000 đồng cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
[9]. Đối với các vấn đề khác:
- Đối với hành vi mua bán trái phép hóa đơn cho Xuân T Nguyễn Kiều L
của ông Phan Quốc T, Nguyễn Thị L, do số lượng hóa đơn xuất bán chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự (số lượng dưới 10 tờ) đồng thời ông Tâm, bà Lan không
biết, không liên quan đến hành vi sử dụng hóa đơn để tham ô tài sản của bị can T và L
nên không phải chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của họ là vi phạm hành chính nhưng
đã hết thời hiệu ra Quyết định xphạt vi phạm hành chính, do vậy Công an huyện
Đoan Hùng không xử phạt vi phạm hành chính.
- Đối với hành vi mua bán trái phép hóa đơn của Thị L, đã bkhởi tố
trong vụ án “Mua bán trái phép hóa đơn” theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 27
ngày 08/6/2022 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đoan Hùng.
- Đối với stiền 6.042.000.đ L đã nhận hưởng lợi từ việc mua bán trái phép
hóa đơn. Ngày 15/6/2022, L đã nộp lại số tiền nêu trên liên quan đế vụ án
hình sự “Mua bán trái phép hóa đơn” theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 27
ngày 08/6/2022 của quan CSĐT Công an huyện Đoan Hùng nên không tịch thu
trong vụ án này là phù hợp.
[10]. Kiến nghị: Ủy ban nhân dân huyện Đoan Hùng, thanh tra huyện Đoan
Hùng, Phòng giáo dục - Đào tạo huyện Đoan Hùng và các quan chuyên môn khác
cần tăng cương công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, nhằm tránh xảy ra thất thoát về
tài sản và vi phạm pháp luật của cán bộ, nhân viên các đơn vị trực thuộc.
[11]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định ca pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 353, điểm b,s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51,
Điều 41, khoản 1,2,5 Điều 65 ca Bộ luật hình sự đối với Lê Xuân T, Nguyễn Kiều L;
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều
585, Điều 587 Điều 589 của Bộ luật dân sự; điểm b khoản 2 Điều 106; khoản 2
Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố các bị cáo: Lê Xuân T, Nguyễn Kiều L phạm tội “Tham ô tài sản” .
2. Về hình phạt:
- Xử phạt bị cáo Lê Xuân T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo
về tội Tham ô tài sản”, thời hạn thử thách 05 (năm) năm, thời gian thử thách được
tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 13/01/2023.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Kiều L 30 (Ba mươi) tháng nhưng cho hưởng án
treo về tội Tham ô tài sản”, thời hạn thử thách 05 (năm) năm, thời gian thử thách
được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 13/01/2023.
9
Giao bị cáo Xuân T cho UBND xã T, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ giám sát giáo
dục trong thời gian thử thách. Giao bị cáo Nguyễn Kiều L cho UBND thị trấn Đ,
huyện Đ, tỉnh Phú Thọ giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp các bị
cáo thay đổi nơi trú tthực hiện theo quy định tại khoản 3 điều 92 Luật Thi hành
án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định
buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho hưởng
án treo.
- Về hình phạt bổ sung: Cấm Lê Xuân T đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng trong
các trường công lập và dân lập trong thời hạn 02 (Hai) năm kể tngày bản án hiệu
lực pháp luật. Cấm Nguyễn Kiều L đảm nhiệm chức vụ Kế Toán trong thời hạn 02
(Hai) năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Xuân T phải nộp 46.301.000đ
(bốn mươi sáu triệu ba trăm L một nghìn đồng), bị cáo Nguyễn Kiều L phải nộp số
tiền 18.382.500đ (mười tám triệu ba trăm tám mươi hai nghìn năm trăm đồng) vào
ngân sách nhà nước. Xác nhận bị cáo Nguyễn Xuân T đã nộp 46.301.000đ (bốn mươi
sáu triệu ba trăm L một nghìn đồng). Bị cáo Nguyễn Kiều L đã nộp số tiền
18.382.500đ (mười tám triệu ba trămm mươi hai nghìn năm trăm đồng).
4. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền hưởng lợi bất chính của ông Phan
Quốc T 197.000 đồng.
(Theo biên giao nhận vật chứng giữa quan điều tra Công an huyện Đoan
Hùng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng).
5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Xuân T, Nguyễn Kiều L mỗi
bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Bị cáo mặt quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để
yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm. Nguyên đơn dân sự, người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày,
kể từ ngày bản sao bản án giao cho họ hoặc niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Thọ xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Nơi nhận:
- Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ;
- VKS ND huyện, tỉnh;
- Công an huyện;
- Thi hành án DS huyện;
- UBND xã Tây C;
- UBND thị trấn Đ;
- Bị cáo;
- Người có QLNV liên quan;
- Nguyên đơn dân sự;
- Lưu HSVA; VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Khanh
Tải về
Bản án số 06/2023/HS-ST Bản án số 06/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất