Bản án số 169/2025/HS-PT ngày 30/07/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 169/2025/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 169/2025/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 169/2025/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 169/2025/HS-PT ngày 30/07/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 169/2025/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/07/2025 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Kháng cáo của bị cáo T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2025/HSST, ngày 08/5/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột (Nay là Tòa án nhân dân Khu vực 1 – tỉnh Đắk Lắk) đã xét xử bị cáo T về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 169/2025/HS-PT
Ngày 30 - 7 - 2025
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- H1nh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Y Phi Kbuôr
Các Thẩm phán: Ông Trần Minh Quang và bà Nguyễn Thị Thu Trang
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Hồng Phúc - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Thanh Tâm - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 7 năm 2025, ti tr s Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai v án hình sự th lý số 174/2025/TLPT-HS ngày18 tháng
6 năm 2025. Do có kháng cáo của bị cáo T và kháng nghị của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 126/2025/HS-ST
ngày 08 tháng 5 năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk.
* Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:
Họ và tên: T; Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 01 tháng 9
năm 1984, ti tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ hiện
nay: Số nhà 11, đường TL, phường TA, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk (Nay là
số nhà 11, đường TL, phường TA, tỉnh Đắk Lắk); Quốc tịch: Việt Nam; Dân
tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Nội trợ; Chức v: Không; Trình độ
học vấn: 12/12; con ông Lê Xuân A (đã chết) và con bà X Thị Mỹ B; Bị cáo có
chồng là Hoàng Minh Q; bị cáo có 01 con sinh năm 2022; Tiền sự: Không; Tiền
án: Không;
Bị cáo đang bị áp dng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày
14 tháng 11 năm 2023, cho đến nay (có mặt).
Người bị hại: Ông Trần Xuân C (có mặt)
Địa chỉ: Buôn AB, phường ET, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk (Nay là
Buôn AB, phường EK, tỉnh Đắk Lắk).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Lê Hoàng D (vắng mặt)

2
Địa chỉ: 52/38 BTX, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk.
2/ Ông Hoàng Minh Q (vắng mặt)
Địa chỉ: 11 TL, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk.
3/ Ông Nguyễn Văn S (vắng mặt)
Địa chỉ: 33B Y W, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk.
4/ Ông Trần Tuấn K (vắng mặt)
Địa chỉ: 362/137 Võ Văn K1, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk.
5/ Ông Nguyễn V (vắng mặt)
Địa chỉ: 41 YK, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk.
6/ Ông Huỳnh Ngọc X (vắng mặt)
Địa chỉ: 3/12 Y NK, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo tài liệu có trong hồ sơ v án và diễn biến ti phiên tòa, nội dung v án
được tóm tắt như sau:
Ngày 09/8/2022, Công an thành phố Buôn Ma Thuột kiểm tra hành chính
cơ s Massage ĐH II, địa chỉ: Đường 30/4 phường ET, thành phố BMT của gia
đình ông Trần Xuân C (sinh năm 1971; trú ti: Buôn AB, phường ET, thành phố
BMT). Trong quá trình Cơ quan Công an kiểm tra thì ông C sử dng số điện
thoi 0942960707 và số điện thoi 0868298619 (gắn trong chiếc điện thoi di
động nhãn hiệu OPPO, màu xám) nhiều lần gọi đến số điện thoi 0988347939
(gắn trong chiếc điện thoi di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax) của ông Lê
Hoàng D (sinh năm 1985; trú ti: Tổ dân phố 7, phường TL, thành phố BMT)
nhờ Hoàng D tác động với lực lượng kiểm tra, nhưng Hoàng D lấy lý do đang
huyện M’Đ, tỉnh Đắk Lắk nên không đồng ý (Hoàng D là Phó trưng Công an
xã EP, huyện M’Đ, tỉnh Đắk Lắk, nhưng thời điểm trên đang nhà ti thành phố
BMT). Sau khi Cơ quan Công an phát hiện ti cơ s Massage trên có hành vi
chứa mi dâm và mời những người liên quan, gồm: Bà Hoàng Thị H (sinh năm
1972, là vợ ông C), anh Trần Xuân O (sinh năm 1994, là con ruột ông C), anh
Nguyễn Văn P (sinh năm 1988, là con rể của ông C) và 03 (ba) nhân viên nữ của
cơ s Massage về Cơ quan Công an làm việc, thì ông C tiếp tc gọi điện thoi
cho Hoàng D nhờ tìm người giúp ông C xin cho những người trên được bảo lĩnh
và không bị xử lý. Hoàng D nói ông C gặp trực tiếp lực lượng kiểm tra để xin
hoặc gọi điện cho những người ông C quen biết để nhờ và ông C đã gọi điện cho
một số người ông C quen biết nhờ giúp nhưng không được, nên tiếp tc điện
thoi nhờ Hoàng D, thì Hoàng D đồng ý. Do bản thân quen biết với T và thấy T
có nhiều mối quan hệ với một số cán bộ, chiến sỹ đang công tác trong lực lượng
Công an thành phố Buôn Ma Thuột, nên Hoàng D gọi điện qua ứng dng Zalo
đến tài khoản Zalo của T (cài đặt trên chiếc điện thoi di động nhãn hiệu Iphone
12, gắn Sim điện thoi có số thuê bao 0856721234) nói về việc vi phm pháp
luật ti cơ s Massage của gia đình ông C, đồng thời nhờ T liên hệ Công an
3
thành phố Buôn Ma Thuột xin cho người thân cùng nhân viên của ông C được
bảo lĩnh, thì T đồng ý và nói Hoàng D gửi số điện thoi của T cho ông C trực
tiếp liên hệ với T. Đến khoảng 08 giờ ngày 10/8/2022, Hoàng D gọi điện thoi
cho ông C thông báo đã nhờ được T xin cho người thân cùng nhân viên cơ s
Massage của ông C được bảo lĩnh và nói ông C cầm theo số tiền 20.000.000
đồng (hai mươi triệu đồng) đưa cho T để cảm ơn nếu T nhận lời (khi điện thoi
cho ông C, thì Hoàng D nói T là cháu của một đồng chí lãnh đo Công an tỉnh
Đắk Lắk), rồi Hoàng D gửi số điện thoi 0856721234 của T để ông C liên hệ.
Ông C gọi điện thoi đến số điện thoi trên của T và được T hẹn gặp ti quán cà
phê F5, địa chỉ: 97 K, phường TA, thành phố BMT. Sau đó, ông C đến nhà con
ruột là chị Trần Thị Hằng (sinh năm 1992; trú ti: Buôn AB, phường ET, thành
phố BMT) mượn số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng), rồi bỏ số tiền
trên vào trong bì thư màu trắng để đi đến gặp T ti quán cà phê F5. Ti đây, ông
C nói cho T biết về việc vi phm pháp luật ti cơ s Massage của gia đình ông C
và Cơ quan Công an đã mời vợ, con cùng nhân viên của ông C về tr s làm
việc, ông C muốn xin ti ngoi và không bị xử lý cho những người này. T đồng
ý và nói số tiền chi phí là 240.000.000 đồng (hai trăm bốn mươi triệu đồng).
Ông C đồng ý với số tiền T đưa ra trên và đưa cho T số tiền 20.000.000 đồng
(hai mươi triệu đồng) đã chuẩn bị trước đó (việc đưa tiền không có tài liệu thể
hiện), rồi nói T cho số tài khoản ngân hàng để ông C chuyển khoản số tiền còn
li, đồng thời lấy trong ví 01 (một) túi giấy đựng ảnh màu trắng, có chữ màu đỏ
“Photo – Camera Phi Tuyết” để ghi li số tài khoản ngân hàng của T, thì T viết
số tài khoản ngân hàng của T cho ông C, c thể: “T 0231000048975 VCB’’. Sau
khi quán cà phê ra về, thì ông C điện thoi nói cho Hoàng D biết về việc T đã
nhận lời giúp cho người thân và nhân viên của ông C được bảo lĩnh, không bị xử
lý hình sự với chi phí như trên. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, ông C đến nhà
ông Nguyễn Văn S (sinh năm 1965; trú ti: 33B Y W, phường ET, thành phố
BMT), kể cho ông S biết về việc Công an thành phố Buôn Ma Thuột kiểm tra cơ
s Massage của gia đình ông C phát thiện có hành vi chứa mi dâm nên lập biên
bản đưa vợ, con cùng nhân viên của ông C về tr s Công an làm việc, đồng thời
nói đã nhờ T xin cho người thân của ông C không bị xử lý và hỏi mượn tiền ông
S để chuyển cho T lo chi phí xin cho người thân của ông C. Do sợ không có
bằng chứng về việc chuyển tiền nên lúc này ông C hỏi ông S là có cách nào để
lưu li làm bằng chứng không, thì ông S nói ông C điện thoi cho T rồi ghi âm
li cuộc gọi. Vì vậy, ông C đã gọi điện thoi cho Hoàng D hỏi về việc ông C đưa
tiền cho T, thì T có xin được cho người thân cùng nhân viên của ông C được bảo
lĩnh và không bị xử lý hình sự không. Hoàng D nói T có nhiều mối quan hệ nên
nếu ông C đáp ứng được điều kiện của T (nghĩa là đưa tiền cho T như thỏa
thuận), thì T sẽ thực hiện được yêu cầu của ông C và chịu trách nhiệm về việc
ông C đưa tiền cho T (C ghi âm cuộc nói chuyện này), c thể:
“C: Con bé đấy thì anh không biết nhưng mà nó hứa vậy có chuẩn
không?
Hoàng D: Cái đó em chịu trách nhiệm cho anh; điều kiện mình đưa ra
được là được …nó ra điều kiện mình đáp ứng được là được.
4
C: Chuyển khoản cho nó là cũng có cơ sở rồi, đúng không? Trường hợp
xấu.
Hoàng D: Đúng rồi, không có cái đó đâu. Em chịu trách nhiệm cho.
C: Anh không biết nó là ai nhưng mà em thì tin. Có nghĩa là nãy nó bảo
trắng án có nghĩa là hủy hết hồ sơ đấy, thì nó bảo thế.
Hoàng D: Nói chung không bị xử lý..thằng K với lại chị H không bị gì hết
là được.
C: Có nghĩa là xử lý hành chính hay cái gì cũng không còn luôn, đúng
không?
Hoàng D: Dạ, vậy là ngon quá luôn chứ tối qua anh năn nỉ người ta nhận
người ta làm sao được nhận, thằng… kia nó còn chưa; quyền nó to thế còn chưa
dám giúp anh nữa;…ngại quá em mới nhờ thôi còn anh với người khác không
có nhờ đâu.
C: Thì anh hiểu rồi….; nhưng mà cái quan trọng nhất là mình đưa tiền
rồi cuối cùng nó vẫn khởi tố là khổ lắm, chết luôn đấy.
Hoàng D: Cái đó em chịu trách nhiệm nhá, em chịu trách nhiệm cho;
người ta đã nhận là người ta giúp.”
Tiếp theo, ông C gọi điện thoi cho T xác nhận nội dung thỏa thuận giữa
ông C với T (C ghi âm cuộc nói chuyện này), c thể:
“C: Giờ anh đang chỗ ông bạn anh chờ ông ấy lên lầu ông lấy sổ để ông
ấy tích thẻ ông ấy bắn ra cho anh, bắn cho em.
T: Dạ!
C: Nhưng mà bây giờ anh nói em này, nãy em nói anh là cái giá hai trăm
bốn mươi triệu là trắng án có nghĩa là xong hết không còn cái gì nữa phải
không?
T: Đúng rồi
C: Có nghĩa là chiều nay về luôn đấy.
T: Dạ!
C: Đấy em cứ hỏi Hoàng D, anh C sống với Hoàng D như thế nào thì từ
từ em sẽ biết…..nó tốt với nhau và nó thật với nhau thì anh chỉ biết em thôi. Bây
giờ có nghĩa là không khởi tố, không làm gì nữa có nghĩa là hủy hồ sơ luôn
đúng không?
T: Dạ đúng rồi.
C: Hả?
T: Đúng rồi, đúng rồi.
C: Vậy là chiều nay cho về hay là bây giờ cho về luôn?
T: Thì em nói trong vòng hai bốn tiếng đó, em nói hồi nãy rồi.”
5
Trong thời gian gọi điện cho Hoàng D và cho T, thì ông C đều m loa
ngoài của điện thoi cho ông S cùng nghe, sau đó ông C vay của ông S số tiền
200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) và nhờ ông S chuyển số tiền này đến số
tài khoản ngân hàng của T. Ông S dùng ứng dng Banking chuyển số tiền trên
từ tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0231000678290 của ông S đến tài
khoản ngân hàng số 0231000048975 của T (ông S chuyển tiền làm 02 (hai) lần
mỗi lần 100.000.000 đồng). Tiếp theo, ông C mượn thêm của chị Hằng số tiền
20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) và đưa số tiền này cho T ti khu vực
trước cổng nhà của T, địa chỉ: 11 TL, phường TA, thành phố BMT (việc đưa
tiền không có tài liệu thể hiện). Khoảng 17 giờ cùng ngày, ông C được Công an
thành phố Buôn Ma Thuột thông báo đến nhận bảo lĩnh cho vợ, con ruột và nhân
viên về ti địa phương, còn con rể của ông C là anh Nguyễn Văn P bị tm giữ
hình sự để điều tra về hành vi Chứa mi dâm (v án đã được xét xử). Thấy anh P
vẫn bị tm giữ nên ông C điện thoi cho T nói về việc thỏa thuận với T xin cho
người thân của ông C không bị xử lý hình sự, nhưng anh P vẫn bị tm giữ (C ghi
âm cuộc nói chuyện này), c thể:
“T: Alo?
C: Alo ừ sao đang gọi mà em đã tắt đi? Thì giờ em phải giải ...
T: Ủa sao anh kêu anh gọi Hoàng D mà?
C: Thì anh bảo gọi Hoàng D nhưng mà quan trọng là ở em chứ giờ anh
gọi Hoàng D thì nó ở huyện mà chủ yếu là ... là là là em, thì bây giờ em đã bảo
là.
T: Thế nhưng hồi sáng em cũng đã hỏi anh là hai tên người vợ với con
trai là gì thì là đọc hai tên người đó rồi mà ...
C: Nhưng mà em đã nói là cái cái vụ của anh là trắng án, có nghĩa là
giúp thì giúp vậy chứ đi giúp.
T: Không, em không nói cái vụ của anh, em giúp hai người đó, mệt quá.
C: Em bây giờ em đã giải quyết anh là vừa trắng án rồi mà giờ lại vậy thì
không có được rồi.
T: Đấy, vậy mà cái vụ đó em hỏi hai người làm cái gì? Trời ơi, em đã nói
hai người đó trắng đi về rồi mà?
C: Trắng án thì bây giờ là em nói hai vụ, hai con người, vợ của anh nhá,
với con anh nó không ảnh hưởng gì, không.
T: Hai người đó thôi, không em không biết gì nữa cả, cơ sở rồi massage
rồi con rể nhà anh đâu, hồi sáng em chỉ hỏi hai người họ tên vợ ờ, gì.
C: Anh, anh cầu Hoàng D nó biết hết, mà bây giờ thì Hoàng D nó nói với
em làm ra làm sao, cơ sở như thế nào, nói.
T: Có hai người kia con trai với lại lại lại lại vợ thôi, có nói gì tới.
C: Vợ anh con ... con ... rể anh rồi nhân viên mấy đứa nhân viên của anh
ba bốn đứa nhân viên.
6
T: Ủa không, ủa thì anh phải nói từ sáng anh nói luôn đi chứ tự nhiên anh
nói như vậy, em đã nói là hai người rồi mà? Em đã nói là hai người chứ không
có có nói.
C: Nôm na giờ anh, anh nói em này, mọi, mọi cái á thì bây giờ em nói
xem mấy trăm triệu, hai trăm bốn chục triệu của anh chứ đâu phải là nhỏ, là
bây giờ con anh, vợ anh không ảnh hưởng một cái gì cả, còn đứng giấy phép
kinh doanh thì là vợ anh đứng giấy phép kinh doanh, còn đứa nào làm sai thì
đứa ấy chịu chứ, mà bây giờ ... mấy cái sai vậy thì mới to chứ vợ anh nó có ảnh
hưởng gì đâu mà.
T: Mấy cái đó sao em biết được hồi sáng em gọi lên trên đó em dặn là hai
người là hai người đó là được đi về thôi là như vậy.
C: Nhưng bây giờ em nhận anh là hai trăm bốn chục triệu mà vợ anh nó
có ảnh hưởng gì không mà phải đi mang đi mang ra ra ngoài đó?
T: Cái đó thì em không biết được.
C: Không, nhưng mà, anh biết.
T: Cái đó là đã nói hai người đó thì hai người đó thôi chứ còn em chịu,
trên công an người ta làm cái gì sao em biết được mà?
C: Không biết, em em em gọi điện cho Hoàng D em hoặc là em, không thì
để anh gọi điện nhưng mà em gọi điện cho Hoàng D giải quyết kiểu gì đi còn
như vậy là không có được rồi, anh nói em là vậy là không được rồi đấy, chứ giờ
mẹ, anh, em đã nói anh trắng án, Hoàng D cũng nói như thế, phải trắng án.
T: Ý là trắng hai người đó, em đã nói hai người đó rồi mà.
C: Trắng án gì hai người đó, nôm na thì bây giờ như này này.
T: Không có cơ sở, làm gì có cái chuyện đó anh, làm gì có cái chuyện đó?
C: Em giải quyết cái gì thì em em gọi điện, em nói với cấp trên đi cho nó
xong đi, cho anh cái đi.
T: Không có nói được, đã nói là hai người đó là người đó rồi ...
C: Sao không nói được thì nói làm gì? Vậy thì không có được, còn không
có thì em phải gửi tiền lại cho anh anh cho đi tù luôn.
T: Trời trời anh ơi, em đã nói hai người đó em đưa tiền cho người ta rồi
anh đòi lại là sao?
C: Anh, em không có thì em giả tiền lại, còn đừng để mà anh em mình mất
lòng nhau là không có được, thì tốt nhất là bây giờ em giải quyết tình cảm, em,
anh đã nói em rồi, anh là người dân anh không biết một cái gì cả, thì bây giờ em
bảo anh hai trăm bốn chục triệu thì anh cũng trả cho em hai trăm bốn chục
triệu rồi.
T: Thôi vậy để em gọi Hoàng D cái đã.
C: Ừ.
7
T: Em đã nói hai người đó rồi mà.
C: Em điện em điện cho Hoàng D đi, nhá, em điện Hoàng D với lại điện
lại cho anh luôn.”
Tiếp đó ông C gọi điện thoi cho Hoàng D nói về việc Hoàng D và T
không thực hiện đúng như thỏa thuận (C ghi âm cuộc nói chuyện này), c thể:
“C: ... thế bảo là trắng án mà sao lại ... công an thành phố nó vừa gọi
anh là anh ... lên anh ký bảo lãnh cho nhân viên với lại thằng K với lại bà H về,
còn ... thằng P nữa thì sao? Với hai ... sao anh, anh đã nói là ... không việc,
không việc gì thì trắng án rồi mà sao lại, hả?
Hoàng D: Ủa thì bảo lãnh thì lên bảo lãnh cho về thôi chứ sao?
C: Thì sao lại còn phải bảo lãnh nữa? Vậy là vẫn còn ... em bảo trắng án
...
Hoàng D: Không không không.
C: Trắng án như thế nào hả em?
Hoàng D: Ủa chứ bây giờ, bây giờ anh ... ví dụ như là nhân viên anh nó
ra ngoài đường xe nó tông nó chết cụ nó nó kêu là công an đánh thì sao? Anh
phải bảo bảo lãnh về chứ có sao đâu?
C: À ờ, ờ ờ có nghĩa là xong đúng không?
Hoàng D: …Ờ.
C: Nhưng mà vậy thì thằng P thì sao?
Hoàng D: Em chịu á, hỏi thử coi hỏi hỏi con ấy á, hỏi con T á.
C: Thì con T nó lại bảo là bây giờ ... chỉ giải quyết cho thằng K với lại bà
H thôi còn mấy đứa nhân viên với lại thằng P không biết.
Hoàng D: Thì hồi sáng anh với nó làm việc sao? ...
C: ... thì bây giờ em nói là trắng án có nghĩa là cái vụ này là, có nghĩa là
nôm na là giúp rồi thì giúp cho nó xong luôn, có nghĩa là trắng án là trắng án
luôn.
Hoàng D: Hồi sáng em, em kêu anh trên đó anh gặp trực tiếp anh nói
chuyện luôn anh như thế nào nguyện vọng như thế nào muốn như thế nào ... em
có trên đó em kết nối cho anh gặp thôi mà.
C: Thì đấy thì em nói trắng án thế bây giờ là trắng án là nó như vậy chứ
giờ lại, lại lên quay lại thằng P nó ở lại nữa thì là sao?
Hoàng D: Để em em hỏi nó thử coi nhá.
C: Ừ em điện đi ... có gì giúp cho nhau đi chứ đừng để là.”
Sau đó, Hoàng D và ông C tiếp tc gọi điện thoi qua li cho nhau. Trong
đó ông C yêu cầu Hoàng D nói với T tiếp tc xin cho con rể của C nếu cần thêm
chi phí thì ông C sẽ lo thêm, còn Hoàng D nói: “T nói với Hoàng D là giữa C
8
với T chỉ thỏa thuận xin cho vợ và con ruột của ông C, không xin cho con rể và
nhân viên của ông C’’, đồng thời hẹn cuối tuần sẽ dẫn ông C đến gặp T để giải
quyết (C ghi âm các cuộc nói chuyện này). Ngày 11/8/2022, ông C cùng anh
Trần Tuấn K (sinh năm 1991; trú ti: 362/137 Võ Văn K1, phường KX, thành
phố BMT, là cháu của ông C) đến nhà T để yêu cầu T tiếp tc thực hiện theo
thỏa thuận, thì gặp chồng của T là ông Hoàng Minh Q đang khu vực trước
cổng nhà của T, ông C nói cho Q biết về thỏa thuận giữa ông C với T nhưng
hiện T mới chỉ lo được cho vợ, con ruột và nhân viên của ông C, còn con rể ông
C là anh P vẫn bị tm giữ hình sự nên muốn T tiếp tc liên hệ với Công an thành
phố Buôn Ma Thuột để xin bảo lĩnh cho anh P. Do sợ ồn ào nên Q nói ông C
đến quán cà phê BT, địa chỉ: 12 LD, phường TT, thành phố BMT để Q ch T ra
gặp nói chuyện. Ông C cùng anh K đến quán cà phê trên được một lúc thì Q, T
cùng với anh Nguyễn V (sinh năm 1990; trú ti: 41 YK, phường TL, thành phố
BMT) và anh Huỳnh Ngọc X (sinh năm 1991; trú ti: 3/12 Y NK, phường TL,
thành phố BMT) đến gặp ông C, ông C yêu cầu T tiếp tc xin bảo lĩnh cho anh
P, nếu không phải trả li tiền cho ông C, nhưng T không đồng ý và nói việc của
ông C thì T đã thực hiện xong nên giữa hai người xảy ra cãi nhau, do sợ xảy ra
đánh nhau nên ông C và anh K bỏ đi về. Khoảng 15 giờ ngày 12/8/2022, Hoàng
D hẹn ông C và T đến quán cà phê Bảo Tàng để nói chuyện. Lúc này, ông C đi
cùng với anh K; T đi cùng với Q, V và X đến quán cà phê BT. Ti đây, ông C
nói về việc ông C thỏa thuận nhờ T xin cho 06 (sáu) người được bảo lĩnh nhưng
T mới chỉ xin được cho 05 (năm) người, đồng thời tiếp tc yêu cầu T xin bảo
lĩnh cho anh P như thỏa thuận và nếu cần thêm tiền ông C sẽ lo, nếu không thì
trả li số tiền đã nhận của ông C. T nói giữa ông C và T không thỏa thuận gì hết,
thì anh K nói ông C lấy file ghi âm m cho T nghe. Nghe vậy thì T chửi ông C,
còn X thì cầm ly nước trên bàn tt trúng vào người ông C. Lúc này V can ngăn
rồi cùng với Q, T và X ra xe ô tô để đi về. Khi nhóm người bên T lên xe đi về thì
ông C cùng K đuổi theo, thì bị X xuống xe dùng tay, chân đánh ông Trần Xuân
C (gây thương tích 0%), còn V thì đuổi theo anh K nhưng được Hoàng D can
ngăn. Sau đó, ông C đã đến Công an phường TT, Thành phố BMT trình báo v
việc và làm đơn tố giác T cùng Lê Hoàng D có hành vi chiếm đot số tiền
240.000.000 đồng của ông C.
*Quá trình điều tra xác định: Số tài khoản ngân hàng 0231000048975 là
của T được đăng ký, m tài khoản ti ngân hàng Vietcombank vào ngày
29/01/2004 và sử dng cho đến nay. Ngày 10/8/2022, trước khi ông C chuyển
tiền đến thì số dư trong tài khoản này là 13.067.613 đồng, sau khi nhận từ tài
khoản 0231000678290 (m ti ngân hàng Vietcombank) của ông Nguyễn Văn S
số tiền 200.000.000 đồng (tin nhắn đến trên điện thoi thể hiện lần lượt vào lúc
11h11’18’’ và 11h33’42’’), thì tài khoản trên của T đã có những giao dịch
chuyển tiền đến nhiều tài khoản khác nhau trong đó có số tài khoản của chồng T
là Hoàng Minh Q và của Lê Hoàng D, c thể như sau:
- Thời điểm 11h47’35’’ ngày 10/8/2022 (tin nhắn đến trên điện thoi thể
hiện), tài khoản số 0231000048975 Vietcombank của T lần lượt phát sinh giao
dịch chuyển tổng số tiền 125.000.000 đồng (một trăm hai mươi lăm triệu đồng)
9
đến số tài khoản 23088011077779 cũng của T m ti Ngân hàng TMCP HHVN
(ngân hàng MSB- Ti thời điểm trước khi nhận tiền chuyển thì số dư trong tài
khoản MSB này có số tiền là 3.614.939 đồng); chuyển số tiền 85.000.000 đồng
(tám mươi lăm triệu đồng) đến số tài khoản 0251002689999 của chồng T là
Hoàng Minh Q, m ti ngân hàng Vietcombank.
- Đối với tài khoản 23088011077779 MSB của T: Sau khi có số tiền
125.000.000 đồng (một trăm hai mươi lăm triệu đồng) từ tài khoản nhân hàng
Vietcombank của T chuyển đến, thì trong ngày 10/8/2022 đã chuyển số tiền
50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) đến tài khoản số 0251002689999
Vietcombank của chồng T là Hoàng Minh Q; chuyển số tiền 15.000.000 đồng
(mười lam triệu đồng) đến số tài khoản 02310000554739 Vietcombank của Lê
Hoàng D; chuyển số tiền 3.640.000 đồng đến số tài khoản 19035905392017
Techcombank của chị Nguyễn Thị Lê T (sinh năm 1992; trú ti: Thôn 9, xã Hòa
C, thành phố Buôn Ma Thuột – T khai là do T trả tiền mua quần áo) và chuyển
số tiền 1.393.000 đồng, đến số tài khoản 19037740215010 (chưa xác định chủ
tài khoản hoặc người nhận); thực hiện 03 (ba) lần rút tiền mặt trong tài khoản
với tổng số tiền là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
+ Ngày 11/8/2022, tài khoản ngân hàng MSB của T tiếp tc chuyển số
tiền 10.000.000 đồng, đến số tài khoản 0251002689999 Vietcombank của chồng
T là Hoàng Minh Q và chuyển số tiền 2.298.000 đồng đến số tài khoản
19738002467011 của T m ti Ngân hàng TMCP Techcombank.
- Đối với số tài khoản 0251002689999 Vietcombank của Hoàng Minh Q:
Vào ngày 10/8/2022, trước khi có số tiền 85.000.000 đồng (tám mươi lăm triệu
đồng) từ tài khoản Vietcombank và số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu
đồng) từ tài khoản MSB của T chuyển đến, thì số dư trong tài khoản này là
25.787.756 đồng. Sau khi có tổng số tiền 135.000.000 đồng (một trăm ba mươi
lăm triệu đồng) từ 02 (hai) tài khoản ngân hàng trên của T chuyển đến, thì trong
ngày 10/8/2022 đã phát sinh giao dịch sau,
+ Chuyển số tiền 20.000.000 đồng đến số tài khoản 40284456789 đăng ký
ti ngân hàng SCB của bà Nguyễn Thị H1 (sinh năm 1979; trú ti: 130/7 ĐK,
phường TL, thành phố BMT - H1 khai Q chuyển tiền đặt cọc mua đất chung
giữa Q với H1, nhưng bà H1 không nhớ mua đất đâu);
+ Chuyển số tiền 9.000.000 đồng đến số tài khoản 5200205912190 đăng
ký ti ngân hàng Agribank của chị Nông Thị H2 (sinh năm 1994; trú ti: 48 ĐN,
phường TL, thành phố BMT - H2 khai số tiền trên do chồng của H2 là Đinh
Ngọc H3 vay của Q, nhưng do không có tài khoản ngân hàng nên đã nhờ tài
khoản của H2 để nhận tiền vay từ Q);
+ 03 (ba) lần rút tiền mặt ti tr ATM với tổng số tiền 15.000.000 đồng
(mười lăm triệu đồng) và 01 (một) lần rút tiền ti ngân hàng với số tiền là
95.000.000 đồng (chín mươi lăm triệu đồng).
* Ti Cơ quan điều tra,
10
- T khai: Ngày 10/8/2022, khi T đang uống cà phê ti quán cà phê F5, địa
chỉ: 97 KV, phường TA, thành phố BMT thì Lê Hoàng D gọi điện thoi cho T
nói về người nhà của ông Trần Xuân C bị Cơ quan Công an bắt nên nhờ T xin
ti ngoi (bảo lĩnh) và nói đưa số điện thoi của T cho ông C để ông C trực tiếp
liện hệ thì T đồng ý (khi gọi điện thì Hoàng D không nói rõ tên ông C mà nói là:
“Có ông anh quen thân”), còn lý do Hoàng D gọi cho T để nhờ việc trên thì T
không biết; khi gặp ông C thì ông C có kể cho T nghe việc gia đình ông C có
kinh doanh cơ s Massage bị Cơ quan Công an bắt về hành vi chứa mi dâm và
đang tm giữ vợ, con ruột của ông C để làm việc. Ông C sợ vợ con bị bắt nên
nhờ T xin cho những người này được bảo lĩnh, ti ngoi, chi phí như thế nào thì
ông C sẽ lo và T đồng ý (ông C nói rõ họ tên những người trên cho T biết,
nhưng không nói gì về con rể của ông C cũng bị bắt). Tuy nhiên, T không thỏa
thuận gì về chi phí tiền bc để xin bão lĩnh cho vợ, con của ông C. Việc T đồng
ý giúp ông C là do bản thân T có quen biết nhiều cán bộ, chỉ huy đang công tác
ti Cơ quan Công an thành phố Buôn Ma Thuột, nhưng sau đó T chưa gặp hoặc
liên hệ với bất cứ ai là người có thẩm quyền hay có ảnh hưng đến việc xử lý
hành vi vi phm pháp luật ti cơ s Massage của gia đình ông C để xin cho
người thân của ông C được nhận bảo lĩnh như đã nhận lời với ông C. Việc T ghi
số tài khoản ngân hàng của T cho ông C là để nếu T xin được cho người nhà của
ông C, thì ông C sẽ gửi tiền cảm ơn. Đối với số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm
triệu đồng) có trong tài khoản ngân hàng số 0231000048975 Vietcombank của T
(là tiền ông C chuyển đến thông qua tài khoản ngân hàng của ông Nguyễn Văn S
vào ngày 10/8/2022), thì do bận chăm con nhỏ, ít dùng điện thoi nên T không
biết có tin nhắn thông báo tài khoản ngân hàng của T có số tiền trên chuyển đến
(thời điểm này T có con nhỏ khoảng 03 tháng tuổi). Đến khoảng 17 giờ cùng
ngày, sau khi xem điện thoi thì T mới biết trong tài khoản có số tiền
200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng), do tài khoản của người tên NGUYEN
VAN S chuyển đến. T nghĩ đây là tiền do bn của chồng là Hoàng Minh Q thuê
nhà của vợ chồng T chuyển đến, nên có hỏi Q về nguồn gốc số tiền trên nhưng
Q nói không có ai trả tiền cho Q. Vì nghĩ có người chuyển tiền nhầm đến tài
khoản ngân hàng của mình, nên T đã gọi điện đến bộ phận chăm sóc khách hàng
của ngân hàng Vietcombank thông báo về việc này (việc chuyển nhầm tiền),
đồng thời nhờ ngân hàng hỗ trợ để trả li tiền cho người đã chuyển tiền. Đối với
các giao dịch chuyển tiền và rút tiền trong các tài khoản ngân hàng do T đứng
tên đăng ký trên (tài khoản của Ngân hàng Vietcombank và MSB) vào ngày
10/8/2022, T khai do vợ chồng T dùng chung tài khoản và thời điểm trên do có
con nhỏ nên T ít ra ngoài, nên những giao dịch trên là do Q tự thực hiện và T
không rõ mc đích Q chuyển tiền và rút tiền để dùng vào việc gì; T xác nhận
vào trưa ngày 10/8/2022, Q nói T chuyển cho Lê Hoàng D mượn số tiền
15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng), nên T đã chuyển số tiền trên đến số tài
khoản 02310000554739 Vietcombank của Hoàng D (Hoàng D đã trả li số tiền
này). T khẳng định không nhận số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng),
trực tiếp từ ông C như ông C đã trình báo và không biết số tiền 200.000.000
đồng (hai trăm triệu đồng), là do ông C chuyển đến tài khoản của T. Ngày
16/02/2024, T tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 200.000.000
11
đồng (hai trăm triệu đồng), để Cơ quan điều tra trả li cho người chuyển nhầm
đến tài khoản ngân hàng của T.
+ Đối với dữ liệu âm thanh do ông Trần Xuân C giao nộp T xác nhận
giọng người ph nữ trong file âm thanh là giọng của T; về nội dung trao đổi ông
C đưa cho T số tiền 240.000.000 đồng, thì T sẽ xin cho người nhà của ông C
không bị xử lý hình sự (trắng án), T khai: “Do khi ông C gọi điện T đang bế con
nhỏ không để ý nên chỉ nói cho xong việc’’; đối với nội dung ông C yêu cầu tiếp
tc xin cho con rể của ông C như thỏa thuận, T khai: “Nội dung T trả lời ông C
“hồi sáng em gọi lên trên đó em dặn là hai người là hai người đó là được đi về
thôi’’, thực tế T không gọi điện và nhờ ai xin cho vợ, con của ông C được ti
ngoi. Do sáng ngày 10/8/2022, ông C chỉ nhờ T xin cho vợ và con ruột của ông
C, nên khi ông C nói như vậy T sợ ông C gài để buộc T phải xin cho con rể của
ông C được ti ngoi; nội dung khi ông C đòi li tiền, T nói “em đã nói hai
người đó em đưa tiền cho người ta rồi anh đòi lại là sao?’’, thì T không giải
thích được lý do T nói với ông C như trên mà cho rằng ti thời điểm nghe điện
thoi của ông C, thì trong nhà của T có đông người nên T nói nội dung trên với
người trong nhà của T’’.
+ Đối với việc T khai đã gọi điện đến bộ phận chăm sóc khách hàng của
ngân hàng Vietcombank thông báo về việc có người chuyển nhầm tiền đến tài
khoản ngân hàng của T. Ti Văn bản số 1893 ngày 01/02/2024 của Trung tâm
hỗ trợ khách hàng thuộc Ngân hàng Vietcombank, thể hiện: Trung tâm ghi nhận
số điện thoi 0856721234, là số điện thoi đăng ký Digibank và SMS Banking
của khách hàng T đã gọi đến tổng đài 1900545413 của Trung tâm 02 (hai) lần
vào các thời điểm: 11:02:54 ngày 14/8/2022 và 08:48:55 ngày 26/8/2022, nội
dung thông báo: “Khách hành T nhận được 02 giao dịch chuyển tiền tới tài
khoản số 0231000048975 của khách hàng, khách hàng không quen người
chuyển tiền và khách hàng sẽ đồng ý hoàn trả nếu ngân hàng hỗ trợ’’.
- Hoàng Minh Q khai: Thời điểm trên Q và T sống chung với nhau như vợ
chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn. Quá trình sinh sống thì hai người sử dng
chung tài khoản ngân hàng số 0231000048975 Vietcombank, nhưng T là người
quản lý số tài khoản trên. Do Q có làm kinh doanh bất động sản và ngày
10/8/2022 Q cần tiền đặt cọc mua đất nên đã tự sử dng điện thoi của T chuyển
số tiền 135.000.000 đồng (một trăm ba mươi lăm triệu đồng) từ tài khoản ngân
hàng trên đến số tài khoản ngân hàng 0251002689999 Vietcombank của Q, sau
đó rút tổng số tiền 110.000.000 đồng (một trăm mười triệu đồng) trong tài khoản
này của Q đem đi đặt cọc tiền mua đất, nhưng không nhớ đã đặt cọc tiền mua
đất cho ai (ngày 11/8/2022, Q tiếp tc chuyển thêm 10.000.000 đồng đến tài
khoản của Q); cũng trong ngày 10/8/2022, Lê Hoàng D gọi điện thoi hỏi mượn
Q số tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng), nên Q nói T chuyển khoản số
tiền trên cho Hoàng D mượn; giữa Q và T không có tài sản hay bất động sản gì
chung để cho thuê, nên không có sự việc vào ngày 10/8/2022, T có hỏi Q về
người khác trả tiền thuê tài sản chung; Q không biết gì về việc thỏa thuận giữa T
với ông Trần Xuân C và cũng không biết nguồn gốc số tiền Q đã chuyển từ tài
khoản của T đến tài khoản của Q.
12
- Lê Hoàng D khai: Trong thời gian quen biết với T thì có nghe T nói là T
có khả năng xin cho người có hành vi phm tội thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng được ti ngoi (T phủ nhận việc nói với Hoàng D như trên). Mặt khác, do
thấy T có mối quan hệ thân thiết với một số cán bộ chiến sỹ và lãnh đo đang
công tác trong ngành Công an tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, khi ông Trần Xuân C nhờ
tìm người liên hệ xin giúp cho người nhà của ông C được bảo lĩnh và không bị
xử lý thì Hoàng D nghĩ T có thể giúp được cho ông C nên đã gọi điện nhờ T xin
giúp cho ông C. Hoàng D có nói ông C chuẩn bị số tiền 20.000.000 đồng (hai
mươi triệu đồng) để cảm ơn T nếu T nhận lời, nhưng không thỏa thuận tiền bc
gì với T về việc T giúp ông C. Tuy nhiên, sau khi ông C gặp T thì ông C có gọi
điện cho Hoàng D nói về việc T nhận lời giúp ông C với chi phí là 240.000.000
đồng (hai trăm bốn mươi triệu đồng). Đến khoảng 11 giờ ngày 10/8/2022, ông C
tiếp tc gọi điện thoi cho Hoàng D hỏi về việc đưa tiền cho T có đảm bảo
không, thì Hoàng D bảo đảm việc ông C đưa tiền cho T, đồng thời nói T có
nhiều mối quan hệ nên nếu ông C đưa tiền cho T thì T sẽ xin được cho người
nhà và nhân viên của ông C theo yêu cầu của ông C. Khoảng 17 giờ cùng ngày,
ông C gọi điện thoi cho Hoàng D thông báo Công an thành phố Buôn Ma
Thuột cho bảo lĩnh vợ, con ruột cùng nhân viên của ông C về, còn con rể ông C
là Nguyễn Văn P bị tm giữ và yêu cầu Hoàng D nói T tiếp tc xin cho con rể
của ông C. Sau đó, Hoàng D liên lc với T thì được T cho biết ông C và T chỉ
thỏa thuận xin cho vợ và con ruột của ông C, không thỏa thuận xin cho con rể
của ông C là anh P. Do bận làm việc cơ quan nên Hoàng D hẹn với ông C cuối
tuần về sẽ đưa ông C đến gặp T để giải quyết. Ngày 12/8/2022, Hoàng D liên lc
với ông C hẹn đến quán cà phê Bảo Tàng gặp, nói chuyện thì ông C có nói với
Hoàng D là đã chuyển cho T số tiền 240.000.000 đồng để xin bão lĩnh cho 06
(sáu) người nhưng T chỉ lo bảo lĩnh được 05 (năm) người, đồng thời nói Hoàng
D gọi T ra gặp để nói chuyện và nếu cần thêm tiền chi phí thì nói để ông C lo
thêm, nếu không phải trả li số tiền trên cho ông C. Sau đó, Hoàng D gọi điện
cho T hẹn đến quán cà phê gặp ông C nói chuyện. Ti đây, ông C yêu cầu T phải
trả li số tiền đã nhận do không thực hiện đúng như thỏa thuận nhưng T không
đồng ý, rồi hai bên xảy ra mâu thuẫn. Trong thời gian quen biết thì Hoàng D,
Hoàng Minh Q và T thường sử dng tài khoản ngân hàng để chuyển tiền qua li
cho nhau vay. Ngày 10/8/2022, Hoàng D gọi điện thoi cho Q hỏi mượn số tiền
15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng), đến khoảng 14 giờ cùng ngày Q chuyển
số tiền trên cho Hoàng D mượn, còn nguồn gốc số tiền này Q có từ đâu, Hoàng
D không biết. Sau đó, Hoàng D đã chuyển trả số tiền trên cho Q.
Ti Kết luận giám định số 1052/KL-KYHS ngày 04/11/2022, của Phòng
Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận:
+ Chữ viết có nội dung “T 0231000048975 VCB” trên tài liệu cần giám
định (kí hiệu A) so với chữ viết mang tên T trên các mẫu so sánh (kí hiệu M1,
M2), do cùng một người viết ra.
+ Chữ viết có nội dung “Việt con banh” trên tài liệu cần giám định (kí
hiệu A) so với chữ viết mang tên T trên các mẫu so sánh (kí hiệu M1, M2),
không phải do cùng một người viết ra.

13
- 01 (một) USB chứa dữ liệu âm thanh do ông C dùng điện thoi di động
ghi âm nội dung gọi điện thoi trao đổi với T và Lê Hoàng D về v việc trên.
Ti bản Kết luận giám định số 1787, ngày 05/5/2023 của Phân viện khoa học
hình sự ti thành phố Đà Nẵng đối với 07 (bảy) tệp âm thanh được lưu trữ trong
01 (một) USB do ông C giao nộp, thể hiện:
+ Không tìm thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sữa nội dung âm thanh trong
các tệp âm thanh mẫu cần giám định;
+ Tiếng nói của người đàn ông xưng “anh’’ trong các tệp âm thanh mẫu
cần giám định nêu mc 1.1 đến mc 1.7 (ký hiệu “C’’ trong bản dịch nội dung
âm thanh mẫu cần giám định) và tiếng nói của Trần Xuân C trong mẫu so sánh
là của cùng một người;
+ Tiếng nói của người đàn ông xưng “em’’ trong các tệp âm thanh mẫu
cần giám định nêu mc 1.2 đến mc 1.6 (ký hiệu “Hoàng D’’ trong bản dịch
nội dung âm thanh mẫu cần giám định) và tiếng nói của Lê Hoàng D trong mẫu
so sánh là của cùng một người;
+ Tiếng nói của người ph nữ xưng “em’’ trong các tệp âm thanh mẫu cần
giám định nêu mc 1.1 đến mc 1.7 (ký hiệu “T’’ trong bản dịch nội dung âm
thanh mẫu cần giám định) và tiếng nói của T trong mẫu so sánh là của cùng một
người.
+ Phân viện khoa học hình sự ti thành phố Đà Nẵng đã dịch nội dung âm
thanh mẫu cần giám định thành dng đọc được, thể hiện: Nội dung liên quan đến
việc trao đổi giữa ông C với Hoàng D và giữa T với ông C về việc ông C đưa
tiền cho T để nhờ T xin cho người nhà của ông C không bị xử lý hình sự trong
v việc chứa mi dâm được Cơ quan Công an phát hiện ti cơ s Massage của
gia đình ông C vào ngày 09/8/2022.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 126/2025/HS-ST ngày 08 tháng 5 năm
2025 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:
1. Áp dng điểm a
khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự;
Điểm b khoản 1,
khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Lê Thị T phm tội “Lừa đảo chiếm đot tài sản”
Xử pht:
lê Thị T
07 năm tù
, t
hời hn chấp hành hình pht tù tính từ
ngày bắt thi hành án.
Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 589 Bộ luật
Dân sự.
Tịnh thu số tiền 200.000.000 đồng do bị cáo T tự nguyện giao nộp và trả số tiền
này cho ông Trần Xuân C.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên xử về án phí và quyền kháng cáo theo
quy định của pháp luật.
- Ngày 19/5/2025, bị cáo T kháng cáo kêu oan.

14
- Ngày 05/6/2025, Viện trưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk có
Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 08/QĐ-VKS-P7, kháng nghị toàn bộ Bản
án sơ thẩm do đánh giá chưa đầy đủ, toàn diện bản chất nội dung v án, có dấu
hiệu bỏ lọt người phm tội, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án sơ
thẩm để điều tra, truy tố, xét xử li theo thủ tc chung.
Ti phiên toà phúc thẩm, bị cáo T giữ nguyên kháng cáo và không thừa
nhận hành vi phm tội như Bản án sơ thẩm đã kết tội. Còn ông Trần Xuân C ti
phiên toà đã xác nhận toàn bộ nội dung v án như Bản án sơ thẩm đã đề cập là
hoàn toàn đúng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk giữ nguyên Quyết
định kháng nghị phúc thẩm và phát biểu quan điểm:
- Đối với kháng cáo của bị cáo T, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội
“Lừa đảo chiếm đot tài sản” theo
điểm a
khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự là
có căn cứ, đúng pháp luật và không oan sai nên việc bị cáo T kháng cáo kêu oan
là không có cơ s.
- Mặc dù Lê Hoàng D không có sự bàn bc, thỏa thuận gì với bị cáo T về
việc T nhận tiền của ông C để xin cho người thân của ông C được ti ngoi và
không bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, Lê Hoàng D là người giới thiệu bị cáo T cho
ông C để ông C liên hệ với T, trong khi đó Lê Hoàng D biết rõ bị cáo T là người
không có chức v, quyền hn gì trong việc giải quyết ti ngoi cho người thân
của ông C, khi ông C thấy không đảm bảo việc đưa tiền cho T thì Lê Hoàng D
đã đứng ra đảm bảo việc đưa tiền cho T là để ông C tin tưng hơn, Lê Hoàng D
còn đưa ra thông tin không đúng sự thật, to sự tin tưng để ông C chuyển tiền
cho T và T đã chiếm đot tiêu xài cá nhân. Trong v án này Lê Hoàng D đã thực
hiện hành vi với vai trò đồng phm giúp sức cho bị cáo T thực hiện hành vi
phm tội nhưng Cấp sơ thẩm không điều tra, truy tố, xét xử đối với Lê Hoàng D
về tội “Lừa đảo chiếm đot tài sản” là bỏ lọt người phm tội.
Do đó, đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a, b khoản 1 Điều 358
Bộ luật Tố tng hình sự; Chấp nhận kháng nghị của Viện trưng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Lắk và một phần kháng cáo của bị cáo T: Hủy Bản án hình sự
sơ thẩm số 126/2025/HSST, ngày 08/5/2025 của TAND thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Giao hồ sơ v án cho Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 1,
tỉnh Đắk Lắk để điều tra li theo thủ tc chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Trên cơ s nội dung v án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ v án đã
được tranh tng ti phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1]. Xét kháng cáo kêu oan của bị cáo T, thì thấy:
Mặc dù, ti cơ quan điều tra và ti phiên toà bị cáo T không thừa nhận
hành vi phm tội của mình nhưng căn cứ vào lời khai của ông Trần Xuân C,
người có quyền lợi và nghĩa v liên quan, kết luận giám định giọng nói, kết luận
15
giám định chữ viết, sao kê tài khoản Ngân hàng của bị cáo T và các chứng cứ,
tài liệu khác có trong hồ sơ v án, đã có đủ cơ s để kết luận: Vào ngày
10/8/2022 bị cáo T có nhận của ông C số tiền 200.000.000 đồng bằng hình thức
chuyển khoản để lo ti ngoi và không bị xử lý về trách nhiệm hình sự cho
người nhà của ông C. Mặc dù bị cáo T là người không có thẩm quyền, không có
khả năng tác động đến người có thẩm quyền đang giải quyết v việc vi phm
pháp luật bị phát hiện ti cơ s Massage của gia đình ông C nhưng bị cáo T đã
nhận lời theo yêu cầu của ông C, xin cho người thân của ông C không bị xử lý
theo quy định của pháp luật nhằm chiếm đot số tiền 200.000.000 đồng nêu trên
của ông C để tiêu xài cá nhân.
Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2025/HSST, ngày 08/5/2025 của
Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột (Nay là Tòa án nhân dân Khu vực 1
– tỉnh Đắk Lắk) đã xét xử bị cáo T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có
căn cứ, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, do bị cáo T kêu oan nên trong giai đon điều tra li v án cũng
cần đấu tranh làm rõ thêm về hành vi của bị cáo T theo quy định của pháp luật.
[2]. Xét kháng nghị của Viện trưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Lắk cho rằng Cấp sơ thẩm không điều tra, truy tố, xét xử đối với Lê Hoàng D về
tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với vai trò là đồng phm với bị cáo T, thì thấy:
Ngày 09/8/2022, ông Trần Xuân C gọi điện thoi cho ông Lê Hoàng D
nhờ ông Lê Hoàng D liên hệ xin bảo lĩnh cho vợ, con và 03 nhân viên của cơ s
massage của ông C thì ông Lê Hoàng D đồng ý. Do quen biết T là người có
nhiều mối quan hệ rộng và có quen với những người có thẩm quyền có khả năng
xin bảo lĩnh, ti ngoi và không bị xử lý trách nhiệm hình sự (trắng án) cho vợ,
con và nhân viên của ông C nên Lê Hoàng D gọi điện thoi cho bị cáo T kể li
sự việc của gia đình ông C và nhờ bị cáo T xin bảo lĩnh, ti ngoi cho vợ, con và
03 nhân viên thì T đồng ý. Lê Hoàng D nhắn tin gửi số điện thoi của T cho ông
C để ông C trực tiếp liên hệ với T. Sau đó, ông C đã liên hệ với T thỏa thuận xin
bảo lĩnh, ti ngoi và không bị xử lý hình sự cho vợ, con và 03 nhân viên nữ với
số tiền 240.000.000 đồng và thông báo cho Hoàng D biết, đồng thời ông C hỏi
ông Lê Hoàng D về việc đưa tiền cho T có đảm bảo không thì Lê Hoàng D trả
lời là sẽ chịu trách nhiệm và đảm bảo cam đoan việc ông C đưa tiền cho T thì T
sẽ lo được việc xin bảo lĩnh, ti ngoi và không bị xử lý cho vợ, con ông C nên
ông C tin tưng và chuyển số tiền 200.000.000 đồng đến tài khoản Ngân hàng
cho T.
Như vậy, hành vi của ông Lê Hoàng D giới thiệu ông C là người nhờ giúp
giải quyết công việc (đưa tiền hối lộ) với bị cáo T là người sẽ giúp ông C giải
quyết công việc theo yêu cầu của ông C và thực tế ông C đã chuyển tiền cho T,
T đã nhận, sau đó ông C báo li cho Lê Hoàng D biết việc này. Ông Lê Hoàng D
là người trung gian để kết nối giữa ông C và bị cáo T nhằm hướng đến với mc
đích để bị cáo T dùng số tiền 240.000.0000 đồng này (bị cáo T chỉ thừa nhận có
nhận 200.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản từ tài khoản của ông
Nguyễn Văn S, còn số tiền 40.000.000 đồng ông C khai đưa trực tiếp cho bị cáo
16
T thì T không thừa nhận) liên hệ với ngưới có chức v, quyền hn giải quyết
giúp cho gia đình của ông C được bão lĩnh ti ngoi và không bị xử lý trách
nhiệm hình sự khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý về hành vi chứa mi
dâm ti cơ s massage của gia đình ông C. Mặc dù, bị cáo T không dùng số tiền
trên để đưa cho người có chức v, quyền hn hoặc người trực tiếp th lý giải
quyết hồ sơ v việc chứa mi dâm ti cơ s massage của gia đình ông C thì hành
vi của ông Lê Hoàng D là có dấu hiệu của tội phm “Môi giới hối lộ” quy định
ti Điều 365 Bộ luật Hình sự.
Còn kháng nghị của Viện kiểm sát cho rằng mặc dù ông Lê Hoàng D
không có sự bàn bc, thỏa thuận gì với bị cáo T về việc T nhận tiền của ông C
để xin cho người thân của ông C được ti ngoi. Tuy nhiên, ông Lê Hoàng D là
người giới thiệu bị cáo T cho ông C để ông C liên hệ với T, trong khi đó Lê
Hoàng D biết rõ bị cáo T là người không có chức v, quyền hn gì trong việc
giải quyết ti ngoi cho người thân của ông C, khi ông C nghi ngờ việc đưa tiền
cho T không đảm bảo thì Lê Hoàng D đã đứng ra cam đoan việc đưa tiền cho T
là đảm bảo và để ông C tin tưng hơn, Lê Hoàng D còn đưa ra thông tin không
đúng sự thật, to sự tin tưng để ông C chuyển tiền cho T và T đã chiếm đot
tiêu xài cá nhân. Trong v án này, hành vi của Lê Hoàng D đã thực hiện với vai
trò đồng phm giúp sức cho bị cáo T thực hiện hành vi phm tội nhưng Cấp sơ
thẩm không điều tra, truy tố, xét xử đối với Lê Hoàng D về tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” là bỏ lọt người phm tội.
Do vậy, để giải quyết v án một cách khách quan, toàn diện và triệt để thì
trong quá trình điều tra li v án cần phải xác minh, thu thập đầy đủ chứng cứ,
điều tra làm rõ để tránh bỏ lọt người phm tội cũng như có sự đánh giá, xác định
chính xác về tội danh đối với người phm tội nếu hành vi của Lê Hoàng D có đủ
yếu tố cấu thành tội phm.
[3]. Ngoài ra, trong v án này ông Trần Xuân C là người biết rõ về hành
vi vi phm pháp luật ti cơ s massage Đi K của gia đình ông, nên ông C đã
nhờ ông Lê Hoàng D tìm người có chức v, quyền hn hoặc người có khả năng
giúp đỡ để xin cho người thân của C không bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, khi thỏa thuận và đưa tiền cho bị cáo T thì ông C nhận thức được là T
sẽ dùng số tiền của ông C đã đưa và mong muốn để bị cáo T sẽ liên hệ và tác
động đến người có chức v, quyền hn trong việc giải quyết v việc vi vi phm
pháp luật ti cơ s massage của gia đình C nhằm xin cho người thân của C
không bị xử lý theo quy định của pháp luật; mặc dù bị cáo T không tác động đến
người có thẩm quyền rồi chiếm đot số tiền đó tiêu xài cá nhân thì thấy hành vi
của ông C đã có dấu hiệu của tội phm “Đưa hối lộ” theo quy định ti Điều 364
Bộ luật Hình sự nên tiếp tc đấu tranh điều tra làm rõ để tránh bỏ lọt tội phm.
[4]. Ngoài ra cũng cần tiếp tc điều tra làm rõ về hành vi của các đối
tượng có liên quan đến v án như việc ông Nguyễn Văn S là người cho ông C
mượn tiền và biết được việc ông C mượn tiền là để chuyển cho bị cáo T; số tiền
ông S chuyển vào tài khoản của T thì ông Hoàng Minh Q là người sử dng số
tiền này và làm rõ các đối tượng có liên quan khác.

17
[5]. Trong quá trình giải quyết v án ti Cấp sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm
cũng đã ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung với nội dung như đã nhận
định trên.
Do cấp sơ thẩm điều tra, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ và đánh giá chưa
đầy đủ, toàn diện và triệt để của bản chất nội dung v án, có dấu hiệu bỏ lọt
người phm tội, nên cần chấp nhận kháng nghị của Viện trưng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Lắk và một phần kháng cáo của bị cáo T hủy toàn bộ Bản án
hình sự sơ thẩm số 126/2025/HSST, ngày 08/5/2025 của Tòa án nhân dân thành
phố Buôn Ma Thuột (Nay là Tòa án nhân dân Khu vực 1 – Tỉnh Đắk Lắk) để
điều tra, truy tố, xét xử li v án theo quy định của Bộ luật Tố tng hình sự.
[4] Về án phí: Do hủy Bản án nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự
phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a, b khoản 1 Điều 358 Bộ
luật Tố tng hình sự:
Chấp nhận kháng nghị của Viện trưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Lắk và một phần kháng cáo của bị cáo T.
Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2025/HSST, ngày 08/5/2025 của Toà
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk (Nay là Toà án nhân dân
Khu vực 1 - tỉnh Đắk Lắk); Giao hồ sơ v án cho Viện kiểm sát nhân dân Khu
vực 1 - tỉnh Đắk Lắk để điều tra li theo quy định của Bộ luật Tố tng hình sự.
2. Về án phí: Bị cáo T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Tối Cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk (02 bản);
- Phòng HSNV Công an tỉnh Đắk Lắk; (Đã ký)
- Văn phòng CQCSĐT Công an tỉnh Đắk Lắk;
- TAND khu vực 1;
- VKSND khu vực 1;
- Phòng Thi hành án dân sự khu vực 1; Y Phi Kbuôr
- Bị cáo;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ.
18
19
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm