Bản án số 67/2025/HS-ST ngày 07/05/2025 của TAND tỉnh Bình Dương

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 67/2025/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 67/2025/HS-ST ngày 07/05/2025 của TAND tỉnh Bình Dương
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 67/2025/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/05/2025
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Lừ đảo chiếm đoạt tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 67/2025/HS-ST
Ngày: 07-5-2025
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Huy Toàn.
Thẩm phán: Ông Đặng Văn Chum.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Trần Thị Đẹp;
Bà Nguyễn Ngọc Xuyến;
Ông Nguyễn Văn Cương.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Hoàng Minh Như - Thư Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Bà Hoàng Thị Hải - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 5 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử thẩm công khai vụ án hình sự thẩm thụ số: 214/2024/TLST-HS
ngày 12 tháng 11 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
222/2024/HS-ST ngày 17 tháng 12 năm 2024 đối với bị cáo:
Lâm Trần Công Y sinh năm 1993 tại tỉnh Tĩnh; căn cước công dân:
042093016885; nơi trú: TDP B, phường H, thị K, tỉnh Hà Tĩnh; nghề
ngiệp: nhân viên ngân hàng; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 12/12; giới tính:
nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Lâm Công B
Trần Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bbắt
tạm giam từ ngày 13 tháng 12 năm 2023 cho đến nay; bị cáo mặt tại phiên
tòa.
Người bào cha ch định cho b cáo Lâm Trần Công Y: Luật Bùi Xuân
N, là Luật sư Văn phòng L, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B (có mặt).
B hi:
1. Trịnh Thị N1 sinh năm 1989;
2. Ông Trịnh Bá H1 sinh năm 1986;
Cùng nơi cư trú: số C, tổ B, khu phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Bình
Dương (có mặt).
2
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Nguyễn Minh N2 sinh năm: 1987; nơi trú: ấp P, Đ, huyện C,
tỉnh Hậu Giang (vắng mặt);
2. Ông Trần Hoàng M sinh năm: 1985; nơi cư trú: số B N, phường T, quận
N, Thành phố Cần Thơ (vắng mặt);
3. Trần Thị Trúc P sinh năm: 1981; nơi thường trú: C, đường C, phường
H, quận N, Thành phố Cần Thơ; nơi tạm trú: 637 đường C, phường H, quận N,
Thành phố Cần Thơ (có đơn xin xét xử vắng mặt);
4. Trần Thị H sinh năm 1971; nơi trú: snhà B, đường N, tổ dân
phố B, phường H, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh (có mặt).
Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Đức H2 sinh năm 1990 (có mặt).
2. Ông Nguyễn Trung K sinh năm 1997 (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liu trong h sơ vụ ándin biến ti phiên tòa, ni dung
v án được tóm tắt như sau:
Lâm Trần Công Y là nhân viên tín dụng Ngân hàng TMCP Q (V) Chi
nhánh Q1, Thành phố Hồ Chí Minh (địa chỉ: C đường P, phường E, Quận H,
Thành phố HChí Minh) từ tháng 06/2022. Tháng 03/2023, Y liên hệ với đồng
nghiệp ông Nguyễn Đức H2 nhờ ông H2 giới thiệu khách hàng để Y liên hệ
vay tiền làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng. Ông H2 tin tưởng nên giới thiệu vợ
chồng bà Trịnh Thị N1 và ông Trịnh Bá H1 cho Y.
Khi Y gặp vợ chồng bà N1, Y giới thiệu là nhân viên tín dụng Ngân hàng
V Chi nhánh Q1, Thành phố Hồ Chí Minh, Y biết nhiều khách hàng nhu
cầu đáo hạn ngân hàng. Y nói với vợ chồng N1 cho Y vay tiền để đáo hạn
ngân hàng cho khách, sau khi làm thủ tục đáo hạn xong, Y cam kết sẽ trả tiền
gốc và chia tiền hoa hồng cho vợ chồng bà N1. Tin tưởng Y nên vợ chồng bà N1
đồng ý.
Khoảng cuối tháng 5/2023, ông Nguyễn Minh N2 liên hệ với Y để nhờ
Yên kiểm tra, thẩm duyệt hồ vay, đáo hạn khoản vay của ông Trần Hoàng M
Trần Thị Trúc P. Y đã liên hệ với vợ chồng N1 vay tiền để thực hiện
đáo hạn cho P. Để cho vợ chồng N1 tin tưởng, Y nói sẽ dẫn vợ chồng
N1 đi gặp trực tiếp P.
Sáng ngày 26/5/2023, Y cùng ông Trịnh H1 ông Nguyễn Trung K
(quản của Y) đi đến nhà ông Trần Hoàng M tại phường T, quận N, thành phố
Cần Thơ để ông K Yên thẩm duyệt hồ vay thế chấp của ông M. Chiều
cùng ngày, ông M, Y ông H1 đến nhà P tại địa chỉ: phường H, quận N,
thành phố Cần Thơ. Khi đến nhà bà P, ông H1 ngồi ở bên ngoài còn Y và ông M
đi vào bên trong để bàn bạc với P. Tại đây, P trình bày đang nhu cầu
đáo hạn và vay thế chấp 03 (ba) thửa đất nên đề nghị Yên hỗ trợ thủ tục đáo hạn.
3
Y hứa hẹn sẽ kiểm tra và trả lời cho P sau. Đến sáng ngày 27/5/2023, ông M,
ông N2, Y, ông K, ông H1 cùng ăn, uống nước tại quán C, địa chỉ: KDC P,
phường H, quận C, thành phố Cần Thơ, Y nói với mọi người về việc Y chuẩn bị
thực hiện “câyđáo hạn khoản vay 13.000.000.000 đồng cho P. Do đó, ông
H1 tin tưởng việc Y thực hiện việc đáo hạn khoản vay cho bà P là thật.
Sau đó, Y liên hệ vợ chồng N1 vay 13.000.000.000 đồng để thực hiện
việc đáo hạn khoản vay cho P, thời gian đáo hạn từ 02 đến 07 ngày, tiền hoa
hồng là 45 triệu đồng. Bà N1 đồng ý nên chuyển tiền cho Y cụ thể như sau:
Ngày 31/5/2023, vợ chồng N1 chuyển khoản vào số tài khoản
021235090 Ngân hàng VIB của Y 1.200.000.000đ (một t hai trăm triệu đồng).
Để cho vợ chồng N1 tin tưởng, Y viết 01 (một) giấy vay tiền nội dung về
việc vợ chồng N1 giao cho Y 1.200.000.000 đồng với mục đích rút sổ ngân
hàng”.
Ngày 02/6/2023, ông H1 chuyển khoản 1.000.000.000đ (một t đồng) vào
số tài khoản: 3020 1006 86688 mở tại Ngân hàng MB của Y.
Ngày 05/6/2023, ông H1 chuyển khoản 700.000.000đ (bảy trăm triệu
đồng) vào số tài khoản: 3020 1006 86688 mở tại Ngân hàng MB của Y.
Ngày 06/6/2023, ông H1 chuyển khoản 2.600.000.00(hai tỷ sáu trăm
triệu đồng) vào số tài khoản: 021235090 Ngân hàng VIB của Y.
Tổng số tiền vchồng N1 giao cho Y để thực hiện việc đáo hạn
cho P 5.500.000.000 đồng (do vợ chồng N1 không đủ
13.000.000.000 đồng). Quá trình điều tra Y khai nhận đã dùng số tiền trên chơi
tiền ảo qua mạng xã hội hết.
Sau nhiều lần liên hệ yêu cầu trả tiền nhưng Y không thực hiện, ngày
20/6/2023 vợ chồng bà N1 đến Ngân hàng V Chi nhánh Q1 để gặp Y. Tại đây,
vợ chồng và bà N1 Y lập 01 (một) giấy vay tiền nội dung v việc vợ
chồng N1 giao cho Y 4.200.000.000đ (bốn tỷ hai trăm triệu đồng), mục đích
vay tiền “đưa tiền đáo hạn cho khách”. Ông Nguyễn Đức H2, ký xác nhận người
làm chứng trong giấy vay tiền ngày 31/5/2023 và giấy vay tiền ngày 20/6/2023.
Sau đó, Y không trả tiền cho vợ chồng N1 mà nghỉ việc tại Ngân hàng
V Chi nhánh Q1 từ cuối tháng 6/2023 cắt liên lạc với vợ chồng N1.
Ngày 27/10/2023, N1 tố cáo hành vi chiếm đoạt tài sản của Y đến quan
điều tra.
Làm việc với quan điều tra, Trần Thị Trúc P, ông Trần Hoàng M
khai báo không liên hệ, giao nhận tiền hoặc thực hiện thủ tục tất toán, đáo hạn
khoản vay nào với Lâm Trần Công Y. Ngày 26/5/2023, Y chỉ kiểm tra nói sẽ
báo kết quả sau nhưng sau đó không liên lạc, cũng không trả lời cho P, ông
M.
Tại Kết luận giám định số 585 ngày 08/12/2023 của Phòng K1 Công an
tỉnh B, kết luận chữ ký, chữ viết, dấu vân tay trên các tài liệu chứng cứ thu thập
được là do Lâm Trần Công Y ký, viết, in ra.
4
Về trách nhiệm dân sự:
Vợ chồng bà Trịnh Thị N1 yêu cầu Y trả lại số tiền đã chiếm đoạt
5.500.000.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 273/CT-VKSBD-P2 ngày 04 tháng 11 năm 2024, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã truy tố Lâm Trần Công Y về
tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật
Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội với nội
dung giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, đánh giá tính chất, mức độ
vi phạm tội của bị cáo. Đồng thời đnghị áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau khi phm ti b o đã thành khẩn khai
báo, biết ăn năn hối ci quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình
sự. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1
Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đề nghị xử
phạt bị cáo Y mức hình phạt từ 15 (mười lăm) năm đến 16 (mười sáu) năm tù v
tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, về trách nhiệm dân sự đề nghị xử bồi
thường dân sự theo quy định.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: thống nhất với nội dung cáo trạng
và đại diện Viện kiểm sát truy tố; tuy nhiên không đồng ý với tình tiết tăng nặng
“phạm tội 02 lần” theo điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo
chưa có tiền án, tiền sự; gia đình bị cáo là người công với cách mạng, ông
nội là Liệt sỹ nên đề nghị áp dụng điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự để xem xét tuyên mức hình phạt thấp nhất cho bị cáo.
B o đồng ý quan điểm của người bào chữa cho bị cáo không bổ sung
thêm.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết lỗi của mình, bị cáo mong Hội
đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bcáo đbị cáo sớm trở về chăm
sóc gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên snội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quyết định tố tụng của quan điều tra Công an tỉnh B, Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Bình Dương, nh vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên
thực hiện việc điều tra, truy tố đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, c hành vi, quyết định
tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều
hợp pháp.
[2] Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng
mặt tại phiên tòa: những người này đã lời khai thể hiện trong hđược
5
công bố tại phiên tòa, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải
quyết vụ án, căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử
chấp nhận đề nghị của Viện Kiểm sát, xét xử vắng mặt những người này.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai
nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình
điều tra, phù hợp với lời khai của bhại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, phù hợp tài liệu chứng cứ thu giữ được trong vụ án nên đủ sở
kết luận: Khoảng thời gian từ ngày 31/5/2023 đến ngày 06/6/2023, tại tỉnh Bình
Dương, Lâm Trần Công Y lợi dụng vị trí công việc nhân viên Ngân hàng
TMCP Q - Chi nhánh Q1, Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra thông tin gian dối về
việc vay tiền để đáo hạn ngân hàng cho khách rồi chiếm đoạt của vợ chồng
Trịnh Thị N1 và ông Trịnh Bá H1 5.500.000.000 đồng Y dùng tiền trên chơi tiền
ảo trên mạng hội hết. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nvậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Y về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
với khung hình phạt điều luật u trên căn cứ, đúng người đúng tội
đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài
sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. B cáo
nhn thức được hành vi đưa thông tin gian di vviệc vay tiền để đáo hạn ngân
hàng cho khách rồi chiếm đoạt tiền của bị hại vi phm pháp lut, b cáo thc
hin hành vi vi li c ý trc tiếp, th hin ý thức xem thường pháp lut bt
chp hu qu. B cáo đủ năng lực nhn thức được hành vi phm ti ca mình
nên phi chu trách nhim v hành vi mình đã thực hin. Do đó, cần mức
hình phạt tương xứng với nh chất, mức độ hành vi phạm tội của bị o để n
đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[5] Tuy nhiên, cần phải xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo cho phù hợp.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo khi phạm tội không có tình
tiết tăng nặng.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bcáo sau phạm tội thái độ
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình khắc phục một phần thiệt hại cho
bị hại, đồng thời gia đình bcáo Lâm Trần Công Y ông nội (Liệt Lâm
Công T) người công với Cách mạng. Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho bị cáo.
[6] Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự đề nghị mức hình phạt cho bị cáo chưa phù
hợp.
[7] Quan điểm bào chữa của người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng
xét xử không áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên như đại diện
6
Viện kiểm sát đề nghị và đề nghị áp dụng tình tiết điểm s, khoản 1, khoản 2
Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét tuyên mức hình phạt thấp nhất cho bị
cáo là có căn cứ.
[8] Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Trần Thị H tự
nguyện khắc phục hậu quả không yêu cầu bị o Y hoàn trả lại tiền đã nộp thay
cho bị cáo đây là sự tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[9] Đối với số tiền 10.000.000 đồng do Trần Thị H (mẹ ruột của bị cáo
Lâm Trần Công Y) nộp khắc phục hậu quả cho bị hại tại Biên lai thu tiền số
0000326 ngày 21 tháng 01 năm 2025 cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc thi
hành án.
[10] Về trách nhiệm dân sự: bị cáo chiếm đoạt số tiền 5.500.000.000 (năm
tỷ năm trăm triệu) đồng hiện bị cáo chưa bồi thường. Do đó, buộc bị cáo Lâm
Trần Công Y có trách nhiệm trả cho các bị hại số tiền 5.500.000.000 đồng theo
yêu cầu.
[11] Án phí sơ thẩm: bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải bàu án phí hình
sự thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Lâm Trần Công Y phạm ti Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản”.
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
Xử phạt bị cáo Lâm Trần Công Y 14 (mười bốn) năm về tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 13 tháng 12
năm 2023.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 583, 584 585, 589 của Bộ luật
Dân sự
Buộc bị cáo Lâm Trần Công Y trách nhiệm thanh toán cho bà Trịnh
Thị N1 và ông Trịnh Bá H1 số tiền 5.500.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi nh án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp bản án được thi nh theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
7
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Tiếp tục tạm giữ số tiền 10.000.000 đồng do Trần Thị H (mruột
của bị cáo Lâm Trần Công Y) nộp khắc phục hậu quả cho bị hại tại Biên lai thu
tiền số 0000326 ngày 21 tháng 01 năm 2025 để đảm bảo việc thi hành án.
4. Về án phí: bị cáo Trần Lâm Công Y1 phải nộp 200.000 (hai trăm
nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 113.500.000 (một trăm mười ba triệu
năm trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Tải về
Bản án số 67/2025/HS-ST Bản án số 67/2025/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 67/2025/HS-ST Bản án số 67/2025/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất