Bản án số 76/2025/DS-PT ngày 13/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về chia tài sản chung
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 76/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 76/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 76/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 76/2025/DS-PT ngày 13/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về chia tài sản chung |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản chung |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 76/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 13/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 76/2025/DS-PT
Ngày 13-02-2025
V/v tranh chấp chia tài sản chung,
hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Nguyễn Thị Duyên Hằng
Ông Nguyễn Trung Dũng
Ông Nguyễn Văn Thanh
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tình – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đi din Vin Kim st nhân dân tnh Bnh Dương tham gia phiên tòa:
Bà Ngô Kim Duyên – Kim sát viên.
Ngày 13 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 660/2024/TLPT-DS ngày 26 tháng 11
năm 2024 về việc “tranh chấp chia tài sản chung, hợp đồng tín dụng, hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 147/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm 04/2025/QĐ-PT ngày
02/01/2025, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 62/2025/QĐ-PT ngày
21/01/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Anh T, sinh năm 1972; địa chỉ: số H, khu phố B,
phường L, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn:
1. Ông Trần Quốc T1, sinh năm 1984; địa chỉ thường trú: xóm A, xã X,
huyện T, tỉnh Thanh Hóa; địa chỉ hiện nay: đường Đ, khu phố B, phường T, thành
phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
2. Bà Trần Thị X, sinh năm 1963; địa chỉ: số A - B, đường P, phường A,
thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á (A); địa chỉ trụ sở: số D, N, Phường
E, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ liên hệ: lầu H, Tòa nhà A, số D -
446, C, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Ông Đào Dương Minh H; chức vụ: Nhân viên
xử lý nợ; địa chỉ liên hệ: lầu 8, Tòa nhà A, số D - 446, C, Phường A, Quận C,
Thành phố Hồ Chí Minh (văn bản ủy quyền ngày 26/02/2024); có mặt.
2. Bà Mai Thị H1, sinh năm 1989; địa chỉ thường trú: xóm A, xã X, huyện
T, tỉnh Thanh Hóa; địa chỉ hiện nay: đường Đ, khu phố B, phường T, thành phố
T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
3. Phòng C, tỉnh Bình Dương; địa chỉ: số D, đại lộ B, phường P, thành phố
T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: Ông Lý Thanh T2; chức vụ: Trưởng phòng; có
đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Lê Anh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm:
Trong đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, các lời khai trong quá trình
giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Lê Anh T trình bày:
Ông T và bà Trần Thị X có mối quan hệ hợp tác làm ăn. Từ năm 2020 đến
đầu năm 2021 ông T, bà X và ông T1 (con bà X) cùng góp tiền nhận chuyn
nhượng diện tích đất 4.119,9m
2
(trong đó có 700m
2
đất thổ cư), thuộc các thửa
số 616, 332, tờ bản đồ số 21, tại phường T, thành phố T của ông Nguyễn Thanh
D, bà Mai Thị L với tổng số tiền 17.000.000.000 đồng, việc đặt cọc nhận chuyn
nhượng đất được thực hiện như sau:
Ngày 01/12/2020, đặt cọc cho ông D, bà L 3.000.000.000 đồng (ba tỷ
đồng), bà X là người đại diện ký vào hợp đồng đặt cọc.
Ngày 11/01/2021, đặt cọc cho ông D, bà L số tiền 4.300.000.000 đồng, bà
X là người đại diện ký hợp đồng đặt cọc.
Tổng số tiền đặt cọc 7.300.000.000 đồng, trong đó của ông T
4.000.000.000 đồng, bà X và ông T1 góp 3.300.000.000 đồng. Do tin tưởng bà
X nên ông T đồng ý đ cho bà X và ông T1 đứng ra đại diện thực hiện việc giao
kết hợp đồng đặt cọc, bản chính giấy đặt cọc do ông T giữ. Sau khi đặt cọc tiền,
ông T đồng ý với ý bà X là đ cho ông T1 đại diện ký kết hợp đồng chuyn
nhượng quyền sử dụng đất với ông D, bà L.
Số tiền còn lại 9.000.000.000 đồng, trong đó của ông T 4.500.000.000
đồng và của bà X, ông T1 4.500.000.000 đồng.
Đến ngày 31/5/2021, sau khi các bên hoàn tất thủ tục chuyn nhượng đất,
ông T và bà X đồng ý đ ông T1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Việc hợp hai thửa đất số 332, 616 thành thửa đất số 933 được thực hiện đồng
thời với việc chuyn giao quyền sử dụng đất sau khi ký kết hợp đồng chuyn
nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 25/6/2021, ông T1 được Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất (viết tắt GCNQSDĐ) số vào sổ CS13191, đối với diện
tích 2.059,95m
2
.
Trong số tiền góp vốn, ông T góp 8.500.000.000 đồng, bà X và ông T1
8.500.000.000 đồng, được ông T1 thừa nhận tại Vi bằng số 639/VB-TPL do Văn
phòng T4 lập ngày 04/11/2021. Đầu năm 2023, do khó khăn trong kinh doanh
nên rất cần vốn, ông T mới bàn bạc với bà X chuyn nhượng thửa đất số 933
nhưng bà X, ông T1 không đồng ý. Sau đó, ông T phát hiện ông T1 thế chấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á (Ngân
hàng A), cụ th:
Ngày 02/7/2021, Ngân hàng A ký kết Hợp đồng tín dụng số
THD.CN.11.010721 với ông Trần Quốc T1 và bà Mai Thị H1, số tiền giải ngân
11.500.000.000 đồng. Tài sản thế chấp là thửa đất số 933 theo hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất ngày 02/7/2021. Đến tháng 7/2023, Ngân hàng A cho vay số
tiền 1.000.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số THD.CN.1618.100723, tài
sản thế chấp là thửa đất số 933. Việc ông T1 tự ý mang tài sản chung thế chấp
cho Ngân hàng là không đúng, ảnh hưởng đến quyền lợi của ông T nên ông khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Chia cho ông Lê Anh T ½ quyền sử dụng đất là diện tích 2.059,95m
2
(trong đó 350m
2
đất ở) trong tổng diện tích đất 4.119,9m
2
thuộc thửa số 933, tờ
bản đồ số 21, tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, theo GCNQSDĐ số
CS13191 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Trần Quốc T1 ngày
25/6/2021.
2. Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi GCNQSDĐ số CS13191 do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Trần Quốc T1 ngày 25/6/2021
đ điều chỉnh và cấp lại cho ông Lê Anh T phần đất được chia.
3. T3 vô hiệu một phần Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
THD.BĐCN.03.010721 được ký kết giữa Ngân hàng Á với ông Trần Quốc T1,
bà Mai Thị H1 tại Phòng C tỉnh Bình Dương vào ngày 02/7/2021.
Đối với yêu cầu độc lập của Ngân hàng A ông T không đồng ý.
Tại phiên tòa, ông T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và xác định quyền
sử dụng đất thuộc thửa đất số 933 là tài sản của ông T, bà X, không liên quan đến
ông T1.
Bị đơn ông Trần Quốc T1 trình bày:
Ông T1 không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì thửa đất số
933 là tài sản chung của của ông T và ông T1, số tiền ông T1 đóng góp là
8.500.000.000 đồng, không liên quan đến bà X. Bà X là người được ông T1 và
ông T nhờ đứng ra đặt cọc mua đất, còn tiền là của ông T1 và ông T. Ông T1 là
người đại diện đứng tên GCNQSDĐ, việc ông T1 thế chấp đất cho Ngân hàng A
đ vay số tiền 12.5000.000 đồng có sự đồng ý của ông T.
Bị đơn bà Trần Thị X trình bày:
Thống nhất ý kiến, yêu cầu khởi kiện của ông T và xác định quyền sử dụng
đất thuộc thửa đất số 933 là tài sản chung của ông T và bà X, nhờ ông T1 đứng
tên GCNQSDĐ. Số tiền góp và giá trị chuyn nhượng như ông T trình bày là
đúng. Bà X là người đứng ra ký kết hợp đồng đặt cọc và thực hiện các giao dịch
về đất. Hiện nay đất trống, không có sử dụng vào mục đích gì. Việc ông T1 thế
chấp quyền sử dụng đất cho Ngân hàng A vay tiền là không đúng. Bà X đồng ý
yêu cầu khởi kiện của ông T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng A trình bày:
Ngân hàng A cấp tín dụng cho ông Trần Quốc T1 và bà Mai Thị H1 căn
cứ theo:
Thỏa thuận về các điều khoản và điều kiện tín dụng chung số
THD.CN.24.010721 ngày 02/7/2021 và Hợp đồng cấp tín dụng số
THD.CN.11.010721 ngày 02/7/2021, chi tiết như sau:
Số tiền vay 11.500.000.000 đồng; mục đích vay: mua bất động sản thửa
đất số 332, 616, tờ bản đồ số 21, tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương;
phương thức cho vay: cho vay từng lần; phương thức giải ngân: được quy định
trong từng khế ước nhận nợ; thời hạn cho vay: 180 tháng k từ ngày kế tiếp ngày
bên được cấp tín dụng nhận tiền vay lần đầu; thời hạn giải ngân: tối đa 12 tháng,
k từ ngày ký hợp đồng tín dụng, lãi suất trong hạn được quy định trong từng
khế ước nhận nợ; lãi suất quá hạn 150% lãi suất trong hạn; lãi suất phạt chậm trả
10%/năm.
Đ thực hiện thỏa thuận nêu trên, Ngân hàng A đã giải ngân cho ông T1,
bà H1 bằng khế ước nhận nợ số 339973799 ngày 08/7/2021, số tiền giải ngân
11.500.000.000 đồng, được chuyn khoản vào tài khoản số 16663347 của ông
Trần Quốc T1 mở tại Ngân hàng A, thời hạn cho vay: từ ngày 09/7/2021 đến
ngày 08/7/2023, lãi suất cụ th như sau:
Lãi suất trong hạn: 7,70%/năm, cố định trong thời hạn 12 tháng đầu tiên.
Từ năm thứ 2 đến năm thứ 5, lãi suất được điều chỉnh 03 tháng/lần theo
công thức sau: lãi suất cho vay (%/năm) = LS13 + 3,50%/năm; từ năm thứ 06 trở
đi, lãi suất được điều chỉnh 03 tháng/lần theo công thức sau: lãi suất cho vay
(%/năm) = LS13 + 3,90%/năm, lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn, lãi suất
phạt chậm trả lãi: 10%/năm.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Ngân hàng A và ông T1, bà H1 đã ký kết
các thỏa thuận Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số THD.CN.11.010721/SĐBS-1 ngày
28/9/2023 về việc sửa đổi điều khoản trả nợ gốc, lãi.
Ngày 10/7/2023, Ngân hàng A ký kết với ông T1, bà H1 Hợp đồng tín
dụng số THD.CN.1617.100723 ngày 10/7/2023, số tiền cho vay 1.000.000.000
đồng, mục đích vay bổ sung vốn kinh doanh, Ngân hàng A đã giải ngân cho ông
T1, bà H1 số tiền này theo Khế ước nhận nợ số 403291009 ngày 10/7/2023.
Đ đảm bảo cho hai khoản vay trên, ông T1, bà H1 thế chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa số 933, tờ bản đồ số 21, tại phường T,
thành phố T, tỉnh Bình Dương theo GCNQSDĐ số DC671344, số vào sổ CS13191
do Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh B cấp ngày 25/6/2021 (Hợp đồng thế chấp
số THD.BĐCN.03.010721 ngày 02/7/2021 được công chứng tại Phòng C1 tỉnh
Bình Dương, số công chứng 2779, đăng ký thế chấp tại Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai thành phố T ngày 06/7/2021).
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng ông T1, bà H1 vi phạm nghĩa
vụ trả nợ với Ngân hàng A. Do đó, căn cứ thỏa thuận giữa hai bên về việc chấm
dứt cho vay, thu hồi nợ trước hạn và chuyn nợ quá hạn, ngày 15/3/2024 Ngân
hàng A ban hành thông báo thu hồi nợ trước hạn đối với toàn bộ khoản vay của
khế ước nhận nợ nêu trên và khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
Buộc ông Trần Quốc T1 và bà Mai Thị H1 thanh toán cho Ngân hàng A,
số tiền tính đến ngày 17/9/2024 là 13.684.847.096 đồng, trong đó nợ gốc
12.129.614.000 đồng, lãi trong hạn 696.079.243 đồng, lãi quá hạn 847.384.291
đồng, phạt chậm trả lãi 11.769.562 đồng.
Buộc ông Trần Quốc T1 và bà Mai Thị H1 còn phải tiếp tục trả tiền lãi,
phạt chậm trả lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại hợp đồng cấp tín dụng,
hợp đồng sửa đổi, bổ sung, khế ước nhận nợ, thỏa thuận về việc thay đổi lãi suất
cho vay trong hạn k từ ngày 18/9/2024 đến ngày trả hết nợ.
Nếu ông Trần Quốc T1 và bà Mai Thị H1 không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản bảo đảm sau đây được cơ quan có thẩm
quyền xử lý đ thu hồi nợ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa
đất số 933, tờ bản đồ số 21, tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Ngân hàng A không đồng ý vì
việc ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa Ngân hàng A với ông T1,
bà H1 được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Mai Thị H1 trình bày:
Bà H1 có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng C1 tỉnh Bình Dương trình
bày:
Phòng C1 tỉnh Bình Dương có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Người làm chứng ông Lê Thanh H2 trình bày:
Ông H2 làm việc tại Công ty TNHH V. Vào khoảng năm 2021, ông H2
được ông T thuê đ san lấp mặt bằng tại thửa đất số 933. Thời đim san lấp mặt
bằng, trên thửa đất số 933 có nhiều nhà trọ như ông T trình bày, sau khi san ủi
mặt bằng thì nhà trọ không còn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 147/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, đã quyết định:
Căn cứ các Điều 26, 35, 147, 157, 165, 92, 227, 228, 235, 266, 271 và 273
Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 133, 208, 209, 219, 316, 320, 319, 321, 357,
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 166, 167 Luật Đất đai năm
2013; Điều 91, Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung
năm 2017; Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định
thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; Thông tư số 39/2016/TT-
NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng N quy định về hoạt động cho vay của tổ
chức tín dụng; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp
luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Anh T
với bị đơn bà Trần Thị X, ông Trần Quốc T1 về việc “Tranh chấp chia tài sản
chung và tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất”.
1.1 Xác định quyền sử dụng đất diện tích 4.119,9m
2
thuộc thửa số 933, tờ
bản đồ số 21, tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS13191
do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Trần Quốc T1 ngày 25/6/2021
là tài sản chung của ông Lê Anh T và bà Trần Thị X, ông Trần Quốc T1.
1.2 Buộc bà Trần Thị X và ông Trần Quốc T1 có nghĩa vụ trả lại cho ông
Lê Anh T ½ giá trị quyền sử dụng đất diện tích 2.059,95m
2
(350m
2
đất ở) trong
tổng diện tích đất 4.119,9m
2
thuộc thửa số 933, tờ bản đồ số 21, tại phường T,
thành phố T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS13191 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp cho ông Trần Quốc T1 ngày 25/6/2021 với số tiền gốc
8.500.000.000 đồng và tiền lãi 2.716.175.000 đồng, tổng cộng 11.216.175.000
đồng (mười một tỷ hai trăm mười sáu nghìn một trăm bảy mươi lăm đồng)
1.3 K từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Anh T đối với
bị đơn bà Trần Thị X, ông Trần Quốc T1 về việc yêu cầu tuyên vô hiệu một phần
đối với Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số THD.BĐCN.03.010721 được ký
kết giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á với ông Trần Quốc T1, bà Mai Thị
H1 tại Phòng C tỉnh Bình Dương ngày 02/7/2021.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á đối
với bị đơn ông Trần Quốc T1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Mai Thị
H1 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Buộc ông Trần Quốc T1, bà Mai Thị H1 có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Á số tiền tính đến ngày 17/9/2024 là: 13.684.847.096
đồng (mười ba tỷ sáu trăm tám mươi bốn triệu tám trăm bốn mươi bảy nghìn
không trăm chín đồng), trong đó gồm: nợ gốc 12.129.614.000 đồng; lãi trong hạn
696.079.243 đồng; lãi quá hạn 847.384.291 đồng, phạt chậm trả lãi 11.769.562
đồng.
K từ ngày 18/9/2024, ông Trần Quốc T1, bà Mai Thị H1 còn phải tiếp tục
thanh toán tiền lãi cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á theo mức lãi suất đã
thỏa thuận theo hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng sửa đổi, bổ sung, khế ước nhận
nợ, thỏa thuận về việc thay đổi lãi suất cho vay trong hạn k từ ngày 18/9/2024
cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.
4. Về xử lý tài sản bảo đảm: Trường hợp ông Trần Quốc T1, bà Mai Thị
H1 không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ ngay sau khi bản
án của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á có
quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp theo theo Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất số THD.BĐCN.03.010721 được ký kết giữa
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á với ông Trần Quốc T1, bà Mai Thị H1 tại
Phòng C tỉnh Bình Dương ngày 02/7/2021.
5. Về chi phí tố tụng (chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc và định
giá): Ông Trần Quốc T1, bà Trần Thị X và bà Mai Thị H1 phải nộp 10.000.000
đồng (mười triệu đồng) đ trả lại cho ông Lê Anh T.
6. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Lê Anh T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ
vào 46.300.000 đồng (bốn mươi sáu triệu ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án
phí, còn trả cho ông Lê Anh T 46.000.000 đồng (bốn mươi sáu triệu đồng) tiền
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0001890 ngày 23/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình
Dương.
Ông Trần Quốc T1, bà Trần Thị X phải chịu số tiền 119.216.175 (một trăm
mười chín triệu hai trăm mười sáu nghìn một trăm bảy lăm đồng).
Ông Trần Quốc T1, bà Mai Thị H1 phải chịu số tiền 121.684.847 đồng (một
trăm hai mươi mốt triệu sáu trăm tám mươi bốn nghìn tám trăm bốn mươi bảy
đồng).
Trả lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á 60.453.521 đồng (sáu mươi
triệu bốn trăm năm mươi ba nghìn năm trăm hai mốt đồng) theo Biên lai thu tiền
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001496 ngày 23/5/2024 của Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo, trách nhiệm thi
hành án của các đương sự.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 28/9/2024, nguyên đơn ông Lê Anh T có
đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm đối với nội dung ở mục 2 phần quyết
định của bản án sơ thẩm, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu
kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Đại diện Viện Kim sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại Tòa án
cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung:
Bị đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm về việc không đồng ý Toà án
cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa Ngân hàng A và
ông T1 có hiệu lực.
Nguyên đơn ông T cho rằng thửa đất số 933 là tài sản chung của ông T với
ông T1, bà X (mẹ ông T1). Thời đim đặt cọc nhận chuyn nhượng vào năm 2020
giá chuyn nhượng 17.000.000.000 đồng, ông T góp 8.500.000.000 đồng, bà X
(mẹ ông T1) và ông T1 góp 8.500.000.000 đồng, ngày 25/6/2021 ông T1 được
cấp GCNQSDĐ.
Ông T và ông T1 có lập Vi bằng số 639/VB-TPL ngày 04/11/2021 tại Văn
phòng T4, th hiện nội dung ông T và ông T1 lập góp vốn hùn tiền mua đất thửa
số 993 với giá chuyn nhượng 9.000.000.000 đồng mục đích nhằm trốn thuế, mỗi
bên góp 4.500.000.000 đồng, các bên thống nhất đ ông T1 đứng tên trên
GCNQSDĐ.
Quá trình giải quyết vụ án ông T1 thừa nhận ông T góp 8.500.000.000 đồng,
việc các bên ghi giá thấp hơn tại vi bằng và hợp đồng chuyn nhượng quyền sử
dụng đất nhằm trốn tránh thuế.
Sau khi được cấp GCNQSDĐ, ngày 02/7/2021, Ngân hàng A và ông T1,
bà H1 (vợ ông T1) ký kết Hợp đồng tín dụng số THD.CN.11.010721 nội dung:
Ngân hàng A cho ông T1, bà H1 vay số tiền 11.500.000.000 đồng, mục đích vay
đ mua bất động sản thuộc thửa đất số 332 + 616 (thửa số 933). Ông T1, bà H1
thế chấp quyền sử dụng đất cho Ngân hàng A không được sự đồng ý của ông T
nên ông T khởi kiện yêu cầu tuyên vô hiệu một phần hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất số THD.BĐCN.03.010721 được ký kết giữa Ngân hàng A với ông Trần
Quốc T1, bà Mai Thị H1 tại Phòng công chứng số A tỉnh Bình Dương vào ngày
02/7/2021.
Xét thấy: Hợp đồng thế chấp ngày 02/7/2021 được công chứng vào thời
đim bị đơn đã được cấp GCNQSDĐ, trên GCNQSDĐ chỉ có tên bị đơn nên bị
đơn có quyền của người sử dụng đất được pháp luật bảo vệ trong đó có quyền thế
chấp. Vi bằng giữa nguyên đơn và bị đơn được lập vào sau thời đim bị đơn cấp
GCNQSDĐ và sau thời đim thế chấp. Hợp đồng thế chấp được công chứng phù
hợp quy định tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 nên có hiệu lực pháp
luật. Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án trên đất không có tài sản.
Thửa đất này cấp GCNQSDĐ cho ông T1, ông T1 là người quản lý đất nên ông
T1 có các quyền của chủ sử dụng đất, việc Ngân hàng nhận thế chấp là đúng quy
định của pháp luật và được xem là người thứ ba ngay tình nên được pháp luật bảo
vệ, Ngân hàng yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp là có căn cứ chấp nhận.
Việc ông T1 và bà X thừa nhận nguyên đơn góp ½ số tiến hùn tiền nhận
chuyn nhượng đất thửa số 993 thì ông T1, bà X có nghĩa vụ bồi hoàn lại giá trị
quyền sử dụng đất tương ứng với phần nguyên đơn ông T được hưởng.
Toà án cấp sơ thẩm tuyên không chấp nhận đối với yêu cầu của ông T tuyên
hợp đồng thế chấp vô hiệu một phần và yêu cầu nhận bằng hiện vật của ông T là
không có căn cứ chấp nhận. Nguyên đơn kháng cáo nhưng không đưa ra được
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Đề nghị hội đồng xét xử căn cứ
khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được
thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày
của đương sự, ý kiến của Kim sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Nguyên đơn ông T chỉ kháng cáo một phần bản án sơ thẩm đối với
mục 2 phần quyết định của bản án sơ thẩm về việc: Không chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của ông Lê Anh T đối với bị đơn bà Trần Thị X, ông Trần Quốc
T1 về việc yêu cầu tuyên vô hiệu một phần đối với Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất số THD.BĐCN.03.010721 được ký kết giữa Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Á với ông Trần Quốc T1, bà Mai Thị H1 tại Phòng C tỉnh Bình Dương ngày
02/7/2021; yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, hủy một phần hợp đồng thế chấp giữa Ngân hàng A
với ông Trần Quốc T1 và bà Mai Thị H1, kiến nghị thu hồi giấy chứng nhận cấp
cho ông T1 đ cấp lại giấy chứng nhận với diện tích 2.059,95m
2
tương đương ½
diện tích đất tranh chấp cho ông T; ông T không kháng cáo các mục khác phần
quyết định của bản án sơ thẩm; đã hết thời hạn kháng cáo kháng nghị theo quy
định pháp luật nên các phần quyết định này của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực
pháp luật; căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xem xét trong phạm
vi nội dung kháng cáo của nguyên đơn.
Nguyên đơn kháng cáo với lý do: Thửa đất số 933 là tài sản chung của ông
T và ông T1, mỗi người góp ½ giá trị tương đương 8.500.000.000 đồng; biên bản
thẩm định hiện trạng đất của Ngân hàng không đúng thực tế (diện tích xây dựng
thực tế 1.200m
2
nhưng biên bản thẩm định là 2.000m
2
, trên đất chỉ còn 30 căn
phòng trọ nhưng biên bản ghi 60 căn phòng trọ); biên bản thẩm định tại mục chủ
tài sản ghi tên bà X là không đúng vì tháng 01/2021 bà X không phải chủ tài sản
và bà X tên Trần Thị X nhưng biên bản ghi Nguyễn Thị X1, thực tế chữ ký chữ
viết đó không phải của bà X1, bà X1 đã nói chuyện với ông T bà không biết biên
bản thẩm định, ông T1 và Ngân hàng tự làm việc, giả mạo chữ ký bà X1 trên biên
bản đ ông T1 vay tiền; Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu Ngân hàng cung cấp
toàn bộ tài liệu chứng cứ liên quan đến hồ sơ thế chấp của ông T1, không yêu cầu
Ngân hàng cho biết quy trình cho vay có thế chấp của ngân hàng, ông T yêu cầu
Tòa án thu thập các tài liệu quan trọng trong vụ án nhưng Tòa án không nhận đơn,
tại buổi công khai chứng cứ ông T không được biết những tài liệu Ngân hàng cung
cấp cho Tòa án. Tòa án cấp sơ thẩm xác định Ngân hàng là người thứ ba ngay tình
được pháp luật bảo vệ là không đánh giá toàn diện tài liệu chứng cứ, nhận định
chủ quan, không đúng sự thật ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của ông T.
[1.2] Ngày 04/10/2024, Ngân hàng A có đơn kháng cáo yêu cầu giải quyết
theo thủ tục phúc thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của Ngân
hàng. Ngân hàng chưa nộp tiền tạm ứng án phí. Đến ngày 14/10/2024, Ngân hàng
A có đơn rút yêu cầu kháng cáo. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét yêu
cầu kháng cáo của Ngân hàng.
[2] Về nội dung:
[2.1] Theo mảnh trích lục địa chính số 252 ngày 05/6/2024 của Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố T; biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày
23/4/2024 của Tòa án cấp sơ thẩm, th hiện: Đất tranh chấp diện tích 4.186,9m
2
(có 700m
2
đất ở đô thị; 3.486,9m
2
đất cây lâu năm, trong đó có 414,3m
2
thuộc
hành lang an toàn đường bộ) thuộc thửa số 933, tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại phường
T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; tài sản trên đất không có.
[2.2] Hồ sơ cấp và biến động quyền sử dụng đất th hiện:
Ông Nguyễn Thanh D và bà Mai Thị L chuyn nhượng cho ông Trần Quốc T1
diện tích đất 982,3m
2
thuộc thửa số 332, tờ bản đồ số 21 + 3.137,6m
2
thuộc thửa
số 616, tờ bản đồ số 21, tại phường T, thành phố T theo Hợp đồng chuyn nhượng
quyền sử dụng đất công chứng số 2251, quyn số 05/2021-TP/CC ngày 31/5/2021
tại Văn phòng C2, tỉnh Bình Dương với tổng diện tích 4.119,9m
2
với giá chuyn
nhượng 300.000.000 đồng. Ngày 25/6/2021, ông Trần Quốc T1 được Chi nhánh
Văn phòng Đ (nay là thành phố) Tân Uyên thừa ủy quyền của Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số DC 671344, số vào sổ CS13191 đối với diện
tích 4.119,9m
2
thuộc thửa số 933 (thửa mới), tờ bản đồ số 21.
Ngày 02/7/2021, ông T1, bà H1 và Ngân hàng A lập Hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất số THD.BĐCN.03.010721 tại Phòng C tỉnh Bình Dương có
nội dung: Ông T1, bà H1 thế chấp thửa đất số 933 nêu trên trị giá 14.586.654.018
đồng, đ đảm bảo toàn bộ các nghĩa vụ trả nợ của ông T1, bà H1 theo các hợp
đồng cấp tín dụng, hợp đồng hoặc cam kết bảo lãnh k cả trường hợp phát sinh
sau thời đim ký hợp đồng này và các thỏa thuận kèm theo hợp đồng cấp tín dụng,
hợp đồng hoặc cam kết bảo lãnh, tất cả các hợp đồng sửa đổi bổ sung, phụ lục hợp
đồng cấp tín dụng, khế ước nhận nợ, các cam kết của bên được cấp tín dụng khi
được Ngân hàng A cấp tín dụng dưới hình thức khác và các thỏa thuận, cam kết
khác của bên được cấp tín dụng với Ngân hàng A; nghĩa vụ thanh toán các khoản
Ngân hàng A đã ứng trước đ thanh toán thay cho bên thế chấp, bên được cấp tín
dụng, các khoản chi phí phát sinh có liên quan đến việc định giá, công chứng,
đăng ký giao dịch bảo đảm, bảo him, bảo vệ, bảo trì, tu sửa, quản lý tài sản thế
chấp và các chi phí khác có liên quan; các nghĩa vụ được bảo đảm là các nghĩa vụ
của bên được cấp tín dụng với Ngân hàng A bao gồm cả các nghĩa vụ phát sinh
trước hoặc sau thời đim ký hợp đồng này. Hợp đồng thế chấp trên đã được đăng
ký tại Chi nhánh Văn phòng Đ (nay là thành phố) Tân Uyên vào ngày 06/7/2021.
Ngày 04/11/2021, ông T và ông T1 yêu cầu Văn phòng T5 số
639/2021/VB-TPL, có nội dung: Ông T, ông T1 cùng thống nhất xác định thửa
đất số 933 là tài sản chung của ông T, ông T1, tổng giá trị góp vốn 9.000.000.000
đồng, trong đó ông T góp 4.500.000.000 đồng, ông T1 góp 4.500.000.000 đồng
và thỏa thuận ông T1 là người đại diện đứng tên GCNQSDĐ.
[2.3] Tại biên bản làm việc ngày 18/3/2024, nguyên đơn ông T trình bày,
đất tranh chấp là tài sản chung của ông T, bà X1 và ông T1 cùng góp tiền nhận
chuyn nhượng của ông Nguyễn Thanh D và bà Mai Thị L với giá 17.000.000.000
đồng, trong đó ông T góp 8.500.000.000 đồng, bà X1 và ông T1 góp
8.500.000.000 đồng; bà X1 là người đại diện ký hợp đồng đặt cọc vào ngày
01/12/2020 (đặt cọc 3.000.000.000 đồng) và ngày 11/01/2021 (đặt cọc
4.300.000.000 đồng); sau khi đặt cọc, ông T đồng ý với bà X1 là đ cho ông T1
đại diện ký hợp đồng chuyn nhượng đất và đứng tên GCNQSDĐ. Bị đơn ông T1
trình bày đất tranh chấp là tài sản chung của ông T và ông T1, trong đó ông T1
góp 8.500.000.000 đồng, không liên quan đến bà X1; bà X1 là người được ông
T1, ông T nhờ đứng ra đặt cọc mua đất, còn tiền là của ông T1, ông T; ông T1 thế
chấp đất cho Ngân hàng vay 12.500.000.000 đồng có sự đồng ý của ông T. Bà X1
trình bày, thống nhất ý kiến của ông T, xác định thửa đất số 933 là tài sản chung
của ông T, bà X1 nhờ ông T1 (con của bà X1) đứng tên GCNQSDĐ, số tiền góp
và giá trị chuyn nhượng như ông T trình bày là đúng, bà X1 là người ký kết hợp
đồng đặt cọc.
Các đương sự thống nhất trình bày đất tranh chấp thời đim nhận chuyn
nhượng giá 17.000.000.000 đồng nhưng trong hợp đồng chỉ ghi giá 300.000.000
đồng, trong đó ông T góp 8.500.000.000 đồng, đây là tình tiết không cần phải
chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trình
bày của ông T, bà X1 về việc đất tranh chấp là tài sản chung của ông T, bà X1 đ
ông T1 đứng tên không được ông T1 thừa nhận, ngoài lời trình bày thì ông T, bà
X1 cũng không có tài liệu chứng cứ chứng minh cho trình bày của mình nên trình
bày của ông T, bà X1 không có cơ sở chấp nhận. Đối với phần góp 8.500.000.000
đồng còn lại bà X1 và ông T1 đều không đưa ra được chứng cứ đ chứng minh số
tiền này là của bà X1 hay ông T1. Tòa án cấp sơ thẩm, căn cứ vào chứng cứ là
giấy nhận cọc, vi bằng xác định số tiền còn lại 8.500.000.000 đồng là của ông T1,
bà X1. Xác định thửa đất số 933 là tài sản chung của ông T và bà X1, ông T1 là
có căn cứ.
[2.4] Đối với Hợp đồng thế chấp số THD.BĐCN.03.010721, công chứng số
2779 ngày 02/7/2021 tại Phòng C1 tỉnh Bình Dương:
Sau khi ông T1 được cấp GCNQSDĐ số DC 671344, số vào sổ CS13191 đối
với thửa đất số 933 thì bà H1, ông T1 đã thế chấp quyền sử dụng đất đ đảm bảo
cho các khoản nợ tại Ngân hàng A.
Theo chứng cứ Ngân hàng cung cấp: Biên bản thẩm định hiện trạng bất
động sản ngày 02/3/2021 giữa người thẩm định Nguyễn Văn H3 (Ngân hàng A)
và chủ sở hữu/người hướng dẫn Nguyễn Thị X1, biên bản này chỉ ghi: “Vị trí bất
động sản mặt tiền đường T 17 rộng 6,5m cách MTĐ Nguyễn Khuyến 500m; hướng
thửa đất T; công trình xây dựng trên đất diện tích 2.000m
2
, cấu trúc 1, tường
gạch, nền gạch men, mái tole, năm xây dựng sửa chữa: cũ”; không th hiện diện
tích đất, số thửa, số tờ bản đồ, GCNQSDĐ được cấp; căn cứ hồ sơ cấp đất thì thời
đim thẩm định đất tranh chấp do ông Nguyễn Thanh D đứng tên theo GCNQSDĐ
số BB 593628, số vào sổ CH00719 ngày 15/9/2010 (thửa đất số 332, tờ bản đồ số
21) và GCNQSDĐ số BB 593627, số vào sổ CH00718 ngày 15/9/2010 (thửa đất
số 616, tờ bản đồ số 21) do UBND huyện T cấp cho ông Nguyễn Thanh D; ngày
01/12/2020 và 11/01/2021 ông D và bà L (vợ ông D) ký hợp đồng đặt cọc chuyn
nhượng đất cho bà X1; ngày 02/3/2021 xóa đăng ký thế chấp tại Ngân hàng T6 –
Chi nhánh B (thửa đất số 332); ngày 31/5/2021 ông D, bà L ký hợp đồng chuyn
nhượng đất cho ông T1 và ngày 25/6/2021, ông T1 được cấp giấy chứng nhận;
đồng thời biên bản thẩm định do chủ sở hữu/người hướng dẫn là Nguyễn Thị X1
ký tên trong khi bà X1 là Trần Thị X; hồ sơ của Ngân hàng cung cấp không có
biên bản th hiện ông D, bà L ủy quyền cho bà X thực hiện thẩm định tài sản thế
chấp với Ngân hàng; căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 8, khoản 2 Điều 9, khoản
4 Điều 10 của Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy
định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thì thời đim khi xác
minh tài sản đ cho vay Ngân hàng đã không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của
mình trong việc thẩm tra đất dẫn đến tài sản thế chấp không thuộc quyền sử dụng,
sở hữu của bên thế chấp. Tuy nhiên, đến ngày 25/6/2021, ông T1 được cấp giấy
chứng nhận và ngày 02/7/2021 thế chấp quyền sử dụng đất đ đảm bảo các khoản
vay tại Ngân hàng A thì Ngân hàng sử dụng biên bản thẩm định hiện trạng bất
động sản ngày 02/3/2021 làm cơ sở cho vay nên Ngân hàng phải tự chịu thiệt hại
nếu có. Hợp đồng thế chấp số THD.BĐCN.03.010721 ngày 02/7/2021 được công
chứng tại Phòng C1 tỉnh Bình Dương, số công chứng 2779, đăng ký thế chấp tại
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T ngày 06/7/2021, về hình thức
hợp đồng được công chứng là phù hợp quy định tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất
đai năm 2013 nên có hiệu lực pháp luật. Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ
của Tòa án trên đất không có tài sản. Thửa đất này cấp giấy CNQSDĐ cho ông
T1 nên ông T1 có các quyền của chủ sử dụng đất, việc Ngân hàng nhận thế chấp
là đúng quy định của pháp luật và được xem là người thứ ba ngay tình nên được
pháp luật bảo vệ. Do đó, ông T yêu cầu tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu một phần
là không có căn cứ chấp nhận. Ngân hàng yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp là có
căn cứ chấp nhận.
[2.5] Yêu cầu chia tài sản chung của ông T:
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định thửa đất số 933 là tài sản chung của ông T
với ông T1, bà X, việc ông T1 mang tài sản đi thế chấp ngân hàng làm ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông T. Do hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp
luật nên ông T1, bà X có nghĩa vụ thanh toán ½ giá trị diện tích đất 4.119,9m
2
(2.059.95m
2
) cho ông T 8.500.000.000 đồng và tiền lãi theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 là 0,83%/tháng (10%/năm) được
tính từ thời đim ông T1 thế chấp tài sản cho Ngân hàng A là ngày 02/7/2021 đến
ngày 17/9/2024 là 38 tháng 15 ngày với số tiền 2.716.175.000 đồng, tổng số tiền
bà X, ông T1 có nghĩa vụ liên đới trả cho ông T là 11.216.175.000 đồng là có lợi
cho ông T. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, ông T1, bà X không có kháng cáo,
ông T chỉ kháng cáo yêu cầu nhận đất, còn giá trị đất và tiền lãi ông T không có
ý kiến nên Hợi đồng xét xử cấp phúc thẩm không xem xét.
Từ những phân tích trên, kháng cáo của nguyên đơn là không có cơ sở chấp
nhận.
Quan đim của đại diện Viện Kim sát nhân dân tỉnh Bình Dương là phù
hợp.
Án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân
sự;
- Điều 133, 208, 209, 219, 316, 320, 319, 321, 357, khoản 2 Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015;
- Điều 166, 167 Luật Đất đai năm 2013;
- Căn cứ Điều 91, Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa
đổi, bổ sung năm 2017;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Anh T.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 147/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Lê Anh T phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được
khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí số
0004299 ngày 26/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình
Dương.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật k từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố T;
- TAND thành phố T;
- Các đương sự;
- Tổ Hành chính Tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Duyên Hằng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 07/2025/DS-PT ngày 17/01/2025 của TAND tỉnh Ninh Thuận về tranh chấp về chia tài sản chung
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm