Bản án số 24/2025/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 24/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 24/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 24/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 24/2025/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu |
Số hiệu: | 24/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Chắng Bạt M khởi kiện ông Nguyễn Tiến H1 về việc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Bản án số: 24/2025/DS-PT
Ngày 21 – 01 – 2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài sản,
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Xuân Long
Các Thẩm phán: Ông Trịnh Hoàng Anh
Bà Bùi Thị Thương
- Thư ký phiên tòa: Bà Hồ Thị Tâm – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Bà Lê Thị
Vẹn - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 17, 21 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
230/2024/TLPT-DS ngày 21 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 349/2024/QĐ-PT ngày
05/12/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 323/2024/QĐ-PT ngày 23/12/2024,
Thông báo mở lại phiên tòa số 04/2025/TB-TA ngày 08/01/2025, giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Chắng Bạt M, sinh năm 1967 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp A, xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Út H, sinh
năm 1992; địa chỉ: B đường T, phường T1, thị xã L, tỉnh Bình Thuận (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Tiến H1, sinh năm 1978 (có mặt)
Địa chỉ: C đường Đ, khu phố N, phường P1, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu.
2
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm
1982; địa chỉ: P, phường D, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nhĩn A P, sinh năm 1958 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp A (nay là ấp E), xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn L, sinh năm 1974; địa chỉ: Ấp
E, xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
2. Bà Trần Lê Mỹ L1, sinh năm 1986 (vắng mặt).
Địa chỉ: N, phường E, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Thân Trọng T, sinh năm 1978; địa chỉ:
Tổ F, ấp G, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
3. Bà Hồ Thị Cẩm D, sinh năm 1982; địa chỉ: C đường Đ, khu phố N,
phường P1, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).
4. Văn phòng công chứng C;
Địa chỉ: Khu phố T, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Trường S, chức vụ Trưởng
Văn phòng (vắng mặt).
5. Văn phòng công chứng T;
Địa chỉ: H, khu phố S, phường T2, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Xuân K, chức vụ Trưởng Văn
phòng (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bà Chắng Bạt M, sinh năm 1967, là nguyên đơn và
ông Nhĩn A P, là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện sửa đổi bổ sung và quá trình giải
quyết vụ án, nguyên đơn - bà Chắng Bạt M, đại diện theo ủy quyền trình bày:
Bà Chắng Bạt M là chủ sử dụng thửa đất số 588, 589 đều thuộc tờ bản đồ
21, tọa lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nguồn gốc thửa đất 589 do
nhận chuyển nhượng từ ông Chắng Phát D3 từ năm 2016. Ngày 06/6/2016 ông
Nhĩn A P và bà Chắng Bạt M được cấp giấy chứng nhận QSD đất số CD
517413. Đối với thửa đất số 588 có nguồn gốc là do ông Nhĩn A P và bà Chắng
Bạt M nhận chuyển nhượng năm 2011 từ ông Chắng Phát D3, ngày 19/8/2011
được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất BC 834893.
Ngày 24/10/2017, do có nhu cầu vay tiền nên bà M và ông P đã liên hệ
với ông H1 để vay số tiền 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng), hợp đồng
vay không thỏa thuận về thời hạn vay, lãi suất không ghi vào trong hợp đồng mà
3
chỉ thỏa thuận bằng lời nói, mỗi tháng bà M phải thanh toán cho ông H1 số tiền
lãi là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) cho số tiền gốc 400.000.000 đồng
(bốn trăm triệu đồng), mục đích vay để bà M làm ăn, mua bán, sửa chữa nhà
cửa. Hợp đồng vay bằng giấy viết tay có xác nhận của bà M và ông P, toàn bộ
chữ viết trong giấy vay là của ông P, chữ ký là bà M và ông P ký tên. Khi vay có
thế chấp hai thửa đất 588, 589 tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu để đảm bảo khoản vay dưới hình thức ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng công chứng C, số công chứng 3292,
quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD. Trong quá trình vay, bà M và ông P chưa trả
được khoản tiền gốc nào, tiền lãi mỗi tháng bà M thanh toán tiền mặt cho ông
H1, thanh toán tiền lãi đến hết tháng 11/2021, tổng số tiền lãi đã trả là bao nhiêu
bà M không nhớ, khi trả lãi không làm giấy tờ gì.
Ngày 06/12/2017, bà M tiếp tục vay ông H1 số tiền là 50.000.000 đồng,
khi vay có làm hợp đồng vay bằng giấy viết tay với nội dung: Bà Chắng Bạt M
có vay ông Nguyễn Tiến H1 số tiền 50.000.000 đồng, tổng cộng là 450.000.000
đồng, toàn bộ chữ ký và chữ viết trong giấy vay tiền là của bà M, lãi suất không
ghi vào trong hợp đồng vay mà thỏa thuận bằng lời nói là 7,5% /tháng trên tổng
số tiền vay. Đối với số tiền vay này cũng chưa trả được tiền gốc, do khó khăn
nên đối với khoản tiền lãi hai bên thỏa thuận là mỗi tháng trả 30.000.000 đồng,
bà M đã thanh toán tiền lãi từ ngày 06/12/2017 đến năm 2021, bà M không nhớ
đã trả bao nhiêu tiền lãi, bao nhiêu tháng lãi, mỗi lần trả lãi bằng tiền mặt không
làm giấy tờ gì, riêng năm 2021 hoặc 2022 bà M có hai lần chuyển khoản qua số
tài khoản của ông Nguyễn Tiến H1 với tổng số tiền là 15.000.000 đồng, hiện
giao dịch chuyển khoản này thì bà M không lưu giữ tài liệu chứng cứ gì, không
cung cấp được tài liệu gì; khoản vay này cũng thế chấp hai thửa đất số 588, 589
đều thuộc tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; mục
đích vay để bà M làm ăn, mua bán, sửa chữa nhà cửa, không có thời hạn vay.
Như vậy, tổng số tiền bà M đã vay của ông H1 là 450.000.000 đồng.
Đối với tất cả các giấy vay còn lại đề ngày 27/01/2018, ngày 13/9/2018,
ngày 27/12/2019 và một giấy vay không ghi ngày, một giấy bán đất đề ngày
24/10/2018 mà bị đơn cung cấp cho Tòa thì phía nguyên đơn khẳng định không
phải chữ ký và chữ viết của bà M, phía nguyên đơn đã được xem kết luận giám
định chữ ký, chữ viết, nguyên đơn không có ý kiến gì và không yêu cầu giám
định lại chữ ký chữ viết.
Ngày 22/10/2018, ông H1 yêu cầu vợ chồng bà M ra Văn phòng công
chứng C ký hủy hợp đồng chuyển nhượng năm 2017 với lý do theo ông H1 nói
với vợ chồng bà M là hợp đồng chuyển nhượng năm 2017 đã hết hạn và ký lại
02 hợp đồng chuyển nhượng năm 2018. Vì tin tưởng nên vợ chồng bà M ký liên
tiếp 03 hợp đồng công chứng số: 5149, 5150 và 5151. Trong đó, văn bản hủy
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 5149 về việc hủy hợp đồng mua
bán số 3292 ký ngày 24/10/2017; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
số 5150 về việc chuyển nhượng thửa đất 588 với giá là 30.000.000 triệu đồng;
4
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 5151 về việc chuyển nhượng
thửa đất 589 với giá là 70.000.000 triệu đồng.
Từ năm 2022 đến 2023, bà M chưa trả thêm cho ông H1 khoản tiền gốc
và tiền lãi nào.
Năm 2023, bà M phát hiện thửa đất 589, tờ bản đồ 21, tọa lạc tại xã S, thị
xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ông H1 đã tự sang tên cho ông H1. Vì vậy, bà M
đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân thị xã P.
Ngày 19/6/2023 ông H1 ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa đất
589 cho bà Trần Lê Mỹ L1.
Ngày 23/6/2023, nguyên đơn có đơn yêu cầu bổ sung đơn khởi kiện với
nội dung: Tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số công chứng 1314 ngày
19/6/2023 đối với thửa đất số 589, tờ bản đồ 21, tọa lạc tại xã S giữa ông
Nguyễn Tiến H1 với bà Trần Lê Mỹ L1 vô hiệu.
Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu những vấn đề sau:
- Tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất số 589, tờ
bản đố số 21, tọa lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng:
5151, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng C chứng nhận
ngày 22/10/2018 và Huỷ chỉnh lý đăng ký biến động thửa đất số 589, tờ bản đồ
số 21, toạ lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo hồ sơ chuyển
nhượng quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD, số công chứng 5151 ngày 22/10/2018.
- Tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất số 588, tờ
bản đố số 21, tọa lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng
5150, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng C chứng nhận
ngày 22/10/2018.
- Tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Tiến H1 với bà Trần Lê Mỹ L1 đối với thửa đất số 589, tờ bản đố số 21, tọa lạc
tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng 1343 do Văn phòng
công chứng T chứng nhận ngày 19/6/2023.
Đối với tiền lãi: Tại phiên hoà giải ngày 04/6/2024, nguyên đơn đồng ý trả
lại số tiền 450.000.000 đồng mà bà M, ông P đã vay của ông H1, vợ chồng bà M
đồng ý trả lãi cho ông H1 với lãi suất 20%/năm (1,63%/tháng x 24 tháng (tháng
6/2022 đến tháng 6/2024) x 450 triệu = 176.040 .000 đồng). Sau đó thay đổi ý
kiến do hai bên khi ký hợp đồng vay không thỏa thuận rõ ràng về lãi suất, vì vậy
hiện nay nguyên đơn chỉ đồng ý trả lại tiền lãi suất là 10%/năm (tương đương
0,83%/tháng) x 24 tháng x 450 triệu = 89.640.000 đồng.
Tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện ủy quyền của nguyên đơn thống
nhất số tiền đã vay và đồng ý trả nợ theo quyết định đã tuyên của bản án sơ
thẩm.
5
2. Tại đơn phản tố ngày 07/3/2024, quá trình giải quyết vụ án, bị đơn -
ông Nguyễn Tiến H1, đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 24/10/2017, ông Nguyễn Tiến H1 và vợ là bà Hồ Thị Cẩm D có cho
ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M vay số tiền 400.000.000 đồng, hợp đồng vay
bằng giấy viết tay, do ông P ghi và bà M, ông P cùng ký tên, mục đích vay làm
gì ông H1 không biết, không thỏa thuận thời hạn vay, lãi suất vay chỉ thỏa thuận
bằng lời nói mỗi tháng bà M trả lãi cho ông H1 8.000.000 đồng. Bà M được 3
tháng tiền lãi (tháng 11/2017, tháng 12/2017 và tháng 1/2018) tổng cộng
24.000.000 đồng, bà M trả tiền lãi bằng hình thức trả tiền mặt, khi trả không làm
giấy tờ gì, từ đó đến nay không còn trả thêm tiền gốc, tiền lãi.
Khi vay bà M, ông P có thế chấp Quyền sử dụng đất có diện tích 232m
2
thuộc thửa đất số 588, tờ bản đồ số 21, tại xã S, huyện Tân Thành (nay là thị xã
P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Quyền sử dụng đất có diện tích 1.023 m
2
thuộc
thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, tại xã S, huyện Tân Thành (nay là thị xã P),
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất ký tại Văn
phòng công chứng C ngày 24/10/2017, số công chứng số 3292 quyển số 02
TP/CC-SCC/HĐGD.
Tiếp đến ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M nhiều lần vay tiền của ông H1 cụ
thể như sau:
- Ngày 06/12/2017: Bà M vay thêm 50.000.000 đồng, hợp đồng vay bằng
giấy viết tay có chữ viết và chữ ký của bà M, không thỏa thuận thời hạn vay,
không thỏa thuận lãi suất vay, mục đích vay theo bà M là để bà M trả tiền môi
giới đất, khi vay không thế chấp tài sản gì thêm, khoản vay này chưa trả cả tiền
gốc và lãi.
- Ngày 27/01/2018: Bà M vay thêm 500.000.000 đồng, hợp đồng vay
bằng giấy viết tay có chữ viết và chữ ký của bà M, không thỏa thuận thời hạn
vay, không thỏa thuận lãi suất vay, mục đích vay theo bà M là để bà M đặt cọc
tiền đất, khi vay không thế chấp tài sản gì thêm, khoản vay này chưa trả tiền gốc
và lãi.
- Ngày 13/09/2018: Bà M vay thêm 270.000.000 đồng, hợp đồng vay
bằng giấy viết tay có chữ viết và chữ ký của bà M, hai bên không thỏa thuận thời
hạn vay, không thỏa thuận lãi suất vay, mục đích vay bà M không nói, khi vay
không thế chấp tài sản gì thêm, khoản vay này chưa trả tiền gốc và lãi.
- Ngày 27/12/2019: Bà M vay thêm 50.000.000 đồng, hợp đồng vay bằng
giấy viết tay có chữ viết và chữ ký của bà M, hai bên không thỏa thuận thời hạn
vay, không thỏa thuận lãi suất vay, mục đích vay bà M không nói, khi vay không
thế chấp tài sản gì thêm, khoản vay này chưa trả tiền gốc và lãi.
- Khoảng năm 2020, ông H1 có cho bà M vay thêm số tiền 57.500.000
đồng, khi vay có làm giấy viết tay có chữ viết và chữ ký của bà M, nhưng không
ghi ngày tháng, hai bên không thỏa thuận thời hạn vay, không thỏa thuận lãi suất
6
vay, mục đích vay bà M không nói, khi vay không thế chấp tài sản gì thêm,
khoản vay này chưa trả tiền gốc và lãi.
Tổng cộng bà M đã vay ông H1 số tiền là: 1.327.500.000 đồng. Đến nay
ông P, bà M vẫn chưa trả đồng nào tiền gốc và tiền lãi.
Ngày 22/10/2018 do cần tiền nên bà M, ông P thỏa thuận chuyển nhượng
cho ông H1 thửa đất số 589 tờ bản đồ 21 tọa lạc tại xã S với giá 450.000.000
đồng vì vậy ông H1 và vợ chồng bà M, ông P đã ra văn phòng công chứng C
hủy hợp đồng chuyển nhượng ngày 24/10/2017 số 3292 quyển số 02 TP/CC-
SCC/HĐGD, ông H1 đã thanh toán tiền cho bà M sau khi ký hợp đồng chuyển
nhượng tại phòng công chứng; ngoài hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ký tại phòng công chứng thì bà M còn viết tay cho ông H1 một tờ giấy viết
tay đề ngày 24/10/2018 với nội dung là bà M đồng ý bán cho ông Nguyễn Tiến
H1 thửa đất số 589 tờ bản đồ 21 diện tích 1.023m
2
địa chỉ xã S, huyện Tân
Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Thửa đất này ông H1 đã cập nhật sang tên cho
ông H1 ngày 23/11/2018.
Đồng thời bà M dùng quyền sử dụng diện tích đất 232m
2
thuộc thửa đất
số 588, tờ bản đồ số 21, tại xã S, huyện Tân Thành (nay là thị xã P), tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu làm tài sản thế chấp đảm bảo cho các khoản vay trước đây dưới hình
thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do thửa đất này là thế chấp
để đảm bảo khoản vay nên ông H1 chưa cập nhật sang tên cho ông H1.
Do không có nhu cầu sử dụng nên ngày 19/3/2019 ông H1 chuyển nhượng
thửa đất 589 cho bà Trần Lê Mỹ L1. Cùng ngày ông H1 và bà L1 đã ký hợp
đồng đặt cọc để đảm bảo chuyển nhượng thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, diện
tích 1.023m
2
, tọa lạc tại xã S, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhưng
do bà L1 có chồng là người nước ngoài và chưa hoàn tất thủ tục ly hôn vì vậy
ông H1 và bà L1 đã ký hợp đồng ủy quyền số công chứng 611, quyển số
02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17/4/2019 đối với thửa đất 589, tại tờ bản đồ 21,
tọa lạc tại xã S. Đến ngày 19/6/2023 tại Văn phòng công chứng T, ông H1 và bà
L1 đã ký hủy hợp đồng ủy quyền số công chứng 611, quyển số 02TP/CC-
SCC/HĐGD; đồng thời ký hợp đồng tặng cho bà L1 thửa đất 589, tờ bản đồ 21,
tọa lạc tại xã S để bà L1 làm thủ tục sang tên. Bà L1 đã giao đủ tiền cho ông H1.
Hai bên đã bàn giao đất cho bà L1 năm 2019, khi tiến hành bàn giao đất cho bà
L1 thì bà M biết và không có ý kiến gì. Tuy nhiên do đất đang tranh chấp trong
vụ án nên hiện nay bà L1 chưa sang tên được.
Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn ông Nguyễn Tiến H1 có
ý kiến:
- Đồng ý tuyên hợp đồng chuyển nhượng QSD đất có diện tích 232 m
2
thuộc thửa đất số 588, tờ bản đồ số 21, tại xã S, huyện Tân Thành (nay là thị xã
P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, được lập tại Văn phòng công chứng C ngày
22/10/2018, theo số công chứng 5150, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD là vô
hiệu.

7
- Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tuyên hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất có diện tích 1.023 m
2
thuộc thửa đất số 589, tờ bản đồ
số 21, tại xã S, huyện Tân Thành (nay là thị xã P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, được
lập tại VPCC Chấn Phong ngày 22/10/2018, theo số công chứng 5151, quyển số
02 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
- Không đồng ý tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa
ông Nguyễn Tiến H1 với bà Trần Lê Mỹ L1 đối với thửa đất số 589, tờ bản đồ
số 21, tọa lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu số công chứng 1343 do
Văn phòng công chứng T chứng nhận ngày 19/6/2023.
- Không đồng ý huỷ chỉnh lý đăng ký biến động thửa đất số 589, tờ bản đồ
số 21, toạ lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đồng thời ngày 07/3/2024, bị đơn ông Nguyễn Tiến H1 có yêu cầu phản
tố như sau:
- Tuyên hợp đồng chuyển nhượng QSD đất có diện tích 1.023m
2
thuộc
thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, tại xã S, huyện Tân Thành (nay là thị xã P),
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, được lập tại Văn phòng công chứng C ngày 22/10/2018,
theo số công chứng 5151, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD có hiệu lực pháp
luật.
- Buộc ông Nhĩn A P bà Chắng Bạt M trả lại tiền đã vay là 1.327.500.000
đồng và đồng ý nhận số tiền lãi mà phía nguyên đơn đưa ra là 176.040.000
đồng.
3. Quá trình tham gia tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Lê Trần Mỹ Linh và người đại diện cho bà L1 - ông Thân Trọng T
đại diện trình bày:
Bà L1 không có quan hệ bà con gì với bà M, ông H1 mà trước đây khi bà
L1 có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bạn của bà L1 giới
thiệu cho bà L1 thửa đất của ông Nguyễn Tiến H1.
Tháng 3/2019 sau khi thỏa thuận được việc chuyển nhượng thì ngày
19/3/2019 bà L1 và ông H1 có ký “Hợp đồng thỏa thuận đặt cọc mua bán nhà
đất” đối với thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại xã S, huyện Tân Thành
(nay là thị xã P) với giá 1.150.000.000 đồng, bà L1 đã đặt cọc trước 200.000.000
đồng vào ngày 19/3/2019 và hẹn 30 ngày sau sẽ thanh toán hết số tiền còn lại.
Đến ngày 18/4/2019 thì bà L1 đã chuyển khoản cho ông H1 800.000.000 đồng
và thanh toán tiền mặt cho ông H1 150.000.000 đồng. Do tại thời điểm nhận
chuyển nhượng thì bà L1 vẫn chưa ly hôn với người nước ngoài nên chưa lập
hợp đồng chuyển nhượng với ông H1 tại phòng công chứng được, ông H1 có lập
hợp đồng ủy quyền thửa đất trên cho bà L1 toàn quyền mua bán chuyển nhượng.
Sau khi giao đủ tiền cho ông H1 thì ông H1 đã bàn giao giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, bàn giao đất trên thực địa, tại thời điểm nhận chuyển nhượng
8
thì trên toàn bộ thửa đất là đất trống. Sau đó bà L1 đi nước ngoài và cũng không
cho ai canh tác trên đất.
Sau khi ly hôn với người nước ngoài thì tháng 6/2023 bà L1 trở lại Việt
Nam và yêu cầu ông H1 ra phòng công chứng lập hợp đồng chuyển nhượng
QSD đất đúng quy định của pháp luật để bà L1 làm thủ tục sang tên. Bà L1 và
ông H1 đã ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất tại Văn phòng công chứng T
ngày 19/6/2023. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng thì bà M khởi kiện tranh
chấp với ông H1 nên hiện nay quyền sử dụng đất vẫn chưa sang tên cho bà L1
được.
Tại thời điểm bà L1 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông H1 thì
bà L1 thấy giấy chứng nhận QSD đất đã đứng tên ông Nguyễn Tiến H1, thủ tục
pháp lý đầy đủ nên bà L1 đồng ý nhận chuyển nhượng, đến thời điểm bà L1 ký
hợp đồng chuyển nhượng tại phòng công chứng thì thửa đất trên cũng không bị
ngăn chặn.
Ngày 17/07/2023, bà L1 có đơn yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án tuyên hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 19/6/2023 giữa ông Nguyễn Tiến H1 và
bà L1 có hiệu lực pháp luật.
Tại cấp phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà L1 có ý kiến thay
đổi yêu cầu độc lập, cụ thể: Yêu cầu Tòa án hủy giao dịch chuyển nhượng giữa
bà L1 và ông H1 và buộc ông H1 phải hoàn trả số tiền đã nhận 1.150.000.000
đồng và tiền lãi suất 10%/năm.
3.2. Ông Nhĩn A P trình bày:
Ông Nhĩn A P là chồng của bà Chắng Bạt M, ông P thống nhất với phần
trình bày và yêu cầu của nguyên đơn bà Chắng Bạt M và không bổ sung gì thêm.
Ông P chỉ thừa nhận cùng bà M vay số tiền 400.000.000 đồng vào ngày
24/10/2017, các khoản vay khác của bà M ông P không biết.
3.3. Bà Hồ Thị Cẩm D trình bày:
Bà D và ông H1 là vợ chồng. Ngày 24/10/2017 ông H1 và bà D có cho
ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M vay số tiền 400.000.000 đồng, hợp đồng vay
bằng giấy viết tay, do ông P ghi và bà M, ông P cùng ký tên, mục đích vay làm
gì thì bà M không nói. Hợp đồng vay không thỏa thuận thời hạn vay, lãi suất vay
chỉ thỏa thuận bằng lời nói 2%/tháng.
Khi vay bà M, ông P có thế chấp 2 thửa đất số 588, 589 tờ bản đồ số 21,
tại xã S, huyện Tân Thành (nay là thị xã P), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu dưới hình
thức Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất ký tại Văn phòng công chứng C. Hai
bên thỏa thuận trong vòng vài tháng nếu bà M, ông P trả tiền thì ông H1 trả lại
đất cho bà M. Ngoài giấy vay tự vợ chồng bà M, ông P viết và ông H1 đã nộp
bản chính cho Tòa án thì đối với lần vay ngày 24/10/2017, hai bên không còn
giấy vay nào khác. Đối với lần vay ngày 24/10/2017, bà M đã trả được 3 tháng
tiền lãi là tháng 11/2017; tháng 12/2017 và tháng 1/2018 mỗi tháng 8.000.000
đồng tiền lãi.
9
Sau đó ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M nhiều lần vay tiền của vợ chồng bà
D, ông H1 như sau:
- Ngày 06/12/2017: vay thêm 50.000. 000 đồng, bằng giấy viết tay có chữ
viết và chữ ký của bà M, không thỏa thuận thời hạn vay, không thỏa thuận lãi
suất vay, mục đích vay theo bà M là để bà M trả tiền môi giới đất, khi vay không
thế chấp tài sản gì thêm, khoản vay này chưa trả tiền gốc và lãi.
- Ngày 27/01/2018: vay thêm 500.000.000 đồng bằng giấy viết tay có chữ
viết và chữ ký của bà M không thỏa thuận thời hạn vay, không thỏa thuận lãi
suất vay, mục đích vay theo bà M là để bà M đặt cọc tiền đất, khi vay không thế
chấp tài sản gì thêm, khoản vay này chưa trả tiền gốc và lãi.
- Ngày 13/09/2018: vay thêm 270.000.000 đồng bằng giấy viết tay có chữ
viết và chữ ký của bà M, hai bên không thỏa thuận thời hạn vay, không thỏa
thuận lãi suất vay, mục đích vay bà M không nói, khi vay không thế chấp tài sản
gì thêm, khoản vay này chưa trả tiền gốc và lãi.
- Ngày 22/10/2018, do bà M cần tiền nên bà M đã chuyển nhượng cho
ông H1 thửa đất số 589, tờ bản đồ 21 với giá 450.000.000 đồng (bà D đã làm
giấy xác nhận tài sản riêng của ông H1). Do đó, vợ chồng bà M đã ký văn bản
hủy hợp đồng chuyển nhượng QSD đất ký năm 2017 và ký 2 hợp đồng chuyển
nhượng QSD đất đối với thửa đất số 588 và 589 tờ bản đồ 21 xã S tại Văn phòng
công chứng C.
Đối với việc chuyển nhượng thửa đất số 589 tờ bản đồ 21 xã S thì ngoài
việc các bên ký hợp đồng chuyển nhượng tại Văn phòng công chứng C bà M
còn viết giấy tay ngày 24/10/2018 với nội dung bà M đồng ý bán cho ông H1
thửa đất số 589 tờ bản đồ 21 xã S. Thửa đất này ông H1 đã cập nhật sang tên cho
ông H1 ngày 23/11/2018.
Năm 2019, ông H1 đã chuyển nhượng thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21,
tọa lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho bà Trần Lê Mỹ L1.
- Ngày 27/12/2019: vay thêm 50.000.000 đồng bằng giấy viết tay có chữ
viết và chữ ký của bà M, hai bên không thỏa thuận thời hạn vay, không thỏa
thuận lãi suất vay, mục đích vay bà M không nói, khi vay không thế chấp tài sản
gì thêm, khoản vay này chưa trả tiền gốc và lãi.
- Ngoài ra bà M còn vay thêm số tiền 57.500.000 đồng, hai bên không
thỏa thuận thời hạn vay, không thỏa thuận lãi suất vay, mục đích vay bà M
không nói, khi vay không thế chấp tài sản gì thêm, khoản vay này chưa trả tiền
gốc và lãi.
Riêng đối với thửa đất số 588, tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại xã S mục đích
ký hợp đồng chuyển nhượng là để đảm bảo khoản vay trước đó, vì vậy ông H1
không sang tên cho ông H1.
Tất cả số tiền ông H1 đưa cho bà M, ông P vay là tài sản chung của ông
H1 và bà D. Tổng cộng bà M đã vay ông H1 và bà D số tiền là 1.327.500.000
10
đồng. Đến nay ông P, bà M vẫn chưa trả số tiền gốc và tiền lãi. Bà D đồng ý với
toàn bộ trình bày, yêu cầu của ông H1. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.
3.4. Văn phòng Công chứng C trình bày:
Việc văn phòng công chứng 02 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa bà Chắng Bạt M, ông Nhĩn A P với ông Nguyễn Tiến H1 đối với 02
thửa đất số 588, 589, số công chứng 5150 ngày 22/10/2018 và số công chứng
1109 ngày 18/10/2018 là đúng trình tự công chứng, thủ tục công chứng, đối
tượng hợp đồng, đúng quy định pháp luật về công chứng hợp đồng giao dịch. Đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
3.5. Văn phòng công chứng T trình bày:
Ngày 19/6/2023 Văn phòng công chứng T tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công
chứng Hợp đồng tặng cho QSD đất giữa ông Nguyễn Tiến H1 và bà Trần Lê Mỹ
L1. Người yêu cầu công chứng đã nộp các giấy tờ liên quan kèm theo. Công
chứng viên khi tiếp nhận đã kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng.
Hướng dẫn ghi phiếu yêu cầu công chứng, giải thích cho người yêu cầu công
chứng hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc
tham gia hợp đồng giao dịch. Người yêu cầu công chứng đã đọc lại Hợp đồng,
đồng ý ký tên. Công chứng viên thực hiện công chứng Hợp đồng tặng cho QSD
đất số 1343, quyển số 06/2023TP/CC-SCC/HĐGD theo đúng quy định của pháp
luật. Việc giao kết Hợp đồng tặng cho QSD đất số 1343, quyển số
06/2023TP/CC-SCC/HĐGD là hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, không bị
ép buộc. Chủ thể tham gia ký hợp đồng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Văn
phòng công chứng T đề nghị Tòa án xem xét theo quy định.
4. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Chắng Bạt
M về việc “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với ông
Nguyễn Tiến H1:
1.1. Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nhĩn A
P, bà Chắng Bạt M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất số 588, tờ bản đồ
số 21, tọa lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng 5150,
quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 là vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn Tiến H1 trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BC 834893 cấp ngày 19/8/2011 đối với thửa đất số 588, tờ bản đố số 21, tọa lạc
tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M.
1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Chắng Bạt M về tuyên
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt
M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại
xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng 5151, quyển số 02TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 là vô hiệu. Không chấp nhận yêu cầu của bà

11
Chắng Bạt M về huỷ chỉnh lý đăng ký biến động thửa đất số 589, tờ bản đồ số
21, toạ lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
1.3. Không chấp nhận yêu cầu của bà Chắng Bạt M về tuyên hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Tiến H1 với bà Trần Lê Mỹ L1
đối với thửa đất số 589, tờ bản đố số 21, tọa lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu số công chứng 1343 ký ngày 19/6/2023 tại Văn phòng công chứng T
là vô hiệu.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về tranh chấp “Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Hợp đồng vay tài sản”.
2.1. Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nhĩn A
P, bà Chắng Bạt M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất số 589, tờ bản đồ
số 21, tọa lạc tại xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng 5151,
quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 có hiệu lực pháp luật.
2.2. Buộc bà Chắng Bạt M ông Nhĩn A P trả cho ông Nguyễn Tiến H1 bà
Hồ Thị Cẩm D số tiền nợ gốc là 450.000.000 và lãi suất là 176.040.000 đồng.
Tổng cộng 626.040.000 (Sáu trăm hai mươi sáu triệu, không trăm bốn mươi
nghìn đồng).
2.3. Buộc bà Chắng Bạt M trả cho ông Nguyễn Tiến H1, bà Hồ Thị Cẩm
D số tiền gốc 877.000.000 (Tám trăm bảy mươi bảy triệu đồng).
2.4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Tiến H1 về buộc
ông Nhĩn A P trả cho ông H1, bà D số tiền 877.000.000 (Tám trăm bảy mươi
bảy triệu đồng).
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
bà Trần Lê Mỹ L1 về “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”.
Tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Tiến H1
với bà Trần Lê Mỹ L1 đối với thửa đất số 589, tờ bản đố số 21, tọa lạc tại xã S,
thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu số công chứng 1343 ký ngày 19/6/2023 tại Văn
phòng công chứng T có hiệu lực pháp luật
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và
quyền kháng cáo.
5. Nội dung kháng cáo:
Ngày 13 tháng 8 năm 2024, Tòa án nhân dân thị xã P nhận được đơn
kháng cáo của nguyên đơn bà Chắng Bạt M và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan ông Nhĩn A P kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm
sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, bác yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
6. Tại phiên tòa phúc thẩm:

12
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn giữ nguyên yêu
cầu phản tố; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Lê Mỹ L1 giữ
nguyên yêu cầu độc lập; người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các
bên đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án và không cung cấp
tài liệu, chứng cứ mới.
7. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán,
thành viên Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 308,
Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự; chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Chắng
Bạt M và ông Nhĩn A P; sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 39/2024/DS-
ST ngày 31/7/2024 của Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu theo
hướng: Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nhĩn A
P, bà Chắng Bạt M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất số 589, tờ bản đồ
số 21, tọa lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng 5151,
quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 bị vô hiệu và tuyên bố hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất với thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc xã
S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 19/6/2023 giữa ông Nguyễn Tiến H1
và bà Trần Lê Mỹ L1 bị vô hiệu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội
đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của bà Chắng Bạt M và ông Nhĩn A P đảm bảo đúng
thủ tục, nội dung và nộp trong thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của
Bộ luật Tố tụng dân sự nên hợp lệ; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận xem
xét lại bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Xét sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Các đương sự vắng
mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng
mặt hoặc thuộc trường hợp vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không vì sự kiện
bất khả kháng hay trở ngại khách quan, nên căn cứ vào Điều 296 Bộ luật Tố
tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Chắng Bạt M và ông Nhĩn A P thì
thấy:
[2.1] Về khoản tiền vay và trách nhiệm thanh toán nợ:
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện ủy quyền của bà Chắng Bạt M và
ông Nhĩn A P xác nhận đúng số tiền vay và trách nhiệm trả nợ như nội dung bản

13
án sơ thẩm đã tuyên; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử buộc bà Chắng Bạt
M, ông Nhĩn A P trả cho ông Nguyễn Tiến H1, bà Hồ Thị Cẩm D số tiền
626.040.000 đồng (trong đó xác định số tiền nợ gốc là 450.000.000 đồng và tiền
lãi suất là 176.040.000 đồng) và buộc bà Chắng Bạt M trả cho ông Nguyễn Tiến
H1, bà Hồ Thị Cẩm D số tiền nợ gốc 877.000.000 (Tám trăm bảy mươi bảy triệu
đồng) là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
Do đó, nội dung kháng cáo của bà M đối với khoản tiền vay và trách
nhiệm trả nợ là không có căn cứ để chấp nhận.
[2.2] Xét nội dung kháng cáo của bà Chắng Bạt M và ông Nhĩn A P về
yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà Chắng Bạt M, ông Nhĩn A P với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất
589, tờ bản đồ 21 toạ lạc xã S, thị xã P:
[2.2.1] Ngày 24/10/2017, tại Văn phòng Công chứng C, ông P bà M ký
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng các thửa đất số 588 và 589 cho ông
Nguyễn Tiến H1 cùng vợ là bà Hồ Thị Cẩm D. Đây cũng là ngày ông H1 cho bà
M ông P vay số tiền 400.000.000 đồng theo Giấy vay tiền lập ngày 24/10/2017
mà bà M và ông H1 cùng cung cấp cho Tòa án.
Đến ngày 22/10/2018, tại Văn phòng Công chứng C, ông P bà M và ông
Nguyễn Tiến H1 đã ký Văn bản hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 24/10/2017 và ký 02 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
công chứng 5150 và 5151 đối với các thửa đất số 588 và 589, tờ bản đồ 21 toạ
lạc xã S, thị xã P.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M
với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất số 588, tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại xã
S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng 5150, quyển số 02TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 là vô hiệu do giả cách (mục đích chỉ nhằm đảm
bảo cho khoản vay). Các đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không
kháng nghị, do đó có hiệu lực pháp luật.
[2.2.2] Xét tính có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số công chứng 5151, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 đối
với thửa đất số 589, tờ bản đồ 21 toạ lạc xã S, thị xã P thì thấy:
Tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 24/10/2017 giữa bà
Chắng Bạt M, ông Nhĩn A P với ông Nguyễn Tiến H1, bà Hồ Thị Cẩm D số
công chứng 3292 quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng C
thể hiện giá chuyển nhượng là 100.000.000 đồng và đến ngày 22/10/2018, các
bên hủy hợp đồng số 3292 để ký tách ra thành 02 hợp đồng chuyển nhượng cho
từng thửa đất riêng biệt cũng chỉ thể hiện giá chuyển nhượng thửa đất số 588 tờ
bản đồ 21 xã S là 30.000.000 đồng và thửa đất số 589 tờ bản đồ 21 xã S là
70.000.000 đồng. Như vậy việc ký hợp đồng chuyển nhượng năm 2017 và 2018
thì giá trị chuyển nhượng ghi trong hợp đồng đối với 2 thửa đất trên là không
thay đổi.
14
Ông Nguyễn Tiến H1 cho rằng: giá chuyển nhượng thửa đất số 589 ghi
trong hợp đồng là 70.000.000 đồng, nhưng giá thực tế là 450.000.000 đồng. Tuy
nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông H1 không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ chứng minh về giá chuyển nhượng thửa đất, do đó, không có căn
cứ để xác định giá chuyển nhượng thửa đất là 450.000.000 đồng như ông H1
trình bày. Ông H1 cũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ để làm căn cứ
xác định ông H1 đã thanh toán cho bà M số tiền chuyển nhượng 450.000.000
đồng.
Đồng thời, đến thời điểm ngày 22/10/2018, số tiền nợ của bà M, ông P đối
với ông H1 đã lên tới hơn 1.200.000.000 đồng, trong khi đó, số nợ chưa được
thanh toán cả gốc và lãi; nhưng ông H1 vẫn tiếp tục bỏ ra thêm 450.000.000
đồng để nhận chuyển nhượng thửa đất 589 là không phù hợp. Bởi lẽ, năm 2017,
chỉ với khoản vay 400.000.000 đồng nhưng ông H1 đã yêu cầu bà M, ông P thế
chấp cả 02 thửa đất số 588 và 589. Nếu theo như ông H1 trình bày rằng hai bên
đã chuyển nhượng thửa 589 và giao nhận tiền đầy đủ thì tài sản bà M, ông P thế
chấp chỉ còn thửa 588 với giá trị thấp hơn rất nhiều lần so với thửa 589 nhưng
lại đảm bảo cho khoản vay lớn là không phù hợp với thực tế. Ông H1 cũng
không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh là bà M, ông P đã giao đất
trên thực tế cho ông H1.
Mặt khác, ngày 22/10/2018, các bên đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng
thửa 589, nhưng đến này 24/10/2018, bà M lại viết giấy tay có nội dung: “Tôi
đồng ý bán cho anh Nguyễn Tiến Hải thửa đất số 589”. Như vậy, có thể thấy
hợp đồng chuyển nhượng ngày 22/10/2018 không nhằm mục đích là giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, các đương sự đều xác nhận: năm 2017, vợ chồng bà M ký hợp
đồng chuyển nhượng 02 thửa đất số 588, 589 cho ông Nguyễn Tiến H1, bà Hồ
Thị Cẩm D chỉ nhằm đảm bảo cho khoản vay 400.000.000 đồng. Nhưng đến này
18/10/2018, chính ông H1 và bà D lại làm văn bản thỏa thuận về tài sản riêng vợ
chồng đối với 02 thửa đất 588, 589 (thời điểm này hai thửa đất vẫn thuộc quyền
sử dụng hợp pháp của bà M, ông P) xác định nguồn gốc đất do nhận chuyển
nhượng và xác định tài sản này là tài sản riêng của ông H1. Do đó, có căn cứ để
xác định chính ông H1, bà D có ý thức hợp thức hóa quan hệ vay của vợ chồng
bà M, ông P sang quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Đồng thời, bà M, ông P chứng minh được có việc vay mượn tiền của ông
H1, có việc thế chấp quyền sử dụng đất thửa 588, 589 cho ông H1 để đảm bảo
cho khoản vay.
Từ những phân tích trên, có căn cứ xác định: Ông H1 không chứng minh
được giá trị chuyển nhượng của thửa đất 589 là bao nhiêu. Ông H1 không cung
cấp được có việc giao số tiền chuyển nhượng là 450.000.000 đồng như lời trình
bày của ông H1. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm có cơ sở để xác định: Ông
H1 và bà M, ông P ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công
chứng 5151, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 đối với thửa đất

15
số 589, tờ bản đồ 21 toạ lạc xã S, thị xã P chỉ nhằm mục đích đảm bảo cho số
tiền vay giữa các bên, không phải là giao dịch chuyển nhượng thật. Căn cứ vào
khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Khi các bên xác lập giao
dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch dân sự khác thì giao
dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường
hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của bộ luật này và bộ luật khác có
liên quan” thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nhĩn A P,
bà Chắng Bạt M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với quyền sử dụng đất thửa đất số
589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại xã S, huyện Tân Thành (nay là thị xã P), tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu được công chứng tại Văn phòng Công chứng C, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu vào ngày 22/10/2018, số công chứng 5151, quyển số 02TP/CC -
SCC/HĐGD là vô hiệu do giả tạo. Đồng thời, giao dịch thế chấp quyền sử dụng
đất thửa đất số 589 cũng bị vô hiệu do không đảm bảo quy định của pháp luật về
thế chấp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất.
Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng số 5151 có hiệu
lực pháp luật là không có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận
yêu cầu kháng cáo này của bà M, ông P; sửa bản án sơ thẩm, theo hướng chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà M, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với
thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
số công chứng 5151, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn Tiến H1, bà Trần Lê Mỹ L1 trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BC 834893 do UBND huyện Tân Thành (nay là thị xã P) cấp ngày
19/8/2011 đối với thửa đất số 589, tờ bản đố số 21, tọa lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu cho ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M.
[3] Xét tính có hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất với thửa
đất số 589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số
công chứng 1343, quyển số 06/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/6/2023 giữa
ông Nguyễn Tiến H1 và bà Trần Lê Mỹ L1:
Ngày 14/6/2023, Tòa án nhân dân thị xã P nhận được đơn khởi kiện của
bà Chắng Bạt M khởi kiện ông Nguyễn Tiến H1 về tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất với thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc xã S.
Đến ngày 19/6/2023, ông H1 ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa số
589 cho bà Trần Lê Mỹ L1 tại Văn phòng công chứng T. Như vậy, thửa đất 589
tờ bản đồ số 21 đang bị tranh chấp nên không đủ điều kiện để chuyển nhượng
theo quy định tại Điều 188 Luật Đất đai năm 2013. Đến nay, bà L1 vẫn chưa
được chỉnh lý sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định
của pháp luật. Đồng thời, ông H1, bà L1 cùng xác nhận: các bên thực hiện giao
dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ tháng 3 năm 2019, không phải là tặng
cho quyền sử dụng đất, việc ký kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất chỉ
nhằm mục đích sang tên cho bà L1. Do đó, có căn cứ để xác định hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất với thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc xã S, thị xã
P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng 1343, quyển số 06/2023TP/CC-
16
SCC/HĐGD ngày 19/6/2023 giữa ông Nguyễn Tiến H1 và bà Trần Lê Mỹ L1 bị
vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu độc lập của bà L1 để công nhận
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 1343 ngày 19/6/2023 có hiệu lực pháp
luật là không có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của bà M, ông P, sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên bố hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất với thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc xã S, thị
xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 19/6/2023 giữa ông H1 và bà L1 bị vô hiệu.
Theo ông H1 và bà L1: Ngày 19/3/2019, bà L1 và ông H1 ký hợp đồng
đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, giá
chuyển nhượng là 1.150.000.000 đồng. Đến ngày 17/4/2019, ông H1 và bà L1
ký hợp đồng ủy quyền, theo đó bà L1 được thay mặt ông H1 thực hiện quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với thửa đất 589. Ông H1 và bà L1 cùng xác
nhận số tiền chuyển nhượng đã thực hiện xong, đã tiến hành giao đất trên thực
địa. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Như đã phân tích ở trên, giao dịch chuyển nhượng đất giữa bà M, ông P
và ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất 589 bị vô hiệu, nên ông H1 không phải
là chủ sử dụng thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21. Việc ông H1 và bà L1 ký hợp
đồng đặt cọc chuyển nhượng thửa đất, nhưng chưa tiến hành ký giao kết hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên chưa làm phát sinh điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Đồng thời, tại văn bản
trình bày ý kiến ngày 23/12/2024 gửi Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
bà Trần Lê Mỹ L1 (do ông Thân Trọng T đại diện) có yêu cầu: Đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm hủy bỏ giao dịch chuyển nhượng giữa ông Nguyễn Tiến H1 và bà
Trần Lê Mỹ L1 và buộc ông H1 phải hoàn trả lại số tiền đã nhận và khoản tiền
lãi suất 10%. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa bà L1 và ông H1 thông qua việc công nhận hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng giữa bà L1 và ông H1 có hiệu lực pháp luật là không
phù hợp.
[4] Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bà L1 và ông H1
không có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất ngày 19/6/2023 bị vô hiệu và không yêu cầu trách nhiệm hoàn trả, bồi
thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 17/4/2019 nên Tòa án cấp phúc thẩm không có căn cứ để giải quyết.
Trường hợp, nếu xét thấy quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì bà L1, ông
H1 được quyền khởi kiện bằng vụ án khác.
[5] Các nội dung khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị nên có hiệu lực pháp luật.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận và yêu cầu
phản tố của bị đơn được chấp nhận một phần nên các đương sự đều phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm; cụ thể:
17
Ông Nguyễn Tiến H1 phải chịu án phí sơ thẩm không có giá ngạch, tương
ứng số tiền 300.000 đồng.
Bà Chắng Bạt M và ông Nhĩn A P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với
khoản nợ 626.040.000 đồng phải trả cho bị đơn, tương ứng số tiền án phí phải
nộp là: 29.041.600 đồng. Tuy nhiên, ông Nhĩn A P là người cao tuổi, có đơn xin
miễn án phí nên Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí cho ông Nhĩn A P; nên bà
Chắng Bạt M phải chịu ½ số tiền án phí tương ứng số tiền: 14.520.800 đồng.
Bà Chắng Bạt M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với khoản nợ
877.000.000 đồng phải trả cho bị đơn, tương ứng số tiền án phí phải nộp là:
38.310.000 đồng.
Tổng số tiền án phí dân sự sơ thẩm bà M phải chịu là (14.520.800 đồng +
38.310.000 đồng) = 52.830.800 đồng.
Bà Trần Lê Mỹ L1 phải chịu án phí đối với yêu cầu độc lập của mình
không được Tòa án chấp nhận, mức án phí phải nộp không có giá ngạch tương
ứng số tiền 300.000 đồng.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận
nên bà Chắng Bạt M và ông Nhĩn A P không phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Chắng Bạt M và ông Nhĩn A P;
Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 31/7/2024
của Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu; cụ thể:
Áp dụng: Điều 272, 273, 296 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 116, Điều 117,
Điều 118, Điều 122, Điều 124, Điều 131, Điều 132, Điều 457, Điều 459, Điều
463, Điều 466, Điều 468, Điều 500, Điều 501, Điều 502 và Điều 503 Bộ luật
Dân sự năm 2015; Điều 167, Điều 168, Điều 169 và Điều 188 Luật Đất đai năm
2013; Điều 12, 26, 27 và 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Chắng Bạt M về việc
“Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn
Tiến H1;
1.1. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất số 588, tờ
bản đồ số 21, tọa lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng
5150, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 bị vô hiệu.

18
1.2. Buộc ông Nguyễn Tiến H1 trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số BC 834893 do Ủy ban nhân dân huyện Tân Thành (nay là thị xã P) cấp ngày
19/8/2011 đối với thửa đất số 588, tờ bản đố số 21, tọa lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu cho ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M.
1.3. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nhĩn
A P, bà Chắng Bạt M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất số 589, tờ bản
đồ số 21, tọa lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng 5151,
quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 bị vô hiệu.
1.4. Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Tiến H1 và bà Trần Lê Mỹ L1 đối với thửa đất số 589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc
xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công chứng 1343, quyển số
06/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/6/2023 bị vô hiệu.
1.5. Buộc ông Nguyễn Tiến H1, bà Trần Lê Mỹ L1 trả lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CD 517413 do Ủy ban nhân dân huyện Tân Thành
(nay là thị xã P) cấp ngày 06/6/2016 đối với thửa đất số 589, tờ bản đố số 21, tọa
lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M.
Bà Chắng Bạt M, ông Nhĩn A P được quyền liên hệ cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền để thực hiện hủy kết quả đăng ký biến động trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và chỉnh lý biến động sang tên thửa đất số 589, tờ bản đố số
21, tọa lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho ông Nhĩn A P, bà Chắng
Bạt M theo quyết định của Bản án và quy định của pháp luật về đất đai.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về tranh chấp “Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng vay tài sản”;
2.1. Buộc bà Chắng Bạt M, ông Nhĩn A P trả cho ông Nguyễn Tiến H1,
bà Hồ Thị Cẩm D số tiền 626.040.000đ (Sáu trăm hai mươi sáu triệu, không
trăm bốn mươi nghìn đồng), trong đó: Nợ gốc là 450.000.000 đồng và lãi suất là
176.040.000 đồng.
2.2. Buộc bà Chắng Bạt M trả cho ông Nguyễn Tiến H1, bà Hồ Thị Cẩm
D số tiền nợ gốc 877.000.000đ (Tám trăm bảy mươi bảy triệu đồng).
2.3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Tiến H1 về buộc
ông Nhĩn A P trả cho ông H1 bà D số tiền 877.000.000đ (Tám trăm bảy mươi
bảy triệu đồng) và yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Nhĩn A P, bà Chắng Bạt M với ông Nguyễn Tiến H1 đối với thửa đất
số 589, tờ bản đồ số 21, tọa lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, số công
chứng 5151, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/10/2018 có hiệu lực pháp
luật.
3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Trần Lê Mỹ L1 về việc tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
giữa ông Nguyễn Tiến H1 với bà Trần Lê Mỹ L1 đối với thửa đất số 589, tờ bản
đố số 21, tọa lạc xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu số công chứng 1343 ký
ngày 19/6/2023 tại Văn phòng công chứng T có hiệu lực pháp luật.
19
4. Trường hợp xét thấy quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì bà
Trần Lê Mỹ L1, ông Nguyễn Tiến H1 được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án
giải quyết hậu quả của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 19/6/2023 bị
vô hiệu và trách nhiệm hoàn trả, bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng đặt
cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/4/2019 bằng vụ án dân sự khác.
5. Về chi phí tố tụng:
Chi phí giám định chữ ký, chữ viết là 15.000.000 đồng. Bà Chắng Bạt M
phải chịu toàn bộ chi phí này và đã nộp đủ.
Chi phí sao lục hồ sơ, xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là
6.225.640 đồng. Bà Chắng Bạt M phải chịu 3.112.820 đồng; ông Nguyễn Tiến
H1 phải chịu 3.112.820 đồng. Số tiền này nguyên đơn bà M đã nộp đủ nên
buộc bị đơn ông Nguyễn Tiến H1 phải trả lại cho bà M 3.112.820đ (Ba triệu
một trăm mười hai nghìn, tám trăm hai mươi đồng).
6. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Tiến H1 phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng);
được trừ vào tiền tạm ứng án phí là 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng) theo
biên lai thu tiền số 0003077 ngày 15/3/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị
xã P; nên ông H1 được hoàn trả lại số tiền là 17.700.000đ (Mười bảy triệu bảy
trăm nghìn đồng).
Bà Chắng Bạt M phải chịu số tiền 52.830.800đ (Năm mươi hai triệu tám
trăm ba mươi nghìn tám trăm đồng); được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là
300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0007247 ngày
21/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã P; nên bà Chắng Bạt M còn
phải nộp thêm số tiền án phí là 52.530.800 đồng (Năm mươi hai triệu năm trăm
ba mươi nghìn tám trăm đồng).
Miễn toàn bộ án phí cho ông Nhĩn A P.
Bà Trần Lê Mỹ L1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 300.000đ (Ba
trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm
nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0007318 ngày 10/7/2023 của Chi cục Thi
hành án dân sự thị xã P. Bà L1 đã nộp xong.
7. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Chắng Bạt M, ông Nhĩn A P không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Hoàn trả lại cho bà Chắng Bạt M số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003492 ngày 15/8/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Hoàn trả lại cho ông Nhĩn A P số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003491 ngày 15/8/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
20
8. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
trả cho bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với
thời gian chưa thi hành án.
9. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
21/01/2025).
10. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh BR-VT;
- TAND thị xã P;
- VKSND thị xã P;
- Chi cục THADS thị xã P;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa DS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Cao Xuân Long
21
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
CÁC THẦM PHÁN
Bùi Thị Thương Trịnh Hoàng Anh
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Cao Xuân Long
22
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm