Bản án số 502/2023/HS-PT ngày 23-10-2023 của TAND cấp cao về tội tham ô tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án 502/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 502/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 502/2023/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 502/2023/HS-PT ngày 23-10-2023 của TAND cấp cao về tội tham ô tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 278.Tội tham ô tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao |
| Số hiệu: | 502/2023/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 23/10/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Nguyễn Thị Thanh T và Nguyễn Ngọc S1 tội tham ô tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
Bản án số:502/2023/HS-PT
Ngày: 23-10-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Việt Cường
Các Thẩm phán: Ông Trương Công Thi
Ông Nguyễn Tấn Long.
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Văn Ph - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Ông Nguyễn Chiến -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 23-10-2023, từ điểm cầu trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng kết nối với điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, xét
xử phúc thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số
484/2023/TLPT-HS ngày 05-10-2023 đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh T và bị cáo
khác. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2023/HS-
ST ngày 28-8-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
1. Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1979, tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký
HKTT và chỗ ở: Thôn A, xã P, huyện T1, tỉnh Bình Định; dân tộc: Kinh; quốc
tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Nhân viên Bưu điện
văn hóa xã P; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1946 và bà
Từ Thị Bông (đã chết); không có chồng, nhưng có 01 con, sinh năm 2013; tiền án,
tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại điểm cầu thành phần.
2. Nguyễn Ngọc S1, sinh năm 1999 tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký HKTT và
chỗ ở: Thôn K, xã P1, huyện T1, tỉnh Bình Định; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam;
tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Nhân viên Bưu điện văn hóa xã P; trình
độ văn hóa: 12/12; con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1972 và bà Trần Thị Thúy H1,
sinh năm 1971; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại điểm cầu thành phần.
Người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo:
- Bị hại: Bưu điện huyện T1.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo pháp luật:
Bà Trương Thị Ánh T1, sinh năm 1978 - Chức vụ: Giám đốc Bưu điện huyện
T1.
Người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 11-8-2023):
Bà Trịnh Thị V; địa chỉ cư trú: Nhà số 02 đường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định,
vắng mặt.
(Vụ án có 19 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng không liên quan
đến kháng cáo, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Ngày 27-4-2015, Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam ký Quyết định số 387/QĐ
về việc thành lập Bưu điện huyện T1 do Trịnh Thị V làm giám đốc, có nhiệm vụ:
Cung cấp các dịch vụ của Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam theo phân cấp và phục vụ
hoạt động văn hóa tại Bưu điện. Ngày 01-01-2021 đến ngày 01-7-2021, Bưu điện
huyện T1 ký kết Hợp đồng lao động với Nguyễn Thị Thanh T và Nguyễn Ngọc S1 vào
làm việc tại Bưu điện Văn hóa xã P, huyện T1. Theo đó, T và S1 được giao nhiệm vụ
cụ thể là: Thu hộ tiền thuế của các hộ kinh doanh cá thể, thu hộ tiền điện, tiền bán
hàng như bột giặt, nước xả, dầu ăn…, tiền bảo hiểm nhân thọ A1 và nhận tiền của
Bưu điện huyện T1 về chi trả cho cho các đối tượng chính sách trên địa bàn xã; thu hồi
tiền những đối tượng đã chết. Các khoản thu hộ này do Bưu điện huyện T1 trực tiếp
ký Hợp đồng với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện T1 về chi trả trợ
cấp xã hội qua hệ thống Bưu điện; hợp đồng ủy nhiệm thu thuế với chi Cục Thuế
huyện T1 về việc thu thuế của các hộ kinh doanh cá thể; hợp đồng với Công ty Điện lực
Bình Định thu hộ tiền điện của các khách hàng trên địa bàn xã P thuộc quản lý của
Điện lực P2. Các khoản thu này, hàng tháng Bưu điện huyện T1 phải cập nhật vào
phần mềm, in danh sách để đối chiếu, quyết toán với chi Cục Thuế huyện T1 và
Điện lực P2. Riêng các khoản chi trả cho những đối tượng hưởng chính sách đã chết
thì cuối tháng phải nộp danh sách, số tiền đã chi (Phiếu chi), số tiền còn tồn chưa chi
trả để quyết toán với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện T1.
Với quy trình hoạt động thu, chi nêu trên; từ tháng 4-2021 đến tháng 10-2021,
Nguyễn Thị Thanh T và Nguyễn Ngọc S1 có nhiệm vụ chi trả tiền Bảo trợ xã hội cho
các đối tượng chính sách trên địa bàn xã; thu hộ tiền thuế, tiền điện và các dịch vụ khác
theo hợp đồng mà Bưu điện huyện T1 đã ký kết. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi
nhiệm vụ Nguyễn Thị Thanh T và Nguyễn Ngọc S1 đã lợi dụng chức trách, nhiệm
vụ được giao là thu hộ các khoản tiền như: Thu hộ tiền điện; tiền bán hàng tiêu
dùng; thu hộ tiền bảo hiểm A1; tiền bảo trợ xã hội, tiền thuế doanh thu của các hộ
cá thể; thu tiền bưu chính chuyên phát, nhưng không nộp cho Bưu điện huyện T1 mà
chiếm đoạt sử dụng cho Trần Thị Thùy D1 mượn và chi tiêu cá nhân. Đến ngày 23-10-
2021, Bưu điện huyện T1 thành lập Đoàn kiểm tra, kiểm tra tại Bưu điện Văn hóa xã P
thì phát hiện Nguyễn Thị Thanh T và Nguyễn Ngọc S1 đã chi và thu hộ các khoản tiền
3
nêu trên, nhưng không tiến hành giao nộp cho Bưu điện huyện mà chiếm đoạt với
tổng số tiền 240.892.344 đồng, nên có đơn trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra để
tiến hành xác minh làm rõ.
Từ tháng 4-2021 đến tháng 10-2021, Nguyễn Thị Thanh T, Nguyễn Ngọc S1 đã
lợi dụng chức vụ quyền hạn là thu và chi hộ các khoản tiền như: Thu hộ tiền điện; tiền
bán hàng tiêu dùng; thu hộ tiền bảo hiểm A1; tiền bảo trợ xã hội, tiền thuế doanh
thu của các hộ cá thể; thu tiền bưu chính chuyên phát, với tổng số tiền là
240.892.344 đồng, nhưng không giao nộp cho Bưu điện huyện T1, mà chiếm đoạt và
cho Trần Thị Thuỳ D1 vay, số tiền còn lại tiêu xài cá nhân, trong đó:
- Nguyễn Thị Thanh T đã thu và chi hộ, còn chiếm đoạt 119.461.682 đồng, gồm
các khoản thu, chi như sau:
+ Chi trả tiền bảo trợ xã hội cho 187 đối tượng chính sách trên địa bàn xã,
nhưng không chi mà giữ lại để chiếm đoạt là 72.726.721 đồng.
+ Thu hồi tiền bảo trợ xã hội của 04 đối tượng chính sách là 10.530.000 đồng,
nhưng không giao nộp cho Bưu điện huyện T1. Khoản thu này, Bưu điện huyện T1
đã tạm chi để nộp cho Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện T1.
+ Thu tiền căn cước công dân là 4.228.000 đồng.
+ Thu tiền bán hàng hóa tiêu dùng tháng 5-2021 là 1.442.000 đồng
+ Thu hộ tiền thuế, tháng 9-2021 của 32 hộ kinh doanh, với số tiền phải thu là
30.534.961 đồng.
Ngoài ra, ngày 04-7-2021, Bưu điện huyện T1 tiến hành kiểm tra đột xuất tại Bưu
điện Văn hoá xã, thì phát hiện Nguyễn Thị Thanh T đã giữ lại các khoản tiền không
giao nộp cho Bưu điện huyện T1, nên Bưu điện huyện không giao nhiệm vụ cho T trực
tiếp thu, chi các khoản tiền đó, mà có nhiệm vụ hỗ trợ chỉ dẫn cho Nguyễn Ngọc S1
thu tiền thuế. Thời gian này, Nguyễn Thị Thanh T đã tự ý thu hộ tiền Bảo hiểm A1 của
chị Nguyễn Thị H1 với số tiền 9.540.000 đồng không giao nộp cho Bưu điện huyện
mà chiếm đoạt tiêu xài cá nhân. Như vậy, Nguyễn Thị Thanh T phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
Các khoản thu nêu trên, Nguyễn Thị Thanh T sử dụng cá nhân và cho chị Trần
Thị Thùy D1 mượn 50.000.000 đồng.
- Nguyễn Ngọc S1 được Bưu điện huyện T1 giao là thu hộ và chi các khoản tiền,
nhưng không giao nộp cho Bưu điện huyện mà giữ lại chiếm đoạt với số tiền là
111.890.662 đồng, cụ thể:
+ Tiền Bảo trợ xã hội tháng 9, tháng 10-2021, phải chi trả cho 94 đối tượng
chính sách trên địa bàn xã là 42.808.000 đồng, nhưng không chi và không nộp cho
lại cho Bưu điện huyện mà giữ lại chiếm đoạt. Khoản chi này, Bưu điện huyện đã
chi tạm ứng theo Phiếu chi CM1/22/1168 để nộp cho Phòng Lao động - Thương
binh và Xã hội huyện.
+ Thu hộ tiền điện từ ngày 20 đến ngày 22-10-2021, nhưng không nộp cho
Bưu điện huyện là 63.024.000 đồng. Khoản thu này, Bưu điện huyện đã chi tạm ứng
theo Phiếu chi CM1/22/1168 để nộp vào tài khoản của Điện lực P2.

4
+ Thu hộ tiền bán hàng hóa tiêu dùng trong tháng 10-2021, nhưng không giao
nộp cho Bưu điện huyện là 5.522.000 đồng.
+ Thu tiền doanh thu dịch vụ bưu chính tháng 10-2021 là 536.662 đồng.
Các khoản thu nêu trên, Nguyễn Ngọc S1 đã chiếm đoạt sử dụng và cho chị
Trần Thị Thùy D1 mượn 61.000.000 đồng và cho Nguyễn Thị Thanh T mượn
50.000.000 đồng.
- Ngày 09-02-2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra làm việc với ông Đặng Quốc Ph -
Phó Giám đốc Điện lực P2 thì khoản thu này, Bưu điện huyện T1 đã chuyển khoản
vào tài khoản của Điện lực P2 mở tài Ngân hàng Aribank - Chi nhánh P2 với số tiền
63.024.000 đồng. Hiện nay, Điện lực P2 không yêu cầu gì đối với Bưu điện huyện
T1.
- Ngày 21-02-2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm việc với ông Nguyễn Văn Q1 -
Phó trưởng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện T1, xác định: Việc chi
tiền bảo trợ xã hội huyện T1 đã ký kết Hợp đồng với Bưu điện huyện T1 chi từ tháng
4-2021 đến tháng 10-2021, Bưu điện huyện T1 đã quyết toán cho Phòng Lao động -
Thương binh và Xã hội huyện. Như vậy, ông Nguyễn Văn Q1 không yêu cầu khiếu
nại gì.
- Ngày 30-8-2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm việc với ông Trần Quang H2 -
chi Cục Thuế huyện T1, xác định số tiền thu thuế của 32 hộ kinh doanh cá thể là
30.543.961 đồng, đến nay Bưu điện huyện T1 đã nộp vào Ngân sách Nhà nước, nên
không yêu cầu khiếu nại gì.
Về trách nhiệm dân sự:
Nguyễn Thị Thanh T đã khắc phục 36.204.961 đồng. Còn 92.796.721 đồng, gồm
tiền chi bảo trợ xã hội là 72.726.721 đồng và tiền thu hồi bảo trợ xã hội 10.530.000
đồng và tiền bảo hiểm A1 9.540.000 đồng, T chưa khắc phục cho Bưu điện huyện
T1. Nguyễn Ngọc S1 đã khắc phục xong số tiền chiếm đoạt là 111.890.662 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm sơ 68/2023/HS-ST ngày 28-8-2023, Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Định:
Áp dụng các điểm c, d khoản 2 Điều 353; khoản 1 Điều 355; các điểm b, s
khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
Nguyễn Thị Thanh T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tham ô tài sản” và
01 (một) năm tù về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Tổng
hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành chung là 07 (bảy) năm 06 (sáu)
tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
2. Áp dụng các điểm c, d khoản 2 Điều 353; các điểm b, s khoản 1, khoản 2
Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
Nguyễn Ngọc S1 05 (năm) năm tù về tội “Tham ô tài sản”. Thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ thi hành
trách nhiệm dân sự, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 07-9-2023, Nguyễn Thị Thanh T kháng cáo xin giảm hình phạt.
5
- Ngày 10-9-2023, Nguyễn Ngọc S1 kháng cáo xin giảm hình phạt.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, Nguyễn Thị Thanh T và Nguyễn Ngọc S1 kháng
cáo bản án. Đơn kháng cáo của các bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1
Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án
ra xét xừ phúc thẩm.
Tại phiên tòa, các bị cáo giữ nguyên kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1
Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên quyết định của bản
án hình sự sơ thẩm về trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.
Các bị cáo tranh luận công khai; nói lời sau cùng các bị cáo đều tỏ ra ăn năn,
hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị được giảm hình phạt.
[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo:
[2.1]. Về tội danh:
Trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 10-2021, Nguyễn Thị Thanh T và
Nguyễn Ngọc S1 đã lợi dụng chức trách, nhiệm vụ được giao là chi hộ và thu hộ các
khoản tiền như: Chi trả tiền bảo trợ xã hội; thu hộ tiền điện, tiền thuế; tiền căn cước
công dân và tiền bán hàng tiêu dùng do Bưu điện huyện T1 đã ký hợp đồng với
Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện T1; Công ty Điện lực P2 - Chi
nhánh Bình Định; Chi cục thuế huyện T1 với tổng số tiền là 231.352.344 đồng rồi
không giao trả cho Bưu điện huyện T1, mà sử dụng cho người khác vay mượn và chi
tiêu cá nhân. Trong đó, (1) Nguyễn Thị Thanh T chiếm đoạt 119.461.682 đồng gồm
các khoản: Tiền bảo trợ xã hội 83.256.721 đồng; thu tiền căn cước công dân
4.228.000 đồng; tiền bán hàng 1.442.000 đồng và tiền thuế 30.534.961 đồng, (2)
Nguyễn Ngọc S1 đã chiếm đoạt 111.890.662 đồng gồm các khoản: Tiền bảo trợ xã
hội 42.808.000 đồng, tiền điện 63.024.000 đồng, tiền bán hàng 5.522.000 đồng và
tiền doanh thu dịch vụ Bưu chính 536.662 đồng.
Ngoài ra, cũng trong khoảng thời gian trên, Nguyễn Thị Thanh T không được Bưu
điện huyện T1 giao nhiệm vụ thu tiền Bảo hiểm A1, nhưng T đã tự ý thu của chị
Nguyễn Thị H1 9.540.000 đồng, nhưng không giao trả cho Bưu điện huyện T1, mà
chiếm đoạt tiêu xài cá nhân.
Với các hành vi phạm tội như nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định kết án
Nguyễn Thị Thanh T về tội “Tham ô tài sản” theo các điểm c, d khoản 2, Điều 353
của Bộ luật Hình sự và tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo
khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Hình sự; kết án Nguyễn Ngọc S1 về tội “Tham ô tài
sản” theo các điểm c, d khoản 2 Điều 353 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng
pháp luật.

6
[2.2]. Về hình phạt:
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt
động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, làm mất niềm tin của nhân dân vào đội ngũ công
chức Nhà nước; ảnh hưởng uy tín của Bưu điện huyện T1 nói riêng. Các bị cáo đều có
đủ năng lực hành vi dân sự, nhận thức được hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý là vi phạm pháp luật, nhưng vì
mục đích vụ lợi, muốn có tiền để tiêu xài cá nhân, nên vẫn cố ý thực hiện. Trong vụ
án này, các bị cáo thực hiện hành vi độc lập, không có sự phân công bàn bạc, do đó các
bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền mà mình đã chiếm đoạt.
Ngoài hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để tham ô 119.461.682 đồng,
thì Nguyễn Thị Thanh T còn thu tiền bảo nhiểm A1 của chị Nguyễn Thị H1 nộp cho
Bưu điện là 9.540.000 đồng (không được giao nhiệm vụ) rồi chiếm đoạt; Nguyễn
Ngọc S1 lợi dụng chức trách, nhiệm vụ được giao là chi hộ và thu hộ các khoản tiền
cho các cơ quan, tổ chức rồi chiếm đoạt 111.890.662 đồng; do đó, cần xử phạt các bị cáo
hình phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, do các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường một
phần thiệt hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; Nguyễn Ngọc S1 đã hoàn
thành nghĩa vụ quân sự; do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt Nguyễn
Thị Thanh T 07 năm 06 tháng tù (về hai tội), xử phạt Nguyễn Ngọc S1 05 năm tù là
thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
Mặc dù, tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyễn Thị Thanh T cung cấp được tài liệu để
chứng minh gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, Nguyễn Ngọc S1 cung cấp được
tài liệu chứng minh gia đình có hoàn cảnh khó khăn, có công với cách mạng (có
xác nhận của chính quyền địa phương), nhưng hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc
trường hợp rất nghiêm trọng, Nguyễn Thị Thanh T phạm tội nhiều lần và phạm liền
hai tội, sau khi xét xử sơ thẩm không tự nguyện bồi thường hết số tiền còn lại. Vì
vậy, để cải tạo giáo dục bị cáo cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với
loại tội phạm này, Hội đồng xét xử phúc thẩm không giảm hình phạt cho các bị cáo.
Như vậy, kháng cáo của các bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét,
nhưng không có cơ sở để chấp nhận.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.
[4]. Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên các bị cáo phải chịu
án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thị Thanh T và Nguyễn Ngọc S1.
- Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2023/HS-ST ngày 28-8-2023 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về phần Trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

7
2. Về trách nhiệm hình sự:
2.1. Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 353; khoản 1 Điều 355; các điểm b, s
khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Nguyễn Thị Thanh T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tham ô tài sản” và
01 (một) năm tù về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Tổng
hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 07 (bảy)
năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi
hành án.
2.2. Áp dụng các điểm c, d khoản 2 Điều 353; các điểm b, s khoản 1, khoản 2
Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Nguyễn Ngọc S1 05 (năm) năm tù về tội “Tham ô tài sản”. Thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Về án phí hình sự phúc thẩm:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23
Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
- Nguyễn Thị Thanh T và Nguyễn Ngọc S1, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng
(hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Định;
- TANDTC - Vụ I;
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Bình Định;
- Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Định;
- Sở Tư pháp tỉnh Bình Định;
- Cục THA dân sự tỉnh Bình Định;
- Các bị cáo (theo địa chỉ);
- Bị hại (theo địa chỉ);
- Lưu: H/sơ vụ án, các Phòng HCTP, LTHS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Phạm Việt Cường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 05/2024/HS-ST ngày 05/03/2024 của TAND huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông về tội tham ô tài sản
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 17/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 15/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 05/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 12/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Bản án số 125/2023/HS-ST ngày 05/04/2023 của TAND TP. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội tham ô tài sản
Ban hành: 05/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 01/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/02/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 06/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 của TAND huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ về tội tham ô tài sản
Ban hành: 13/01/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm