Bản án số 106/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản chung
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 106/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 106/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 106/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 106/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản chung |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản chung |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 106/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần S1 và kháng cáo ông Trần Văn T. Bác kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; bác yêu cầu khởi kiện, kháng cáo của ông Mai Anh Quốc H, sửa toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 10/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Phạm Tồn
ông Lê Văn Thường
ông Trần Đức Kiên
- Thư ký phiên tòa: ông Phạm Minh Hoàng, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
toà: bà Trần Thị Xuân Thanh - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số
295/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 11 năm 2024 về việc: “Yêu cầu công nhận
quyền sở hữu chung và chia tài sản chung”
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 10/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo, kháng nghị
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 653A/2025/QĐ-PT ngày 10 tháng
3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Mai Anh Quốc H, sinh năm 1980; địa chỉ: E L, phường
T, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1979; địa chỉ:
Số C H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Có mặt
- Bị đơn:
1. Công ty cổ phần S1; địa chỉ: Lô A đường Â, phường C, thành phố H,
tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Trần Thị H1, sinh năm 1990; địa chỉ: P
Tòa nhà M, H L, phường K, quận T, thành phố Hà Nội. Có mặt
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 106/2025/DS-PT
Ngày: 25-3-2025
V/v: “Yêu cầu công nhận quyền sở hữu
chung và chia tài sản chung”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
2. Ông Trần Văn T, sinh năm: 1982; địa chỉ: Số G, tổ G cụm C phường N,
thành phố Hà Nội. Vắng mặt
Người đại diện theo uỷ quyền:
Ông Trịnh Anh H2; địa chỉ: G B, quận N, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trương Văn H3, sinh năm: 1959 và bà Võ Thị Diệu Q, sinh năm:
1963; địa chỉ: 4101 SE 168th A, V, WA I, Hoa Kỳ. Vắng mặt
2. Ông Trịnh Quang S, sinh năm 1969; địa chỉ: Số D H, quận T, thành phố
Đà Nẵng. Có mặt.
3. Văn phòng C; địa chỉ: F T, quận L, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt
4. Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ; địa chỉ: số E Q, quận H, thành
phố Đà Nẵng. Vắng mặt
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trần Bá T1 - Chức vụ: Phó giám đốc.
Người kháng cáo nguyên đơn ông Mai Anh Quốc H; bị đơn Công ty cổ
phần S1, ông Trần Văn T và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại Đơn khởi kiện ngày 10/11/2022 và tại phiên tòa sơ thẩm, Nguyên đơn
là ông Mai Anh Quốc H trình bày:
Ông Mai Anh Quốc H có nhận chuyển nhượng lô đất tại địa chỉ A2-1 tờ
bản đồ số KT-04, Khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng với diện
tích 4.516m2 của vợ chồng ông Trương Văn H3 và bà Võ Thị Diệu Q. Giá chuyển
nhượng là: 37.600.000.000 đồng nhưng mới chỉ ký Hợp đồng đặt cọc giữa hai bên
chứ chưa ký Hợp đồng chuyển nhượng. Cụ thể, ngày 27/10/2015 ông Mai Anh
Quốc H tiến hành giao dịch và ký hợp đồng đặt cọc với ông Trương Văn H3 và
bà Võ Thị Diệu Q và đã giao cho ông Trương Văn H3 và bà Võ Thị Diệu Q số
tiền là 7.000.000.000 đồng. Do không đủ tiền chuyển nhượng nên ngày 16/6/2019
ông Mai A Quốc H thỏa thuận với ông Trần Văn T để cùng góp vốn chuyển
nhượng với các nội dung như sau:
Bên A sẽ góp 7.000.000.000đ và các chi phí liên quan và được tính giá trị
vốn góp là 45% giá trị lô đất. Lý do để bên B chấp thuận tỷ lệ này là do Bên A đã
bỏ công sức trong quá trình tìm kiếm lô đất, lo các thủ tục pháp lý và trả các chi
phí không chính thức có liên quan trong quá trình làm các thủ tục pháp lý, thủ tục
đền bù giải phóng mặt bằng để tiến tới việc ký hợp đồng nhận chuyển nhượng lô
đất, và tìm người đứng ra liên hệ với cơ quan chức năng trong quá trình làm thủ
tục sang tên trên Giấy chứng nhận. Đây là đất có mục đích Thể dục Thể thao có
kinh doanh chứ không phải là đất ở nên thủ tục chuyển nhượng rất phức tạp, tốn
nhiều công sức.
Bên B sẽ góp 30.600.000.000 đồng và được tính giá trị vốn góp là 55% giá
trị lô đất. Bên B cam kết chuyển vào tài khoản cá nhân Bên A số tiền
2.000.000.000 đồng ngay sau ký Hợp đồng; số tiền còn lại: 28.600.000.000 đồng
3
Bên B sẽ chuyển vào tài khoản chung của hai bên mở tại Ngân hàng chậm nhất
đến ngày 30/06/2019 để thanh toán Hợp đồng chuyển nhượng. Bên B sẽ nộp toàn
bộ các chi phí có liên quan đến việc chuyển nhượng.
Bên A thống nhất chuyển nhượng cho Bên B 45% giá trị lô đất, khi pháp
nhân mới (chủ đầu tư dự án nếu có) được thành lập thì hai Bên thống nhất vẫn giữ
nguyên tỷ lệ này trừ khi hai Bên có thỏa thuận khác bằng văn bản phù hợp Với
tinh hinh góp vốn đầu tư thực tế đối với từng giai đoạn của lô đất. Bên A có trách
nhiệm hoàn tất thủ tục chuyển nhượng lô đất giữa chủ đất với Bên B. Hai Bên
không đơn phương chấm dứt hợp đồng trong mọi trường hợp.
Sau khi ký hợp đồng ông Trần Văn T đã chuyển cho ông Mai Anh Quốc H
số tiền 2.000.000.000 đồng.
Đến ngày 28/06/2019, ông Mai Anh Quốc H giao tiếp số tiền đặt cọc
2.000.000.000 đồng cho ông Trương Văn H3 và bà Võ Thị Diệu Q. Do đó ngày
01/07/2019 ông Trương Văn H3 và Võ Thị Diệu Q đã lập giấy xác nhận đủ tiền
đặt cọc nên chúng tôi đã đồng ý hủy các giấy nhận tiền cọc vào các ngày
27/10/2015 và ngày 28/06/2019 (các giấy nhận cọc đều không công chứng).
Tuy nhiên, đến thời điểm ra Công chứng thì ông Trần Văn T lấy lý do
không chuẩn bị kịp tiền để thanh toán nên đề nghị lấy tiền của Công ty Cổ phần
S1 đứng tên trên Hợp đồng chuyển nhượng, ông Trần Văn T cũng nói rằng nếu
thửa đất có chủ sở hữu là pháp nhân là Công ty chuyên về lĩnh vực bất động sản
sẽ dễ dàng xin dự án và chuyển mục đích sử dụng để tăng giá trị thửa đất. Ông
Mai Anh Quốc H đã đồng ý với đề xuất của ông Trần Văn T. Ông Trần Văn Thể
T cũng lấy tư cách là cổ đông, giám đốc điều hành Công ty Cổ phần S1 cam kết
nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa ông Mai Anh Quốc H và ông Trần
Văn T vẫn giữ nguyên và thay thế người thực hiện hợp đồng hợp tác là Công ty
Cổ phần S1. Ông Mai Anh Quốc H đã đề xuất ý kiến này với chủ đất thì họ cũng
đồng ý với lời đề nghị này.
Do ở tình thế đến ngày công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất mà không thực hiện thì Bên mua sẽ mất toàn bộ tiền đã đặt cọc. Vì vậy.
Ông Mai Anh Quốc H đã đồng ý để Công ty Cổ phần S1 trả số tiền còn lại và
đứng tên trên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Các Bên thỏa thuận
sau khi công chứng xong hợp đồng chuyển nhượng thì sẽ làm lại Hợp đồng góp
vốn giữa ông Mai Anh Quốc H và Công ty Cổ phần S1 cho đúng về mặt pháp lý.
Ngày 03/07/2019, giữa ông Trương Văn H3, bà Võ Thị Diệu Q và Công ty
Cổ phần S1 (do ông Trần Văn T đại diện) ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất tại Văn phòng C. Nhưng sau khi Công chứng xong Hợp đồng thì ông
Trần Văn T và Công ty Cổ phần S1 vẫn không chịu làm lại Hợp đồng góp vốn
giữa ông Mai Anh Quốc H và Công ty Cổ phần S1 mà hẹn khi nào làm xong thủ
tục pháp lý về gia hạn thời hạn sử dụng đất và thủ tục nộp thuế thì các bên sẽ làm
hợp đồng đó.
Hai Bên cũng đồng ý để ủy quyền cho ông Trịnh Quang S là người đứng
ra hoàn thiện toàn bộ các thủ tục pháp lý của dự án và người làm chứng cho việc
giao dịch này.
4
Đến ngày 15/12/2019, ông Trịnh Quang S thông báo là đã làm xong mọi
thủ tục gia hạn thời gian sử dụng dụng đất. Nộp thuế và điều chỉnh pháp lý nhưng
phía Công ty Cổ phần S1 vẫn không thực hiện Hợp đồng với ông Mai Anh Quốc
H như đã hứa.
Đến nay các Bên chưa thống nhất giải quyết được vụ việc. Việc Công ty
Cổ phần S1 và ông Trần Văn T không thực hiện đúng cam kết như hợp đồng là
xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của ông Mai Anh Quốc H. Do
đó ông Mai Anh Quốc H khởi kiện đề nghị Tòa án công nhận ông Mai Anh Quốc
H và Công ty Cổ phần S1 là đồng sở hữu thửa đất tại địa chỉ A2-1, tờ bản đồ số
KT-04 Khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng với diện tích
4.516m2 và đồng thời buộc Công ty Cổ phần S1 và ông Trần Văn T phải thối trả
cho ông Mai A Quốc Hùng số tiền tương ứng với 45% giá trị lô đất tại thời điểm
xét xử như đã cam kết.
* Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn - Công ty
S1 là bà Trần Thị H1 trình bày:
Ngày 03/07/2019, Công ty cổ phần S1 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất từ vợ chồng ông Trương Văn H3, bà Võ Thị Diệu Q theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AO 912584 do UBND quận C, thành phố Đà Nẵng cấp ngày
25/02/2009 đối với thửa đất số A2-1 tờ bản đồ KT04, địa chỉ khu dân cư H,
phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng (sau đây gọi là thửa đất số A2-1 tờ bản đồ
KT04). Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng C tại thành
phố Đà Nẵng công chứng theo đúng quy định của pháp luật. Công ty Cổ phần S1
đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán tiền cho ông Trương Văn H3 và bà Võ
Thị Diệu Q.
Sau khi ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Công ty Cổ phần
S1 đã nộp hồ sơ thực hiện thủ tục đăng ký biến động về sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất do thay đổi thông tin về người được cấp Giấy chứng nhận tại Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố Đ.
Ngày 15/11/2019, Theo thông báo số 6469/TB-CT của Cục thuế thành phố
Đ, Công ty Cổ phần S1 đã hoàn tất nghĩa vụ tài chính phải thực hiện liên quan
đến việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số A2-1 tờ bản
đồ KT04. Cụ thể, ngày 13/12/2019, Công ty Cổ phần S1 đã nộp thay bên chuyển
nhượng tiền thuế thu nhập cá nhân liên quan đến việc chuyển nhượng và nộp tiền
thuế trước bạ theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/7/2021, Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ đã hoàn tất thủ
tục đăng ký biến động ghi nhận Công ty Cổ phần S1 là người sử dụng đất đối với
thửa đất số A2-1 tờ bản đồ KT04 địa chỉ khu dân cư H, phường H, quận C thành
phố Đà Nẵng (nay là thửa đất số 80 tờ bản đồ 10).
Theo nội dung đơn khởi kiện của ông Mai Anh Quốc H, Công ty Cổ phần
S1 có ý kiến như sau:
Công ty Cổ phần S1 không có bất cứ giao dịch nào liên quan với ông Mai
Anh Quốc H.
5
Việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số A2-1 tờ
bản đồ KT04 được Công ty Cổ phần S1 giao dịch trực tiếp với người sử dụng đất
là ông Trương Văn H3 và bà Võ Thị Diệu Q. Hợp đồng được Công chứng theo
đúng quy định của pháp luật, bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng
đều có năng lực pháp luật dân sự đầy đủ, các bên tham gia giao hoàn toàn tự
nguyện, mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
không vi phạm điều cấm của pháp luật. Mặt khác, Công ty Cổ phần S1 đã hoàn
tất nghĩa vụ tài chính liên quan đến việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối với Nhà nước và bên chuyển nhượng, hiện các bên không có tranh chấp phát
sinh từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên.
Do đó ông Mai Anh Quốc H khởi kiện đề nghị Tòa án công nhận ông Mai
Anh Quốc H và Công ty Cổ phần S1 là đồng sở hữu thửa đất tại địa chỉ A2-1, tờ
bản đồ số KT-04 Khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng với diện
tích 4.516m2 và đồng thời buộc Công ty Cổ phần S1 và ông Trần Văn T phải thối
trả cho ông Mai A Quốc Hùng số tiền tương ứng với 45% giá trị lô đất tại thời
điểm xét xử như đã cam kết thì Công ty cổ phần S1 không đồng ý.
* Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn - ông
Trần văn T là ông Nguyễn Huy Đ1 trình bày:
Do tin tưởng những nội dung ông Mai Anh Quốc H nói là sự thật nên ông
Trần Văn T đồng ý ký hợp đồng hợp tác số 001/2019/HĐ-HTĐT (Gọi tắt là "Hợp
đồng hợp tác số 001") nhằm mục đích góp vốn để nhận chuyển nhượng thửa đất
số A2-1 tờ bản đồ KT04 từ bên chuyển nhượng là vợ chồng ông Trương Văn H3,
bà Võ Thị Diệu Q với giá trị là 37.600.000.000 đồng.
Theo thỏa thuận tại hợp đồng hợp tác, ông Trần Văn T sẽ góp
30.600.000.000 đồng và toàn bộ phí, lệ phí phải nộp cho cơ quan Nhà nước liên
quan đến việc chuyển nhượng thửa đất; ông H3 đã góp 7.000.000.000 đồng
chuyển cho chủ đất từ năm 2017. Theo quy định tại Điều 2.3 Hợp đồng hợp tác
số 001, số tiền ông Trần Văn T góp sẽ chia thành 02 đợt:
- Đợt 1: Ông Trần Văn T có trách nhiệm chuyển vào tài khoản của ông Mai
Anh Quốc H 2.000.000.000 đồng ngay sau khi ký Hợp đồng hợp tác số 001 để
ông Mai Anh Quốc H hoàn thành nghĩa vụ đặt cọc với chủ đất tổng số tiền là
9.000.000.000 đồng (7.000.000.000 đồng ông Mai Anh Quốc H đã chuyển cho
chủ đất từ năm 2017).
- Đợt 2: Ông Trần Văn T có trách nhiệm chuyển tiếp số tiền là
28.600.000.000 đồng.
Ngay sau khi ký Hợp đồng hợp tác số 001, ông Trần Văn T có vay của
Công ty cổ phần Đ3 số tiền 2.000.000.000 đồng để chuyển cho ông Mai A Quốc
H để ông Mai Anh Quốc H chuyển nốt tiền đặt cọc còn thiếu cho chủ đất là ông
Trương Văn H3, bà Võ Thị Diệu Q.
Sau khi chuyển 2.000.000.000 đồng cho ông Mai A Quốc Hùng thì ông
Trần Văn T đề nghị ông Mai Anh Quốc H chuyển cho ông Trần Văn T xem giấy
đặt cọc cũng như chứng từ chứng minh ông Mai Anh Quốc H đã chuyển tiền đặt
6
cọc cho vợ chồng ông Trương Văn H3 và bà Võ Thị Diệu Q từ năm 2017, cùng
với giấy tờ chứng minh ông Mai Anh Quốc H đã chuyển 2.000.000.000 đồng cho
chủ đất. Rất nhiều lần hứa hẹn ông Mai Anh Quốc H không xuất trình được cho
ông Trần Văn T các giấy tờ mà ông Trần Văn T yêu cầu. Nghi ngờ ông Mai Anh
Quốc H có dấu hiệu gian dối khi không chuyển đủ số tiền đặt cọc 9.000.000.000
đồng cho chủ đất cùng với thông tin ông Trần Văn T tìm hiểu, trên thực tế ông
Mai A Quốc H không bỏ ra bất cứ khoản tiền nào như sự hứa hẹn của ông Mai A
Quốc H với ông Trần Văn T khi thực hiện hợp đồng hợp tác. Ông Mai Anh Quốc
H cũng không hề có tác động gì tới chủ lô đất như theo thỏa thuận của hợp đồng
hợp tác số 001 cũng chưa góp một đồng nào để thực hiện chuyển nhượng lô đất,
nhiều lần nhắn tin hứa hẹn sẽ thực hiện đúng theo hợp đồng. Nhận thấy có sự lừa
dối trong cách làm việc của ông Mai Anh Quốc H nên ông Trần Văn T không tiếp
tục hợp tác với ông Mai A Quốc Hùng nữa.
Liên quan đến tư cách của ông Trần Văn T tại Công ty Cổ phần S1: ông
Trần Văn T có ký hợp đồng lao động với Công ty cổ phần S1. Được sự tin tưởng
của các cổ đông, Công ty Cổ phần S1 có quyết định bổ nhiệm ông Trần Văn T là
người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần S1. Liên quan đến thửa đất số
A2-1 tờ bản đồ KT04 địa chỉ khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà
Nẵng, thông qua thông tin của một Cổ đông trong Công ty được biết chủ sở hữu
thửa đất trên muốn chuyển nhượng. Là một Công ty có chức năng kinh doanh bất
động sản, đại hội đồng cổ đông Công ty Cổ phần S1 đã quyết định nhận chuyển
nhượng thửa đất trên.
Ngày 03/07/2019, Công ty Cổ phần S1 có ký hợp đồng nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số A2-1 tờ bản đồ KT04 địa chỉ khu
dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số A0 912584 do UBND quận C, thành phố Đà Nẵng cấp ngày
25/02/2009 từ bên chuyển nhượng là ông Trương Văn H3 và bà Võ Thị Diệu Q.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được hai bên ký tại Văn phòng
công chứng Huỳnh Bá Đ2 theo đúng quy định pháp luật. Ngày 26/7/2021, Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố Đ đã hoàn tất thủ tục đăng ký biến động ghi nhận
Công ty Cổ phần S1 là người sử dụng đất đối với thửa đất số A2-1 tờ bản đồ KT04
(nay là thửa đất số 80 tờ bản đồ 10).
Do vậy, ông Trần Văn T khẳng định thỏa thuận dân sự giữa ông Trần Văn
T và ông Mai Anh Quốc H là thỏa thuận giữa cá nhân với cá nhân. Ông Trần Văn
T không nhân danh Công ty Cổ phần S1 để giao dịch với ông Mai Anh Quốc H.
Ông Mai Anh Quốc H và Công ty Cổ phần S1 không có bất cứ giao dịch nào liên
quan đến thửa đất này với nhau.
Nên ông Trần Văn T đề nghị ông Mai Anh Quốc H hoàn trả số tiền mà ông
Trần Văn T đã nhờ Công ty cổ phần Đ3 chuyển cho ông H số tiền là 2.000.000.000
đồng. Đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Mai
Anh Quốc H.
Sau đó, đại diện theo ủy quyền của ông Trần Văn T có thay đổi lời trình
bày như sau: Hiện nay ông Trần Văn T chưa có yêu cầu Tòa án giải quyết số tiền
7
2.000.000.000 đồng mà ông đã đưa cho ông Mai Anh Quốc H, ông Trần Văn T
không có yêu cầu độc lập về nội dung này.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - Ông Trương Văn H3 và bà
Võ Thị Diệu Q trình bày:
Vợ chồng chúng tôi là chủ sử dụng thửa đất số A2-1 tờ bản đồ KT04, địa
chỉ khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng với diện tích 4.516m2.
Vì có nhu cầu chuyển nhượng nên vợ chồng chúng tôi có giao dịch với ông Mai
Anh Quốc H, giá chuyển nhượng 37.600.000.000đ.
Ngày 27/10/2015, ông Mai Anh Quốc H đã đặt cọc số tiền 7.000.000.000
đồng. Vì vợ chồng chúng tôi quen biết ông H nhiều năm nên khi biết ông Mai A
Quốc H không đủ tiền để thực hiện nhận chuyển nhượng toàn bộ lô đất thì chúng
tôi cho phép ông H tìm kiếm đối tác để cùng thực hiện chuyển nhượng, sau đó
chúng tôi đi định cư tại Mỹ.
Qua trao đổi thư từ, ông Mai Anh Quốc H cho biết đã tìm được đối tác góp
vốn là ông Trần Văn T nên ông Mai Anh Quốc H hẹn vợ chồng chúng tôi về Việt
Nam để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên và giao tiền vào
ngày 28/6/2019.
Ngày 28/6/2019, chúng tôi có mặt tại Việt Nam để ký hợp đồng thì ông
Mai A Quốc H có đưa thêm cho chúng tôi số tiền 2.000.000.000đ và có nói chờ
thêm vài ngày vì đối tác đang gom tiền, vì thời hạn chúng tôi về Việt Nam chỉ có
vài ngày, cụ thể là chiều ngày 03/7/2019 chúng tôi phải ra sân bay trở về Mỹ.
Ngay chiều 03/7 thì chúng tôi ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên với Công
ty Cổ phần S1 mà ông Trần Văn T là giám đốc là đại diện theo pháp luật chứ
không phải là cá nhân ông Trần Văn T như ông Mai Anh Quốc H nói. Ông Mai
Anh Quốc H cho biết ông Trần Văn T không đủ tiền nên phải thay thế Công ty
trên để giao dịch.
Việc ông Mai Anh Quốc H và ông Trần Văn T cũng như Công ty Cổ phần
S1 có ký kết thỏa thuận gì hay không, chúng tôi không được biết. Chúng tôi tin
tưởng ông Mai Anh Quốc H và được sự đồng ý của ông Mai Anh Quốc H nên
mới ký hợp đồng chuyển nhượng với Công ty Cổ phần S1 (ông T là người đại
diện theo pháp luật ký trên hợp đồng) nên mọi giao dịch thực hiện đúng theo quy
định của pháp luật. Chúng tôi chịu hoàn toàn mọi trách nhiệm trước lời khai của
mình. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - Ông Trịnh Quang S trình bày:
Tôi thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông Mai Anh Quốc H, đề nghị Toà án
chấp nhận yêu cầu khởi kiện ông Mai Anh Quốc H.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 10/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
- Căn cứ Điều 227, 273, 477, 479 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Căn cứ các Điều 208, 209 và 219 của Bộ luật Dân sự 2015;
8
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Mai Anh Quốc H đối với
Công ty Cổ phần S1 và ông Trần Văn T.
Xử:
1. Công nhận ông Mai Anh Quốc H và Công ty Cổ phần S1 là đồng sở hữu
thửa đất tại địa chỉ A2-1, tờ bản đồ số KT-04 Khu dân cư H, phường H, quận C,
thành phố Đà Nẵng.
2. Về chia tài sản chung:
- Giao Công ty Cổ phần S1 được quyền sử dụng thửa đất tại địa chỉ A, tờ
bản đồ số KT-04 Khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 912584 do UBND quận C, thành phố Đà
Nẵng cấp ngày 25/02/2009 đứng tên ông Trương Văn H3 và bà Võ Thị Diệu Q
đã được chỉnh lý biến động cho Công ty Cổ phần S1 ngày 26/7/2021.
- Về nghĩa vụ trích trả: Công ty Cổ phần S1 có nghĩa vụ trích trả cho ông
Mai A Quốc Hùng số tiền 10.289.320.075 đồng.
Kể từ ngày ông Mai Anh Quốc H có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty
Cổ phần S1 không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ thì hàng tháng Công
ty Cổ phần S1 phải chịu thêm khoản lãi tương ứng với số tiền chậm trả tại thời
điểm thanh toán theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, thi hành án
và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 16 tháng 7 năm 2024, ông Mai Anh Quốc H kháng cáo, sau đó có
nhiều đơn kháng cáo bổ sung, yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện; hủy Giấy chứng nhận chứng nhận quyền sử dụng đất tại địa chỉ A2-1,
tờ bản đồ số KT-04 Khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng, buộc
Công ty cổ phần S1 làm thủ tục cho ông Mai A Quốc Hùng là đồng sở hữu chung
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lô A2-1 và việc áp giá đất Thương mại
-Dịch vụ mới đúng.
Ngày 22 tháng 7 năm 2024, Công Ty S1 và bị đơn ông Trần Văn T kháng
cáo yêu cầu cấp phúc thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 24 tháng 7 năm 2024, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng,
kháng nghị, đề nghị cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 27/12/2024 Tòa nhận được một số văn bản bổ sung của người đại
diện Công Ty S1; và ý kiến trình bày bổ sung kháng cáo.
Quá trình thụ lý phúc thẩm, theo yêu cầu Công Ty cổ phần S1 và ông Trần
Văn T. Ngày 23/01/2025 Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ra Quyết định yêu
cầu cung cấp tài liệu chứng cứ. Hồ sơ tạm đình chỉ do nguyên đơn rút yêu cầu.
Ngày 18/02/2025 tòa tổ chức hòa giải và cung cấp tài liệu chứng cứ mới các bên
bổ sung.
9
Tại Phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tại
phiên toà phúc thẩm:
Về tố tụng: Thẩm phán chủ toạ và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các
quy định của Bộ luật tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX: căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 BLTTDS
2015: Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 06/QĐ-VKS-DS ngày
24/7/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, kháng
cáo ban đầu của nguyên đơn ông Mai Anh Quốc H. Không chấp nhận kháng cáo
của bị đơn Công ty Cổ phần S1, kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn T. Không
chấp nhận kháng cáo bổ sung của nguyên đơn
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 10/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Đà Nẵng: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, công nhận ông Mai Quốc H và Công ty Cổ phần S1 là đồng sở hữu thửa đất
tại địa chỉ A2-1, tờ bản đồ số KT-04 Khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố
Đà Nẵng (nay là thửa đất số 80, tờ bản đồ số 10), buộc Công ty Cổ phần S1 trích
trả cho ông Mai A Quốc Hùng số tiền tương ứng 45% giá trị lô đất nêu trên và
sửa phần án phí cho phù hợp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi Đại diện
Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét kháng cáo của Công ty cổ phần S1, do bà Trần Thị H1 đại diện theo
ủy quyền, và ông Trần Văn T Thì thấy.
[1.1] Ngày 03/07/2019, Công ty cổ phần S1 (viết tắt CTCP- H) nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất từ vợ chồng ông Trương Văn H3, bà Võ Thị Diệu Q
(Viết tắt là H3 -Q) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 912584 do
UBND quận C, thành phố Đà Nẵng cấp ngày 25/02/2009 đối với thửa đất số A2-
1 tờ bản đồ KT04, địa chỉ khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng
(sau đây gọi là thửa đất số A2-1 tờ bản đồ KT04). Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất được Văn phòng C, tại thành phố Đà Nẵng công chứng theo
đúng quy định của pháp luật. Công ty cổ phần S1 đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
thanh toán tiền cho ông Trương Văn H3 và Bà Võ Thị Diệu Q.
Ngày 26 /7/2021, Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ đã hoàn tất thủ
tục đăng ký biến động ghi nhận Công ty cổ phần S1 là người sử dụng đất đối với
thửa đất số A2-1 tờ bản đồ KT04 địa chỉ khu dân cư H, phường H, quận C thành
phố Đà Nẵng nay là thửa đất số 80 tờ bản đồ 10. Như vậy, việc mua bán chuyển
nhượng, đăng ký biến động đứng tên Công ty cổ phần S1 là đúng qui định pháp
luật.
[1.2] Xét thấy, việc Ông Mai Anh Quốc H và ông Trần Văn T ký HĐ-
001/2019/HĐ-HTĐT v/v góp vốn nhận chuyển nhượng thửa đất số A2-1 tờ bản
đồ KT04 (viết tắt là "HĐ- 001") bên chuyển nhượng là vợ chồng ông H- Q. Với
10
giá chuyển nhượng 37.600.000.000 đồng, theo thỏa thuận, M góp 7.000.000.000
đồng và các chi phí liên quan và được tính giá trị vốn góp là 45% giá trị lô đất.
Theo ông Mai Anh Quốc H đã chuyển 7.000.000.000 đồng cho chủ đất H-Q từ
năm 2017. Ngày 13/6/2019 Ông Trần Văn T mượn của Công ty cổ phần Đ3
chuyển 2.000.000.000 đồng cho ông Mai Anh Quốc H. Tổng cộng 2 khoản là
9.000.000.000 đồng đã thực hiện, số tiền còn lại 28.600.000.000 đồng ông T sẽ
chuyển vào Tài khoản chung của hai Bên mở tại Ngân hàng, chậm nhất đến ngày
30/06/2019 để thanh toán Hợp đồng chuyển nhượng. Nhưng do nghi ngờ lẫn nhau
các bên không thực hiện các điều khoản tiếp theo của hợp đồng HĐ-001 và xảy
ra tranh chấp. “Tòa án TP-ĐN đã thụ lý tháng 10/2020 sau đó ông Mai A Quốc H
rút đơn theo quyết định đình chỉ số 38/2021 ngày 22/6/2021.”
Như vậy, Đây là tranh chấp hợp đồng góp vốn, xuất phát từ HĐ số 001 giữa
cá nhân H- Q với ông Trần Văn T.
[2] Ngày 03/07/2019, ông Trương Văn H3 và bà Võ Thị Diệu Q (Bên A)
ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với Công ty cổ phần S1 (Bên B)
do ông Trần Văn T làm đại diện thì thấy. Tại phiên tòa phúc thẩm. Đại diện Công
ty Cổ phần S1 cho rằng theo Điều 2 của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 03/07/2019 các bên có thỏa thuận: “giá chuyển nhượng là
37.600.0000000 đồng, bên B (Công ty Cổ phần S1) đã thanh toán cho bên A trước
9.000.000.000 đồng trước khi hợp đồng này được công chứng chứng nhận, sau
khi Hợp đồng công chứng xong bên B phải giao đủ số tiền còn lại là
28.600.000.000 đồng” nghĩa là Công ty Cổ phần S1 đã thanh toán toàn bộ số tiền
36.700.000.000 đồng cho ông H3- Q nên không liên quan gì đến ông Mai Anh
Quốc H; việc ông Mai Quốc Anh H4 tranh chấp với ông Trần Văn T là quan hệ
giữa cá nhân với nhau với các lý do sau.
[2.1] Theo sổ đăng ký cổ đông số 01 lập ngày 04/6/2019 của CTCP-H, tại
thời điểm ký hợp đồng ông Trần Văn T chỉ là Giám đốc thuê, không phải là cổ
đông của Công ty và chỉ là người đại diện của Công ty nên không có quyền quyết
định tình hình hoạt động của Công ty. Bởi lẽ, theo điểm d khoản 2 Điều 27 Điều
lệ Công ty quy định một trong các điều kiện buộc phải thông qua Đại hội đồng cổ
đông Công ty là “ Quyết định đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn
35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của Công ty”
Tại thời điểm nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất vốn điều lệ của Công ty là
60.000.000.000 đồng. Điều này có nghĩa là việc thông qua nhận chuyển nhượng
với giá trị trên 50% tổng giá trị tài sản buộc phải có sự đồng ý của Đại hội đồng
cổ đông.
[2.2] Thực tế ngày 20/6/2019 Đại hội đồng cổ đông Công ty đã thông qua
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ vợ chồng ông H4- Quỳnh. Ông Trần
Văn T không phải là cổ đông Công ty, chỉ với tư cách Giám đốc là người đại diện
theo pháp luật, ông T phải thực hiện quy chế, điều lệ Công ty và theo sự phân
công của Hội đồng quản trị nên không thể xác định, ông T có quyền quyết định
đối với giao dịch nhận chuyển nhượng thửa đất như nhận định của Toà án cấp sơ
thẩm.
11
Ngoài ra, theo biên bản thỏa thuận số 01/2019/STBHA ngày
25/6/2019 và Giấy biên nhận tiền ngày 25/6/2019 giữa Công ty cổ phần S1 và ông
Trần Văn T thể hiện, ông Trần Văn T đã nhận đủ 9.000.000.000 đồng, trong đó
gồm: 2.000.000.000 đồng số tiền ông Trần Văn T chi trả và 7.000.000.000 đồng
ông Trần Văn T và ông Mai Anh Quốc H như đã thống nhất tại Hợp đồng số
001/2019/HĐ-HTĐT, về việc góp vốn để nhận chuyển nhượng Khu đất đã ký
giữa cá nhân ông T và ông Mai Anh Quốc H (“Hợp đồng số 001”). Việc giải quyết
các tranh chấp phát sinh liên quan đến Hợp đồng số 001 thuộc trách nhiệm của
ông Trần Văn T.
[2.3] Xét thấy, HĐXX cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 208 BLDS 2015 để
công nhận Công ty Cổ phần S1 và ông Mai Anh Quốc H là đồng sở hữu và chia
tài sản chung thửa đất tại địa chỉ A2-1, tờ bản đồ số KT-04 Khu dân cư H, phường
H, quận C, thành phố Đà Nẵng là thiếu căn cứ.
[3] Xét thỏa thuận góp vốn giữa ông Mai A Quốc Hùng với ông Trần Văn
T để nhận chuyển nhượng thửa đất số A2-1 tờ bản đồ KT04 của ông Trương Văn
H3 và bà Võ Thị Diệu Q; tại HĐ-001 được xác lập giữa ông Mai A Quốc Hùng
với ông Trần Văn T là quan hệ tranh chấp về góp vốn để nhận chuyển nhượng
đất. Tại điểm 4.2 Điều 4 của HĐ-001 qui định như sau.: “Trong mọi trường hợp
chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nếu do lỗi bên A thì bên A phải trả cho bên B
toàn bộ khoản tiền mà B đã chuyển cho A và phải chịu một khoản phạt bằng 50%
khoản tiền mà B đã chuyển cho A….” như vậy; Nếu có tranh chấp các bên được
thực hiện theo điểm 4.2 Điều 4 của HĐ-001 sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
Vì vậy, có đủ căn cứ để chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần S1, ông Trần
Văn T, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện, kháng cáo của ông Mai Anh
Quốc H,
[4] Xét kháng cáo Mai Anh Q yêu cầu buộc Công ty cổ phần S1 làm thủ
tục cho ông Mai A Quốc Hùng là đồng sở hữu chung trong Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lô A2-1; tính giá trị theo thỏa thuận góp vốn HĐ-001 phải trả
theo số tiền tương ứng 45% và việc áp giá đất Thương mại -Dịch vụ thì thấy:
Theo đơn kháng cáo của M yêu cầu, buộc Công ty cổ phần S1 làm thủ tục
cho ông Mai A Quốc Hùng là đồng sở hữu chung trong Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất lô A2-1 với Công ty Cổ phần S1 đồng thời, tính giá trị theo thỏa
thuận góp vốn HĐ-001 phải trả theo số tiền tương ứng 45% giá trị Quyền sử dụng
đất tại địa chỉ A, tờ bản đồ số KT-04 Khu D, phường H, quận C, thành phố Đà
Nẵng (với số tiền định giá tại cấp sơ thẩm là 55.268.411.000 đồng; theo kháng
cáo của ông Mai Anh Quốc H đề nghị tính theo giá đất Thương mại – Dịch vụ là
66.320.286.000đ). Tại Quyết định của bản án sơ thẩm đã công nhận ông Mai Anh
Quốc H và Công ty Cổ phần S1 là đồng sở hữu thửa đất tại địa chỉ A2-1, tờ bản
đồ số KT-04 Khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Về chia tài
sản chung: Giao Công ty Cổ phần S1 được quyền sử dụng thửa đất tại địa chỉ A,
tờ bản đồ số KT-04 Khu dân cư H, phường H, quận C và Công ty Cổ phần S1 có
nghĩa vụ trích trả cho ông Mai A Quốc Hùng số tiền 10.289.320.075 đồng. Như
đã nhận định phần trên thì, quan hệ tranh chấp được xác lập giữa ông Mai A Quốc
12
Hùng với ông Trần Văn T là quan hệ tranh chấp về góp vốn để nhận chuyển
nhượng đất theo qui định tại điểm 4.2 Điều 4 của HĐ-001. Lẽ ra, nghĩa vụ bồi
thường thuộc cá nhân ông Trần Văn T do vi phạm hợp đồng, phải được xem xét
trong cùng một vụ án tùy theo mức độ lỗi nhưng án sơ thẩm và kháng cáo của
Mai Anh Quốc H không đề cập đến nên Cấp Phúc thẩm không có căn cứ để xem
xét, do vượt quá thẩm quyền xét xử phúc thẩm theo Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015.
[4.1] Đối với kháng cáo yêu cầu hủy Giấy chứng nhận chứng nhận quyền
sử dụng đất tại địa chỉ A2-1, tờ bản đồ số KT-04 Khu dân cư H, phường H, quận
C, thành phố Đà Nẵng thì thấy. Tại phiên tòa, người đại diện ông Mai A Quốc
Hùng rút kháng cáo nên HĐXX không xét.
Từ các nhận định phần trên, Tòa Cấp phúc thẩm thấy có đủ căn cứ để chấp
nhận kháng cáo của S1 và ông Trần Văn T; bác kháng nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng và kháng cáo của ông Mai Anh Quốc H,
sửa toàn bộ án sơ thẩm.
Ông Mai Anh Quốc H được quyền khởi kiện độc lập bằng vụ án khác với
cá nhân ông Trần Văn T theo điểm 4.2 Điều 4 của HĐ-001.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu công nhận tài sản chung của ông
Mai Anh Quốc H không được chấp nhận nên ông Mai Anh Quốc H phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch.
Công ty cổ phần S1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[5.1] Về chi phí tố tụng: Chi phí thẩm định giá tài sản là 102.000.000 đồng
và chi phí xem xét tại chỗ 2.000.000 đồng, tổng cộng 104.000.000 đồng, do yêu
cầu ông Mai A Quốc H không được chấp nhận nên phải chịu toàn bộ 104.000.000
đồng. Công ty Cổ phần S1 không phải chịu 84.638.320 đồng. Ông Mai Anh Quốc
H đã nộp tạm ứng đủ số tiền 104.000.000 đồng.
[5.2] Án phí Dân sự phúc thẩm: ông Mai Anh Quốc H phải chịu 300.000
đồng, Công ty Cổ phần S1 và ông Trần Văn T không phải chịu án phí Dân sự
phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 308, 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần S1 và kháng cáo ông Trần
Văn T. Bác kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà
Nẵng; bác yêu cầu khởi kiện, kháng cáo của ông Mai Anh Quốc H, sửa toàn
bộ bản án dân sự sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 10/7/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng.
13
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Mai Anh Quốc H về yêu cầu đồng
sở hữu chung; và chia tài sản chung thửa đất tại địa chỉ A2-1, tờ bản đồ số KT-04
Khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng.
2. Giao Công ty Cổ phần S1 được quyền sử dụng thửa đất tại địa chỉ A, tờ
bản đồ số KT-04 Khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 912584 do UBND quận C, thành phố Đà
Nẵng cấp ngày 25/02/2009 đứng tên ông Trương Văn H3 và bà Võ Thị Diệu Q
đã được chỉnh lý biến động cho Công ty Cổ phần S1 ngày 26/7/2021.
3. Về án phí:
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Mai Anh Quốc H phải chịu 300.000 đồng, được trừ vào số tiền ông
Mai Anh Quốc H đã nộp 62.460.000 đồng theo Biên lai thu số 0005134 ngày
01/12/2022 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng, hoàn trả lại ông Mai
Anh Quốc H số tiền 62.160.000 đồng.
Công ty cổ phần S1 không phải chịu.
- Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Mai Anh Quốc H phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền
300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0003767 ngày 24/7/2024 của Cục Thi
hành án dân sự thành phố Đà Nẵng.
Công ty cổ phần S1 và ông Trần Văn T không phải chịu án phí, hoàn lại
cho công ty cổ phần S1 và ông Trần Văn T mỗi đương sự 300.000 đồng theo biên
lai thu số 0003771 và 0003772 cùng ngày 31/7/2024 của Cục Thi hành án dân sự
thành phố Đà Nẵng.
4. Về chi phí tố tụng: Chi phí thẩm định giá tài sản là 102.000.000 đồng
và chi phí xem xét tại chỗ 2.000.000 đồng, tổng cộng 104.000.000 đồng, ông Mai
Anh Quốc H phải chịu toàn bộ 104.000.000 đồng. Ông Mai Anh Quốc H đã nộp
tạm ứng đủ số tiền 104.000.000 đồng.
Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp
luật.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND thành phố Đà Nẵng;
- VKSND thành phố Đà Nẵng;
- Cục THADS thành phố Đà Nẵng;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HSVA, VP, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Phạm Tồn
14
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 76/2025/DS-PT ngày 13/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về chia tài sản chung
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 07/2025/DS-PT ngày 17/01/2025 của TAND tỉnh Ninh Thuận về tranh chấp về chia tài sản chung
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm