Bản án số 26/2025/DS-PT ngày 17/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản chung
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 26/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 26/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 26/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 26/2025/DS-PT ngày 17/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản chung |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản chung |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 26/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị L, bà Trần Thị T và ông Trần Trí D; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 26/2025/DS-PT
Ngày: 17/01/2025.
V/v tranh chấp chia tài sản chung,
chia thừa kế tài sản, yêu cầu huỷ Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
bà Trần Thị Kim Liên
Các Thẩm phán:
ông Trương Công Thi
ông Phạm Văn Hợp
- Thư ký phiên tòa: bà Lữ Thị Hằng - Thẩm tra viên chính Tòa án nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: ông Trần Viết
Tuấn - Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 17 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 271/2024/TLPT-DS
ngày 11/11/2024 về tranh chấp chia tài sản chung, chia thừa kế tài sản, yêu cầu
huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Gia Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2532/2023/QĐ-PT ngày 26 tháng
12 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị H; địa chỉ: thôn T, xã L, huyện Đ, tỉnh Gia
Lai. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà H: ông Nguyễn Duy H1; địa chỉ: số I
đường P, phường P, thành phố P, tỉnh Gia Lai (văn bản uỷ quyền ngày
18/4/2023). Có mặt.
2. Bị đơn:
- Bà Trần Thị Thúy P; địa chỉ: thôn Đ, xã L, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có
mặt.
- Bà Trần Thị L; địa chỉ: thôn A, xã T, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2
- Bà Trần Thị T; địa chỉ: thôn B, xã T, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
- Ông Trần Trí D; địa chỉ: thôn T, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị L, bà Trần Thị T, ông Trần
Trí D: bà Hoàng Thị Như N - sinh năm 1995; địa chỉ: số A đường L, phường I,
thành phố P, tỉnh Gia Lai (văn bản uỷ quyền ngày 07/01/2025). Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà L, bà T, ông D: bà Hứa Thị
Trung N1 - Luật sư của Văn phòng Luật sư Hứa Hoàng G thuộc Đoàn Luật sư
tỉnh G. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai; địa chỉ: thị trấn C, huyện Đ, tỉnh
Gia Lai.
Người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện Đ: ông Lê Bá
N2 - Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đ. Có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: ông Vũ Đình
T1 và bà Nguyễn Thị H2; cùng địa chỉ: thôn Q, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Ông
T1 uỷ quyền cho bà H2. Bà H2 có mặt.
4. Người kháng cáo: bị đơn bà Trần Thị L, bà Trần Thị T, ông Trần
Trí D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Nguyên đơn trình bày:
Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Công C chung sống với nhau như vợ chồng
từ năm 2005, đã tạo lập được khối tài sản chung là nhà và đất tại thôn Đ (nay là
thôn T) xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Năm 2007, bà H và ông C tháo dỡ căn nhà
gỗ trên đất, xây mới căn nhà cấp 4 để ở. Năm 2009, bà H và ông C được UBND
huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A0 233353 ngày
02/7/2009, thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78, diện tích là 903m
2
(trong đó: 400m
2
đất ở, 503m
2
đất trồng cây lâu năm); tài sản gắn liền với đất là 01 nhà xây diện
tích 50m
2
. Ngày 12/7/2022, ông Vũ Đình T1 và bà Nguyễn Thị H2 đã đặt cọc số
tiền 220 triệu đồng cho ông C và bà H theo Hợp đồng đặt cọc ngày 12/7/2022 để
nhận chuyển nhượng một phần diện tích thửa đất nêu trên là 357,6m
2
. Ngày
22/7/2022, tại UBND xã I, huyện Đ, hai bên cùng xác lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Theo đó, ông C và bà H đã chuyển nhượng cho ông
T1 và bà H2 354,9m
2
đất, thửa đất số 242, tờ bản đồ số 78 (tách từ thửa số 05, tờ
bản đồ 78), phía Bắc giáp đường đất, rộng 06m; phía Nam giáp Quốc lộ A, rộng
06m; phía Đông giáp thửa đất số 6, dài là 59,6m; phía Tây giáp thửa đất số 04,
dài là 59,6m, giá chuyển nhượng là 600.000.000đồng. Ngày 17/10/2022, ông C
chết không có di chúc.
Bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: công nhận hiệu lực hợp đồng

3
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/7/2022; chia tài sản chung của ông C
và bà H đối với phần diện tích đất còn lại và tài sản gắn liền với đất thành hai
phần bằng nhau cho ông C và bà H, giao tài sản bằng hiện vật cho bà H sở hữu;
chia di sản thừa kế của ông C theo pháp luật cho 04 người gồm: bà Trần Thị L,
bà Trần Thị T, ông Trần Trí D, bà Trần Thị Thúy P. Bà H có nguyện vọng được
nhận toàn bộ hiện vật và thanh toán giá trị phần thừa kế cho 04 người thừa kế.
Số tiền mà ông Vũ Đình T1 và bà Nguyễn Thị H2 còn phải thanh toán cho bà H
theo hợp đồng đặt cọc là 380.000.000đồng.
* Bị đơn trình bày:
- Bà Trần Thị Thúy P trình bày: cha, mẹ bà là ông Trần Công C và bà
Dương Thị V chung sống như vợ chồng có 02 con chung là Trần Công K (chết
năm 2004) và Trần Thị Thúy P. Năm 1991, bà P về chung sống cùng ông C trên
thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78 tại thôn Đ, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Khoảng
năm 2000, ông Trần Công C có tặng cho một phần thửa đất nêu trên (5m) cho
Trần Công K, văn bản tặng cho do bà Nguyễn Thị H đang giữ bản gốc. Đến năm
2004, bà P lập gia đình và ra ở riêng được khoảng 04 tháng thì ông K chết. Sau
đó, vợ chồng bà P lại trở về sinh sống với ông C được khoảng 01 năm thì tiếp
tục ra ở riêng, vì năm 2005 ông C đưa bà Nguyễn Thị H về chung sống. Nguồn
gốc thửa đất nêu trên đã có trước khi bà H về chung sống với ông C nên bà H có
công sức đóng góp chăm sóc, vun vén cho gia đình và tạo lập nhà trên đất. Ông
C với bà H tự nguyện về chung sống với nhau vào năm 2005 cho đến khi ông C
chết mà không đăng ký kết hôn, không có con chung. Bà P đồng ý với yêu cầu
khởi kiện của bà H.
- Bà Trần Thị L, bà Trần Thị T, ông Trần Trí D trình bày: năm 1958, ông
C và bà V1 chung sống với nhau có 08 con, nhưng đã chết 05, còn lại 03 là:
Trần Thị L, Trần Thị T, Trần Trí D. Năm 1979, ông C và bà Dương Thị V có
quan hệ như vợ chồng và có 02 con là: Trần Công K (chết năm 2004) và Trần
Thị Thúy P. Năm 2005, ông C và bà Nguyễn Thị H tự nguyện về chung sống
cho đến khi ông C chết, không có con chung. Cuối năm 1983, bà T cùng ông D
và ông C khai hoang thửa đất có diện tích khoảng 03 hecta tại thôn Đ, xã I,
huyện Đ để trồng đậu và trồng lúa. Đến năm 1985, bà Trần Thị V1 và con gái là
Trần Thị Kim M từ huyện C, tỉnh Gia Lai đến sinh sống trên thửa đất đó. Cuối
năm 1985, bà T lập gia đình rồi ra ở riêng. Năm 1991, bà P về chung sống cùng
với ông C, ông D, ông K. Năm 1999, ông D lập gia đình rồi ra ở riêng nhưng
vẫn trên thửa đất khai hoang nêu trên. Khoảng năm 2000, ông D, bà T, bà L, ông
C, bà V1, bà P thống nhất làm văn bản cho Trần Công K một phần thửa đất số
05, tờ bản đồ số 78 nhưng không biết văn bản đó còn hay mất. Phần diện tích
đất khai hoang còn lại đã bán cho người khác và hiện còn khoảng 720m² là của
vợ chồng ông D đang sử dụng. Tháng 9/2005, ông C với bà H chung sống với

4
nhau tại thửa đất số 05, khi đó trên thửa đất có một căn nhà ba gian làm bằng gỗ
kiên cố. Sau khi bà H về chung sống với ông C thì bán căn nhà gỗ và xây nhà
cấp 4. Lúc này, bà Trần Thị V1 đang ở cùng với ông D tại thửa đất liền kề
nhưng bà V1 vẫn có tên trong sổ hộ khẩu mang tên chủ hộ Trần Công C. Thửa
đất số 05 nêu trên là tài sản riêng của ông C, đã có trước khi bà H về chung sống
với ông C nên bà H chỉ có công sức đóng góp, gìn giữ và phát triển giá trị của
thửa đất. Do đó, bà L, bà T, ông D không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà H
về chia ½ thửa đất nêu trên cho bà H, nhưng yêu cầu chia di sản thừa kế đối với
thửa đất nêu trên theo quy định của pháp luật, với nguyện vọng được nhận đất
để làm nơi thờ cúng và đồng ý chia một phần thửa đất nêu trên cho bà H bằng
một suất thừa kế, vì bà H có công sức đóng góp, quản lý và phát triển giá trị tài
sản; không đồng ý để bà H tiếp tục chuyển nhượng một phần diện tích đất cho
ông T1 và bà H2. Đối với số tiền 220 triệu đồng nhận đặt cọc thì không có ý
kiến hoặc tranh chấp gì, bà H có trách nhiệm xử lý việc mua bán với ông T1 và
bà H2 khi không thực hiện tiếp việc chuyển nhượng.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Trần Thị T, bà Trần Thị
L, ông Trần Trí D trình bày: không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà H, vì
thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78 không phải là tài sản chung của bà H và ông C
mà là tài sản chung của ông C và bà V1. Trên đất có 01 căn nhà cấp 4 là của bà
H và ông C xây dựng; công nhận công sức đóng góp, giữ gìn, tạo lập của bà H
đối với thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78 và căn nhà cấp 4 do ông C và bà H xây
dựng; bà H và ông C đã nhận tiền cọc của ông T1 và bà H2 số tiền là 220 triệu
đồng nên bà H tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho ông T1 và bà H2; đồng ý giao số tiền còn lại 380 triệu đồng và hỗ trợ thêm
cho bà H 120 triệu đồng, tổng cộng là 500 triệu đồng nên đối với di sản thừa kế
của ông C thì bên bị đơn cùng những người được hưởng di sản thừa kế tự thoả
thuận với nhau.
* Ngày 12/12/2023, ông D, bà T, bà L có đơn yêu cầu Tòa án huỷ Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số A0 233353 do UBND huyện Đ cấp ngày
02/7/2009 cấp cho ông Trần Công C và bà Nguyễn Thị H; huỷ hợp đồng đặt cọc
để chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông C, bà H với ông T1, bà H2 lập
ngày 12/7/2022. Bà H có trách nhiệm giải quyết hậu quả hợp đồng bị tuyên hủy
với ông T1, bà H2.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là ông Vũ
Đình T1 và bà Nguyễn Thị H2 trình bày: ngày 12/7/2022, ông T1 và bà H2 cùng
với ông C và bà H giao kết hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng một phần
thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A0
233353 do UBND huyện Đ cấp ngày 02/7/2009 cho ông C và bà H. Số tiền cọc
ông C và bà H đã nhận là 220 triệu đồng và thỏa thuận chuyển nhượng cho ông

5
T1 và bà H2 một diện tích 357,6m² (180m² đất ở và 177,6m
2
đất trồng cây lâu
năm); phía Bắc giáp đường đất, rộng 06m; phía Nam giáp đường Q, rộng 06m;
phía Đông giáp thửa số 06, dài 59,6m; phía Tây giáp thửa số 04, dài 59,6m; giá
chuyển nhượng là 600 triệu đồng. Số tiền còn lại 380 triệu đồng sẽ thanh toán tại
thời điểm hai bên giao kết, công chứng hợp đồng chuyển nhượng. Ngày
20/7/2022, ông C liên hệ với chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Đ làm
các thủ tục xác định vị trí, đo đạc diện tích tách thửa, lập phiếu xác nhận kết quả
đo đạc, tách thành 02 thửa đất là thửa số 243, tờ bản đồ số 78, diện tích 548,1m
2
và thửa số 242, tờ bản đồ số 78, diện tích 354,9m
2
(so với hợp đồng đặt cọc thì
diện tích bị giảm trừ 2,7m² đất trồng cây lâu năm). Sau đó, ông C và bà H đã
bàn giao cho ông T1 và bà H2 quản lý, sử dụng thửa đất số 242. Ngày
22/7/2022, hai bên đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đến Bộ
phận 01 cửa của UBND xã I để nộp thủ tục đề nghị chứng thực hợp đồng, nhưng
do ông Trần Trí D có đơn kiến nghị nên UBND xã tạm dừng việc chứng thực.
Tuy nhiên, sau đó ông C bị ốm nặng và chết. Do đó, ông T1 và bà H2 yêu cầu
Tòa án công nhận hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
22-7-2022 giữa ông C, bà H với ông T1, bà H2.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Đ do ông
Lê Bá N2 đại diện trình bày: Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số A0 233353 ngày 02/7/2009 cho ông C và bà H là theo
đúng trình tự, thủ tục nên không thống nhất với yêu cầu của bị đơn về tuyên hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:
Căn cứ vào các Điều 26, 39, 34, 147, 157, 165, 235, 271, 273 của Bộ
luật Tố tụng Dân sự; Điều 26, 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày
30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án; các Điều 8, 9, 12, 14, 15, 106, 111, 115, 161, 129, 208, 210, 217, 219,
221, 609, 610, 611, 612, 613, 620, 621, 623, 645, 650, 651, 657, 658, 660 của
Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 95, 167, 170 của Luật Đất đai năm 2013.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về yêu cầu chia tài
sản chung và yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật.
1.1. Chia tài sản chung của bà Nguyễn Thị H và ông Trần Công C, bao
gồm:
- Quyền sử dụng đất diện tích là 607,5m
2
và tài sản gắn liền với đất thuộc
thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78; tại thôn T (trước đây là thôn Đ), xã I, huyện Đ,
tỉnh Gia Lai, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 233353 ngày
02/7/2009, có giá trị là: 927.080.000đồng.

6
- Tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa nhận và số tiền nhận cọc
còn lại là: 491.000.000đồng.
* Tổng giá trị tài sản chung là: 1.418.080.000đồng được chia thành hai
phần bằng nhau, ông C và bà H mỗi người được nhận một phần tài sản có giá trị
là: 1.418.080.000đồng : 2 = 709.040.000đồng.
1.2. Chia thừa kế theo pháp luật đối với di sản của ông Trần Công C để lại
thành 04 phần bằng nhau cho những người được hưởng di sản gồm: bà Trần Thị
L, bà Trần Thị T, ông Trần Trí D và bà Trần Thị Thúy P, mỗi người được hưởng
một phần di sản có giá trị là: 709.040.000đồng : 4 = 177.260.000đồng.
Giao cho bà H được quyền sở hữu, sử dụng toàn bộ tài sản chung là quyền
sử dụng đất diện tích là 607,5m
2
và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 5,
tờ bản đồ số 78; phía Bắc giáp đường liên thôn, rộng 9,7 mét; phía Đông giáp
đất ông T2, bà T3, dài 60,1 mét; phía Tây giáp đất ông Trần Trí D, dài 59,7 mét;
phía Nam giáp đường Q, rộng 10,6 mét; vị trí tại thôn T (trước đây là thôn Đ),
xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO
233353 ngày 02/7/2009. Bà H được quyền đăng ký quyền sử dụng đất và thực
hiện các quyền về dân sự khác đối với diện tích đất và tài sản gắn liền với đất
được nhận nêu trên theo quy định của pháp luật.
Buộc bà Nguyễn Thị H phải thanh toán phần giá trị di sản của ông C cho
bà Trần Thị L, bà Trần Thị T, ông Trần Trí D và bà Trần Thị Thúy P, mỗi người
một phần di sản có giá trị là: 177.260.000đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị H, ông Vũ Đình T1, bà Nguyễn
Thị H2 về yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Công nhận hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
22/7/2022, giữa bên chuyển nhượng là ông Trần Công C và bà Nguyễn Thị H
với bên nhận chuyển nhượng là ông Vũ Đình T1 và bà Nguyễn Thị H2; diện tích
đất chuyển nhượng ông C và bà H đã bàn giao toàn bộ diện tích đất là: 354,9m
2
đất (gồm: 150m
2
đất ở nông thôn và 204,9m
2
đất cây lâu năm) thuộc thửa đất số
05, tờ bản đồ số 78, vị trí tại thôn T (trước đây là thôn Đ), xã I, huyện Đ, tỉnh
Gia Lai, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 233353 ngày
02/7/2009.
Bà Nguyễn Thị H có trách nhiệm phối hợp (kể cả việc giao Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AO 233353 ngày 02/7/2009 của bà H cho cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền) với ông Vũ Đình T1 và bà Nguyễn Thị H2 để ông T1
và bà Hải đăng K1 quyền sử dụng đất; thực hiện các quyền về dân sự khác đối
với diện tích đất và tài sản gắn liền với đất đã nhận chuyển nhượng của ông C và
bà H theo quy định của pháp luật.
3. Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc huỷ Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số A0 233353 do UBND huyện Đ cấp ngày 02/7/2009 cho

7
ông Trần Công C và bà Nguyễn Thị H và yêu cầu hủy Hợp đồng đặt cọc để
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông C, bà H với ông T1, bà H2 ngày
12/7/2022.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí,
trách nhiệm thi hành án và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp
luật.
Ngày 05/10/2024, bị đơn bà Trần Thị L, bà Trần Thị T và ông Trần Trí D
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 16/10/2024, bị đơn bà Trần Thị L, bà Trần Thị T, ông Trần Trí D có
đơn kháng cáo bổ sung đề nghị Toà án huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AO 233353 ngày 02/7/2009 của UBND huyện Đ đã cấp cho ông C và bà H,
các ông bà vẫn để cho bà H tiếp tục ở trong căn nhà cho đến khi không có nhu
cầu; đồng ý trích công sức tôn tạo, bảo quản di sản cho bà H.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Duy H1 giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện.
- Bị đơn bà Trần Thị L, bà Trần Thị T và ông Trần Trí D giữ nguyên nội
dung kháng cáo.
- Luật sư Hứa Thị Trung N1 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung
kháng cáo của bà Trần Thị L, bà Trần Thị T và ông Trần Trí D, không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H, huỷ Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã cấp cho ông Trần Công C và bà Nguyễn Thị H ngày 02/7/2009.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, về phần
thủ tục tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm đảm bảo đúng quy định của pháp
luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị L, bà
Trần Thị T và ông Trần Trí D, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét nội dung kháng cáo và kháng cáo bổ sung của bị đơn bà Trần Thị
L, bà Trần Thị T và ông Trần Trí D, Hội đồng xét xử thấy:
[1.1] Về nguồn gốc thửa đất tranh chấp: nguyên đơn bà Nguyễn Thị H cho
rằng thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78, diện tích 903m
2
là do bà và ông Trần Công
C tạo lập, nhưng bà H không xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh về
việc tạo lập đó. Phía bị đơn bà Trần Thị L, bà Trần Thị T và ông Trần Trí D
cũng đều khẳng định rằng thửa đất nêu trên là tài sản riêng của ông Trần Công
C, đã có trước khi bà Nguyễn Thị H về sinh sống với ông C. Do đó, Hội đồng
xét xử có đủ căn cứ khẳng định nguồn gốc thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78, diện
tích 903m
2
là do ông C khai hoang và là tài sản riêng của ông C có trước khi ông

8
C chung sống với bà H vào năm 2005. Tuy nhiên, năm 2008, ông C làm hồ sơ
đăng ký quyền sử dụng đất và tự nguyện đăng ký tên bà H và ông C nên được
xác định là ông C đã nhập tài sản riêng của mình vào tài sản chung với bà H
theo Điều 46 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Thời điểm ông C, bà Hoa đăng K2
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 05 thì vợ chồng ông Trần Trí D, bà Đỗ
Thị Ánh T4 cũng đăng ký quyền sử dụng đất đối với thửa đất liền kề (là thửa đất
số 04, tờ bản đồ số 78). Hồ sơ đăng ký có các Biên bản xác minh nguồn gốc sử
dụng đất và xác nhận không có tranh chấp của các hộ lân cận vào ngày
31/7/2008, trong đó có chữ ký của ông D và ông C.
Quá trình chung sống, bà H và ông C đã tháo dỡ căn nhà gỗ cũ rồi bồi đắp
thửa đất trũng thành đất bằng phẳng, xây dựng căn nhà cấp 4, trồng cây trên
thửa đất này và ở từ đó cho đến nay. Việc này bà Trần Thị V1 cùng các con là
bà Trần Thị L, bà Trần Thị T, ông Trần Trí D, bà Trần Thị Thúy P đều biết
nhưng không ai có ý kiến phản đối hoặc tranh chấp gì. Tại thời điểm được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A0 233353 ngày 02/7/2009 thì Sổ hộ
khẩu gia đình cấp ngày 16/12/2007 của chủ hộ ông Trần Công C gồm có ông
Trần Công C và bà Nguyễn Thị H nên ông C làm hồ sơ yêu cầu cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền đính chính về người sử dụng đất và đã được Ủy ban nhân
dân huyện Đ xác nhận đính chính chủ sử dụng đất là ông Trần Công C và bà
Nguyễn Thị H vào ngày 06/12/2022, là phù hợp với quy định tại khoản 29 Điều
3 của Luật Đất đai năm 2013.
Phía bị đơn cho rằng trước khi anh Trần Công K chết thì gia đình có lập
văn bản cho anh K một phần thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78 nhưng không cung
cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh anh K được tặng cho quyền sử dụng đất thuộc
một phần diện tích thửa đất nêu trên. Ngoài ra, bị đơn yêu cầu Tòa án trưng cầu
giám định chữ ký của ông Trần Công C được ký trong “Giấy xác nhận sự thật”
nhưng không cung cấp được bản gốc và cũng không yêu cầu Tòa án thu thập tài
liệu đó ở đâu nên không có căn cứ để trưng cầu giám định và không được xem
là chứng cứ. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78,
diện tích là 903m
2
(trong đó đất ở 400m
2
, đất trồng cây lâu năm 503m
2
), tài sản
gắn liền với đất là nhà xây 50m
2
và cây trồng trên đất là tài sản chung của ông
Trần Công C và bà Nguyễn Thị H. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận nội
dung kháng cáo yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A0 233353,
ngày 02/7/2009 của bà L, bà T và ông D.
[1.2] Ngày 12/7/2022, giữa ông Trần Công C, bà Nguyễn Thị H với ông
Vũ Đình T1, bà Nguyễn Thị H2 lập hợp đồng đặt cọc. Theo đó, ông T1 và bà
H2 đã giao số tiền cọc 220.000.000đồng cho ông C và bà H để nhận chuyển
nhượng một phần thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78, diện tích 357,6m
2
với giá
600.000.000đồng. Ngày 20/7/2022, đại diện chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất

9
đai huyện Đ đã lập Biên bản xác định vị trí, diện tích tách thửa đất, Sơ đồ vị trí
tách thửa đất thì ông C và bà H đã bàn giao đất cho ông T1 và bà H2 quản lý, sử
dụng đến nay. Diện tích khi đo đạc thực tế bàn giao cho ông T1, bà H2 có bị
giảm 2,7m
2
và mục đích sử dụng giảm 30m
2
đất ở, nhưng ông T1 và bà H2 chấp
nhận. Ngày 22/7/2022, tại Ủy ban nhân dân xã I, hai bên ký kết hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định nhưng do ông Trần Trí D có
đơn kiến nghị với Ủy ban nhân dân xã I nên hợp đồng chưa được công chứng,
chứng thực. Tại thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
22/7/2022, các bên tham gia giao dịch đều có năng lực pháp luật dân sự, năng
lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch được xác lập, tự nguyện giao kết, mục
đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không
trái với đạo đức xã hội. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các
bên được lập thành văn bản, chưa được công chứng, chứng thực nhưng ông C và
bà H đã giao toàn bộ diện tích đất chuyển nhượng cho ông T1 và bà H2 quản lý,
sử dụng từ đó đến nay và ông T1, bà H2 đã thanh toán cho ông C và bà H được
số tiền 220.000.000đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của bà H, ông T1, bà H2 về công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 22/7/2022 theo quy định tại khoản 1 Điều
117, khoản 2 Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2015 là có cơ sở. Vì vậy, kháng
cáo yêu cầu hủy Hợp đồng đặt cọc của bà L, bà T, ông D là không thể chấp
nhận.
[1.3] Các bị đơn đều thừa nhận bà Nguyễn Thị H đã đóng góp nhiều công
sức, đã làm tất cả mọi công việc từ nội trợ đến lao động sản xuất, buôn bán để
duy trì đời sống chung của hai người và có đóng góp công sức, tiền của để xây
nhà ở và tôn tạo, bồi đắp nâng cao giá trị của thửa đất. Toà án cấp sơ thẩm đã
chia tài sản chung thành hai phần bằng nhau là phù hợp. Đối với số tiền nhận
cọc 220.000.000đồng của vợ chồng ông T1 đã được bà H chi phí vào việc điều
trị, mai táng cho ông C 109.000.000đồng. Còn lại 111.000.000đồng cộng với
380.000.000đồng ông T1 và bà H2 chưa thanh toán, tổng cộng:
491.000.000đồng được xác định là tài sản chung của ông C và bà H. Theo kết
quả định giá tài sản ngày 12/7/2023 thì giá trị quyền sử dụng đất là
927.080.000đồng. Như vậy, di sản thừa kế của ông C để lại là 709.040.000đồng
(245.500.000đồng + 463.540.000đồng).
[1.4] Về hàng thừa kế: ông Trần Công C và bà Trần Thị V1 chung sống
như vợ chồng với nhau từ năm 1958 đến năm 1978, không đăng ký kết hôn, có
08 con chung, đã chết 05 con đều chưa lập gia đình, còn lại 03 con, gồm: Trần
Thị T, Trần Thị L và Trần Trí D. Từ năm 1979 đến năm 1985, ông C chung
sống với bà Dương Thị V, không đăng ký kết hôn, có 02 con chung là Trần
Công K (chết năm 2004 khi chưa lập gia đình) và Trần Thị Thúy P. Quan hệ hôn

10
nhân thực tế giữa ông C với bà V1; và giữa ông C với bà V đã chấm dứt từ lâu
nên không còn nghĩa vụ gì với nhau. Do đó, bà V1 và bà V không được hưởng
di sản của ông C theo tình tiết, sự kiện tại Án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn
nhân thực tế. Năm 2005, ông C sống chung với bà Nguyễn Thị H, không đăng
ký kết hôn, không có con chung nhưng có tài sản chung nên quan hệ hôn nhân
giữa ông C với bà H không được pháp luật công nhận. Như vậy, hàng thừa kế
thứ nhất của ông C gồm: bà Trần Thị T, bà Trần Thị L, ông Trần Trí D và bà
Trần Thị Thúy P.
[1.5] Về phân chia di sản thừa kế: ông C chết không để lại di chúc nên di
sản của ông C để lại được chia đều cho 04 người con gồm: bà Trần Thị T, bà
Trần Thị L, ông Trần Trí D và bà Trần Thị Thúy P. Như vậy, mỗi người được
nhận 177.260.000đồng (709.040.000đồng : 4). Các bị đơn đều thừa nhận hiện
nay họ đã có nơi ở ổn định và nhận di sản nhằm mục đích thờ cúng, nếu nguyên
đơn có nhu cầu ở thì để cho ở đến khi hết nhu cầu. Xét bà H có nhu cầu về chỗ ở
và đã sinh sống, quản lý, sử dụng tài sản chung, di sản của ông C từ năm 2005
đến nay nên cần giao cho bà H được quyền sử dụng, sở hữu tài sản, di sản và
buộc bà H có trách nhiệm thối trả giá trị kỷ phần thừa kế cho các đồng thừa kế
là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.
[2] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy Toà án cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về yêu cầu chia tài sản chung và
chia thừa kế theo pháp luật, không chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc huỷ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Trần Công C và bà Nguyễn
Thị H là có cơ sở. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bà L, bà T, ông D không
xuất trình tài liệu, chứng cứ gì mới chứng minh cho nội dung kháng cáo của
mình. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bà L,
bà T, ông D cũng như quan điểm của Luật sư Hứa Thị Trung N1; chấp nhận đề
nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
[3] Do toàn bộ nội dung kháng cáo không được chấp nhận nên bà Trần Thị
L, bà Trần Thị T và ông Trần Trí D phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy
định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[4] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị nên không xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự,
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị L, bà Trần Thị T và

11
ông Trần Trí D; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2024/DS-ST ngày
23/9/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai.
Áp dụng các Điều 8, 9, 12, 14, 15, 106, 111, 115, 161, 129, 208, 210, 217,
219, 221, 609, 610, 611, 612, 613, 620, 621, 623, 645, 650, 651, 657, 658, 660
của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 95, 167, 170 của Luật Đất đai năm
2013; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về yêu cầu chia tài
sản chung và yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật.
1.1. Chia tài sản chung của bà Nguyễn Thị H và ông Trần Công C, bao
gồm:
- Quyền sử dụng đất diện tích là 607,5m
2
và tài sản gắn liền với đất thuộc
thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78 tại thôn T (trước đây là thôn Đ), xã I, huyện Đ,
tỉnh Gia Lai, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 233353 ngày
02/7/2009, có giá trị là: 927.080.000đồng.
- Tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa nhận và số tiền nhận cọc
còn lại là: 491.000.000đồng.
- Tổng giá trị tài sản chung là: 1.418.080.000đồng. Ông Trần Công C và bà
Nguyễn Thị H mỗi người được nhận một phần tài sản có giá trị là:
709.040.000đồng.
1.2. Chia thừa kế theo pháp luật đối với di sản của ông Trần Công C để lại
thành 04 phần bằng nhau cho bà Trần Thị L, bà Trần Thị T, ông Trần Trí D, bà
Trần Thị Thúy P, mỗi người được hưởng một phần di sản có giá trị là:
177.260.000đồng.
- Giao cho bà Nguyễn Thị H được quyền sử dụng, sở hữu toàn bộ tài sản
chung là quyền sử dụng đất, diện tích là 607,5m
2
và tài sản gắn liền với đất
thuộc thửa đất số 05, tờ bản đồ số 78. Có tứ cận: phía Bắc giáp đường liên thôn,
rộng 9,7 mét; phía Đông giáp đất ông T2, bà T3, dài 60,1 mét; phía Tây giáp đất
ông Trần Trí D, dài 59,7 mét; phía Nam giáp đường Q, rộng 10,6 mét; vị trí tại
thôn T (trước đây là thôn Đ), xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai, theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AO 233353 ngày 02/7/2009.
- Bà Nguyễn Thị H được quyền đăng ký quyền sử dụng đất, thực hiện các
quyền về dân sự khác đối với diện tích đất và tài sản gắn liền với đất được nhận
nêu trên theo quy định của pháp luật.
- Bà Nguyễn Thị H có nghĩa vụ thối trả phần giá trị di sản cho bà Trần Thị
L, bà Trần Thị T, ông Trần Trí D, bà Trần Thị Thúy P, mỗi người
177.260.000đồng (một trăm bảy mươi bảy triệu, hai trăm sáu mươi ngàn đồng).

12
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án về khoản
tiền phải thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành án thì hàng
tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi
suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời
gian chưa thi hành án.
2. Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc huỷ Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số A0 233353 do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày
02/7/2009 cho hộ ông Trần Công C, bà Nguyễn Thị H (được đính chính lại tên
người sử dụng đất là ông Trần Công C và bà Nguyễn Thị H ngày 06/12/2022)
và yêu cầu hủy Hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông Trần Công C, bà Nguyễn Thị H với ông Vũ Đình T1, bà Nguyễn Thị H2
ngày 12/7/2022.
3. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị H, ông Vũ Đình T1, bà Nguyễn
Thị H2 về yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Công nhận hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
22/7/2022 giữa bên chuyển nhượng là ông Trần Công C và bà Nguyễn Thị H
với bên nhận chuyển nhượng là ông Vũ Đình T1 và bà Nguyễn Thị H2; diện tích
đất chuyển nhượng ông C và bà H đã bàn giao toàn bộ diện tích đất là: 354,9m
2
đất (gồm: 150m
2
đất ở nông thôn và 204,9m
2
đất cây lâu năm) thuộc thửa đất số
05, tờ bản đồ số 78, vị trí tại thôn T (trước đây là thôn Đ), xã I, huyện Đ, tỉnh
Gia Lai, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 233353 ngày
02/7/2009.
- Bà Nguyễn Thị H có trách nhiệm phối hợp (kể cả việc giao Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AO 233353 ngày 02/7/2009 của bà H cho cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền) với ông Vũ Đình T1 và bà Nguyễn Thị H2 để ông T1
và bà Hải đăng K1 quyền sử dụng đất; thực hiện các quyền về dân sự khác đối
với diện tích đất và tài sản gắn liền với đất đã nhận chuyển nhượng của ông Trần
Công C và bà Nguyễn Thị H theo quy định của pháp luật.
4. Về án phí: bà Trần Thị L, bà Trần Thị T, ông Trần Trí D mỗi người phải
chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ tại các Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000163, 0000164, 0000165 cùng ngày
15/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai (do ông Nguyễn Hùng P1
nộp thay).
5. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành

13
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 của
Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
* Nơi nhận:
- Toà án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Gia Lai;
- VKSND tỉnh Gia Lai;
- Cục THADS tỉnh Gia Lai;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu: HSVA, P HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Trần Thị Kim Liên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Bản án số 76/2025/DS-PT ngày 13/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về chia tài sản chung
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 07/2025/DS-PT ngày 17/01/2025 của TAND tỉnh Ninh Thuận về tranh chấp về chia tài sản chung
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm