Bản án số 14/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 14/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 14/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 14/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Võ Thị Nhật T; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 14/2025/DS-PT
Ngày: 16/01/2025.
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Trần Thị Kim Liên
Các Thẩm phán:
ông Đinh Phước Hoà
ông Phạm Ngọc Thái
- Thư phiên tòa: n Thị Mỹ Thảo, Thư Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: ông Văn
Thành, Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 16 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 220/2024/TLPT-DS
ngày 17/10/2024 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự thẩm số 22/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2024/QĐ-PT ngày 31 tháng 12
năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:Võ Thị Nhật T - sinh năm 1983.
Trú tại: thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Nguyễn Thị Thanh T1 -
sinh năm 1985; địa chỉ: B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi (văn bản uỷ quyền
ngày 14/01/2025). Có mặt.
2. Bị đơn: ông Trần Quốc A - sinh năm 1954.
Trú tại: thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Trần Thị H - sinh năm 1989
(văn bản uỷ quyền ngày 23/5/2022); địa chỉ: số A đường P, phường L, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Bà Võ Thị S - sinh năm 1954.
3.2. Ông Võ Nguyên B - sinh năm 1987.
Cùng trú tại: thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
3.3. Bà Phạm Thị L - sinh năm 1959.
3.4. Ông Trần Quốc H1 - sinh năm 1983.
3.5. Bà Trần Thị Bích H2 - sinh năm 1985;
Cùng cư trú tại: thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
3.6. Chị Trần Thị Bích T2 - sinh năm 1988;
Trú tại: số A Block N, chung H Â, phường T, quận T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
3.7. Chị Trần Thị Bích T3 - sinh năm 1991; cư trú tại số I 24.01 khối nhà
Iris 1 khu phức hợp HADO CENTROSA, số B đường C, phường A, quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người đại diện theo y quyền của chị Trần Thị Bích T2, chị Trần Thị
Bích T3: bà Trần Thị H - sinh năm 1989; địa chỉ: số A đường P, phường L,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (các văn bản ủy quyền cùng ngày 14/6/2023).
3.8. Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; địa chỉ: tổ dân phố D, thị
trấn C, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
- Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Tưởng D; chức vụ: Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt.
4. Người kháng cáo: nguyên đơn bà Võ Thị Nhật T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/01/2022, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Võ Thị Nhật T trình bày:
Hộ gia đình gồm mẹ bà Thị S, em trai Nguyên
B được Hợp tác nông nghiệp 1 B cấp cho thửa đất số 1027, tờ bản đồ số
12, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi vào năm 1993. Ngày 26/12/1998, Ủy ban
nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00438
QSDĐ 6671QĐ-UB(H) đối với thửa 1027 cho hộ Thị S. Thửa 1027 được
gia đình quản , sử dụng tkhi được cấp đất (năm 1993) cho đến nay, trên
đất hiện nay gia đình bà đang trồng cỏ sữa.
Ông Trần Quốc A cho rằng mẹ đã chuyển nhượng một phần thửa 1027
cho ông A vào năm 2003 nên yêu cầu vào hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất để ông A làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng
thực tế gia đình bà vẫn đang quản lý, sử dụng thửa 1027. hoàn toàn không
biết vviệc mẹ đã chuyển nhượng một phần thửa 1027 cho ông A. Năm
2019, ông A gửi đơn đến UBND B yêu cầu giải quyết tranh chấp thì khi đó
mẹ mới trình bày do trước đây mượn của ông A 5.000.000đồng nên mẹ
3
bà có nói bán cho ông A 80m
2
thuộc thửa 1027 với giá 15.000.000đồng, khi nào
ông A giao đủ tiền thì mẹ chị mới giao đất nhưng từ năm 2003 đến nay ông A
không giao đủ tiền cho mẹ (mới chỉ giao 5.000.000đồng, mẹ ghi giấy
nhận tiền giao cho ông A).
Qua sao lục hồ sơ tại Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Q - chi nhánh huyện
B thì phát hiện thửa 1027 hiện nay đang hai Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy chứng nhận
00641/2302/2003QĐ-UB(H) được UBND huyện B cấp cho bà S vào ngày
25/12/2003 đối với thửa đất s1107, tờ bản đồ số 43, B, diện tích 140m
2
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN 02222QSDĐ/số
41/CN/2003(H) do UBND huyện B cấp cho hộ ông Trần Quốc A vào ngày
12/6/2003 đối với thửa đất số 1088, tbản đồ số 16, B, diện tích 85m
2
cùng
với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Thị S ông Trần
Quốc A ký năm 2003 được Ủy ban nhân dân huyện B ký xác nhận.
Thửa 1027 có nguồn gốc là đất cấp cho hộ gia đình bà nhưng mẹ bà tự ý ký
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông A không có ý kiến của
trái với quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp
của em trai nên việc Ủy ban nhân dân huyện B xác nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên vào năm 2003 là không sở. Hơn
nữa, thửa 1027 từ trước đến nay đều do gia đình quản lý, sử dụng. Hiện nay
ông A vẫn chưa giao đủ tiền cho mẹ nên giao dịch dân sự giữa mẹ ông
A vẫn chưa hoàn thành. Nay gia đình bà không đồng ý chuyển nhượng một phần
thửa 1027 cho ông A. Do đó, yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bhợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/02/2003 được Ủy ban nhân dân
huyện B xác nhận ngày 24/3/2003 giữa Thị S với ông Trần Quốc A
hiệu; giải quyết hậu quả pháp lý đối với hợp đồng dân sự vô hiệu, gia đình bà sẽ
trả lại cho ông Trần Quốc A 5.000.000đồng, ông A trả lại đất cho gia đình bà và
giải quyết bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
* Tại các đơn xin trình bày sviệc đề ngày 02/3/2022, ngày 08/6/2022
đơn trình bày đề ngày 18/5/2024, các tài liệutại hồ sơ vụ án tại phiên tòa
sơ thẩm, bị đơn là ông Trần Quốc A do người đại diện theo ủy quyền là bà Trần
Thị H trình bày:
Vào năm 2003, vợ chồng ông Trần Quốc A và bà Phạm Thị L nhận chuyển
nhượng quyền sdụng diện tích 85m
2
đất, loại đất thuộc một phần thửa 1027
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00438 QSDĐ/667/QĐUB
(H) do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 26/12/1998 cho hộ Thị S với
giá trị chuyển nhượng 12.500.000đồng. Ngay khi kết Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số 41/CN vào ngày 18/02/2003, ông A đã giao đủ số
tiền 12.500.000đồng cho gia đình S, gia đình S đã nhận đtiền tại thời
4
điểm kết Hợp đồng (ngày 18/02/2003) S đã bàn giao 85m
2
đất thuộc
một phần thửa 1027 cho vchồng ông A quản lý, sử dụng, khai đăng cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa bà S ông A được UBND huyện B xác nhận vào ngày 24/3/2003.
Ngày 12/6/2003, hộ gia đình ông Trần Quốc A được UBND huyện B cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số X 136128 đối với thửa 1088, tờ bản đồ số 16,
xã B, diện tích 85m
2
.
S đã Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 41/CN vào
ngày 18/02/2003, gia đình bà S đã nhận đủ tiền và giao 85m
2
đất cho ông A nên
ông A yên tâm, tin tưởng là việc mua bán giữa hai bên đã thực hiện hoàn tất nên
ông A không yêu cầu S lập giấy nhận tiền. Do đó, hiện ông A không
chứng từ về việc giao nhận tiền giữa ông A và gia đình bà S. Hiện nay, vợ chồng
ông A vẫn đang người quản lý, sử dụng diện tích 85m
2
đất thuộc thửa 1027.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/02/2003 được Ủy ban
nhân dân huyện B xác nhận ngày 24/3/2003 giữa Thị S với ông Trần
Quốc A đúng quy định pháp luật. vậy, ông A không đồng ý với nội dung
khởi kiện của Thị Nhật T yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 18/02/2003 được Ủy ban nhân dân huyện B xác nhận
ngày 24/3/2003 giữa bà Võ Thị S với ông Trần Quốc A là vô hiệu.
Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của T thì ông A yêu
cầu Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu. Cụ thể: gia đình bà
S phải trả lại cho ông Trần Quốc A số tiền đã nhận 12.500.000đồng; đồng
thời gia đình S phải bồi thường thiệt hại cho vợ chồng ông A số tiền chênh
lệch giá trị quyền sử dụng 85m
2
đất từ thời điểm giao dịch (năm 2003) đến thời
điểm hiện nay 428.643.881đồng (441.143.882 đồng - 12.500.000đồng) theo
chứng thư thẩm định gsố CTĐNQNG0010923 ngày 07/12/2023 do Công ty
TNHH T6 cung cấp và bồi thường số tiền trị giá khối lượng đất do ông A đổ đất
để nâng nền là 5.515.650đồng. Như vậy, tổng số tiền bồi thường thiệt hại mà gia
đình bà T phải trả cho vợ chồng ông A là 434.159.531đồng .
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Võ Thị S trình bày: bà thống nhất với yêu cầu khởi kiện củaVõ Thị
Nhật T. Về nguồn gốc thửa 1027 là đất do Hợp tác xã nông nghiệp xã B cấp cho
hộ gia đình vào năm 1993. Tài liệu chứng cứ thể hiện Hợp tác nông
nghiệp xã B cấp thửa 1027 cho hộ gia đình bà thì hiện nay bà không còn lưu giữ.
Năm 1998, hộ gia đình được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, tại thời điểm Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ gia đình bà thì hộ gia đình bà có 03 người là bà và các con Võ Thị Nhật T,
Võ Nguyên B.
Ngày 18/02/2003, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
5
cho ông Trần Quốc A diện tích 85m
2
thuộc một phần thửa 1027, giá chuyển
nhượng là 15.000.000đồng. Khi bà chuyển nhượng một phần thửa 1027 cho ông
A thì các con của không biết lúc đó T đang học lớp kỹ thuật chế biến
mủ cao su tại tỉnh Bình Phước, không nhà, còn ông B lúc đó còn nhỏ đang
học cấp 2 tại xã B.
Theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất ngày 18/02/2003 giá
chuyển nhượng ghi trong hợp đồng 4.000.000đồng do ông A tự ghi khi làm
thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông A, tại thời điểm năm
2003 giá đất tại khu vực này khoản 15.000.000đồng. Ông A trình bày ông
A thỏa thuận giá chuyển nhượng là 12.500.000đồng, ông A đã thanh toán cho bà
12.500.000đồng không đúng giá chuyển nhượng 15.000.000đồng.
không tài liệu, chứng cứ về việc hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng là
15.000.000đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng ông A đã thanh toán cho hai
lần, lần thứ nhất 5.000.000đồng lần thứ hai 3.000.000đồng, tổng cộng
ông A đã thanh toán cho bà 8.000.000đồng, ông A còn nợ 7.000.000đồng. Bà sử
dụng số tiền bán đất cho ông A để chữa bệnh cho cha bà là cụ Võ T4 - sinh năm
1927.
Sau khi chuyển nhượng một phần thửa 1027 cho ông A thì ông A đổ
đất trên phần diện tích đất hiện nay tranh chấp, còn khối lượng đất đổ bao nhiêu
thì không rõ. Lúc ông A đổ đất thì không biết. Sau khi nhận chuyển
nhượng, ông A không quản lý, sử dụng diện tích đất này do quản lý, sử
dụng, bà chưa giao đất cho ông A. Hiện nay ông A đã được UBND huyện B cấp
Giấy chứng nhận đối với thửa 1088 nhưng diện tích 85m
2
cấp cho ông A đã cấp
chồng lên diện tích đất 140m
2
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
năm 2003 đối với thửa 1107 của gia đình bà.
- Ông Nguyên B trình bày: ông thống nhất với nội dung khởi kiện của
T. Năm 1998, gia đình ông được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa 1027, diện tích 200m
2
. Thửa 1027 tài sản
chung của hộ gia đình ông gồm 03 người Thị S, chị Thị Nhật T
ông. Ngày 18/02/2003, mẹ ông chuyển nhượng diện tích 85m
2
tại thửa 1027
cho ông Trần Quốc A, lúc đó ông còn nhỏ, đang đi học nên không biết việc mẹ
ông chuyển nhượng cho ông A. Mục đích mẹ ông chuyển nhượng đất cho ông A
để lấy tiền chữa bệnh cho ông ngoại ông chứ không phải dùng tiền để lo cho
ông ăn học và chi phí trong gia đình.
- Phạm Thị L trình bày: không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn Thị Nhật T. Chồng ông Trần Quốc A nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng 85m
2
, loại đất thuộc thửa 1027 của Thị
S. Ngay sau khi Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được UBND xã B
chứng thực vào ngày 06/3/2003 thì chồng bà đã giao đủ tiền mua đất cho bà S là
6
4.000.000đồng S đã giao diện tích 85m
2
thuộc thửa 1027 cho chồng bà.
Sau đó, hộ gia đình được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số X 136128 đối với thửa đất số 1088, tờ bản đồ số 16, diện tích 85m
2
,
loại đất T, thời hạn sử dụng đất lâu dài, tại B, huyện B. Mặc dù, UBND
huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình nhưng
quyền quản lý, sử dụng thửa 1088 do vợ chồng tạo lập, nhận chuyển
nhượng trong thời kỳ hôn nhân. vậy, các con của Trần Quốc H1, Trần
Thị Bích H2, Trần Thị Bích T2Trần Thị Bích T3 có tên trong sổ hộ khẩu vào
thời điểm ngày 12/6/2003 nhưng không có quyền lợi liên quan gì đến thửa 1088.
Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chồng Thị S đã được
lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, được UBND B chứng thực
vào ngày 06/3/2003, chồng đã giao đủ tiền, S đã giao đất cho chồng bà.
Như vậy, việc chuyển nhượng đã được thực hiện hoàn tất, chồng đã quản lý,
sử dụng liên tục thửa 1088 nêu trên tngày 18/02/2003, nhiều lần tiến hành đổ
đất, san ủi mặt bằng thửa 1088 để có hiện trạng như hiện nay.
- Trần Thị ch H2, ông Trần Quốc H1, Trần Thị Bích T3, Trần
Thị B1 trình bày: các ông, được biết cha các ông, ông Trần Quốc A
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng 85m
2
, loại đất ở thuộc thửa 1027 của bà
Thị S. Ngay sau khi Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được UBND
xã B chứng thực vào ngày 06/3/2003 thì cha các ông, bà đã giao đủ tiền mua đất
cho S là 4.000.000đồng S đã giao diện tích 85m
2
thuộc thửa 1027 cho
cha các ông, bà. Ngày 12/6/2003, hộ gia đình các ông, được UBND huyện B
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 136128, số vào sổ 02222
QSDĐ/số 41/CN/2003 đối với thửa đất số 1088, tờ bản đồ số 16, diện tích 85m
2
,
loại đất T, thời hạn sử dụng đất lâu dài, tại B, huyện B. Mặc Giấy chứng
nhận quyền sdụng đất thể hiện cấp cho hộ nhưng quyền sử dụng thửa 1088
của cha, mẹ các ông, bà. Các ông, không liên quan đến quyền sử dụng
thửa 1088.
- Ủy ban nhân dân huyện B cung cấp thông tin như sau: Thị S được
UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số
1027, tờ bản đồ số 12, diện tích 200m
2
, loại đất ở nông thôn, có số vào sổ 00438
QSDĐ/667/QĐ-UB(H) cấp ngày 26/12/1998. Về nguồn gốc thửa 1027 do
UBND B cấp cho S vào năm 1994. Thửa 1027 Nhà nước không cân đối
theo Nghị định 64-CP cho hộ bà Võ Thị S.
Vào ngày 18/02/2003, bà S chuyển nhượng một phần diện tích đất 85m
2
tại
thửa 1027 cho ông Trần Quốc A, được UBND B xác nhận ngày 06/3/2003,
Phòng Địa chính ng nghiệp phát triển nông thôn huyện xác nhận ngày
21/3/2003 UBND huyện xác nhận ngày 24/3/2003. Tuy nhiên, trong hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi nhầm thửa đất số 1027, tờ bản đồ số
7
16, B (thực tế không có thửa đất số 1027, tờ bản đồ số 16, B). Ngày
12/6/2003, UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông
A tại thửa đất số 1088 (thửa đất thêm), tờ bản đồ s16 (do hợp đồng chuyển
nhượng quyền sdụng đất ghi sai tờ bản đồ), diện tích 85m
2
, số phát hành: X
136128, vào số cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02222/QSDĐ/s
41/CN/2003(H). Trên địa bàn xã B, theo kiểm tra hồ sơ địa chính xã B thì không
có thửa đất nào số 1027, tờ bản đồ số 16.
Năm 2003, B đo đạc biên tập bản đồ mới, cho đăng ký cấp mới lại Giấy
chứng nhận theo diện tích đo mới. Thửa 1027 được bà Võ Thị S đăng ký cấp đổi
lại thành thửa đất số 1107, tờ bản đồ số 43, diện tích 140m
2
, số vào sổ:
00641/2302/2003QĐ-UB(H) do UBND huyện B cấp ngày 25/12/2003. Theo
quy định pháp luật, S chỉ được đăng ký cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với phần đất còn lại của thửa 1027 sau khi đã chuyển nhượng cho
ông A nhưng bà S đã đăng cả phần đất đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho ông A nên việc cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho S là
không đảm bảo quy định pháp luật.
Về nguyên nhân sự biến động giảm diện tích đất: theo bản đồ 299/TTg
đối với thửa 1027, diện tích 200m
2
, tờ bản đồ số 12, B diện tích đất theo
bản đồ 2003 đối với thửa đất 1107, diện tích 140m
2
, tờ bản đồ số 43, B do
S hai thửa đất liền kề thửa đất 1027 (bản đồ 2003 thửa đất 1107)
thửa đất 693 (theo bản đ2003 thửa đất 1158). Trong quá trình sử dụng đất
S có thay đổi mốc giới 02 thửa đất này nên tại thời điểm chỉnh lý bản đồ năm
2003 đo đạc theo hiện trạng thửa đất đồng thời bản đồ 2003 chừa con đường
đi nên tách thửa đất 1107 với thửa 1158 so với bản đồ 299/TTg.
Do đó, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được UBND huyện B
cấp ngày 12/6/2003 cho hộ ông Trần Quốc A tại thửa đất số 1088, bản đồ số 16,
diện tích 85m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phát hành số: X
136128, so sổ cấp GCN số 02222/QSDĐ/số 41/CN/2003(H) việc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất được UBND huyện B cấp ngày 25/12/2003 cho
hộ Thị S tại thửa đất số 1107, tờ bản đồ số 43, diện tích 140m
2
theo Giấy
chứng nhận số vào sổ: 00641/2302/2003 -UB(H) không đúng theo quy
định tại mục 3 phần II Thông số 304/TT-ĐKTK, ngày 28/10/1989 của T7;
mục IV.1 mục IV phần I Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC, ngày 16/3/21998 của
Tổng Cục địa chính Điều 106 của Luật Đất đai 2013. vậy, đề nghị Tòa án
xem xét việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông A đối với thửa
đất số 1088, tờ bản đồ s16, B của bà S đối với thửa đất số 1107, tờ bản
đồ số 43 xã B đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sthẩm số 22/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:
8
Áp dụng Điều 26, Điều 34, Điều 37, Điều 44, khoản 1 Điều 147, khoản 1
Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 217, Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều
271, Điều 273 của Bluật Tố tụng Dân sự; các Điều 131, 132, 133, khoản 2
Điều 400, Điều 691, 692, 693, 694, 695 của Bộ luật Dân sự năm 1995; Điều 3,
Điều 30, Điều 31, khoản 2 Điều 75 của Luật Đất đai năm 1993; Điều 8, 10, 11
Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ quy định về thủ
tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng
đất thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; các Điều 26, 27 Nghị
quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị
Thị Nhật T về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng
đất ngày 18/02/2003 được Ủy ban nhân dân huyện B xác nhận ngày 24/3/2003
giữa Thị S với ông Trần Quốc A hiệu yêu cầu giải quyết hậu quả
của hợp đồng vô hiệu.
2. Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 136128, số vào sổ
cấp Giấy chứng nhận số 02222/QSDĐ/số 41/CN/2003 (H) do Ủy ban nhân dân
huyện B cấp ngày 12/6/2003 cho hộ ông Trần Quốc A đối với thửa đất số 1088,
bản đồ số 16, diện tích 85m
2
, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy
chứng nhận 00641/2302/2003QĐ-UB (H) do Ủy ban nhân dân huyện B cấp
ngày 25/12/2003 cho hThị S đối với thửa đất số 1107, tờ bản đồ số 43,
diện tích 140m
2
, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
4. Các đương sự quyền, nghĩa vụ liên hvới các quan Nhà nước
thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký kê khai quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật về đất đai.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, trách
nhiệm thi hành án và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 06/8/2024, nguyên đơn bà Thị Nhật T kháng cáo ngày
19/8/2024 đơn kháng cáo sửa đổi, bổ sung với nội dung: kháng cáo toàn bộ
bản án thẩm. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm tuyên hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 18/02/2003 giữa bà Thị S với ông Trần Quốc A
hiệu, giải quyết hậu quả pháp của giao dịch dân sự vô hiệu. T không đồng
ý với kết quả định giá và không đồng ý chịu tiền chi phí tố tụng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Thị Nhật T giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, vphần
9
thủ tục tố tụng giai đoạn xét xử phúc thẩm đảm bảo đúng quy định của pháp
luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà
Thị Nhật T, giữ nguyên Bản án thẩm số 22/2024/DS-ST ngày 25/7/2024
của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn Thị Nhật T, Hội đồng
xét xử thấy:
[1.1] Nguồn gốc thửa đất số 1027, tờ bản đồ số 12, diện tích 200m
2
, toạ lạc
tại B: ngày 22/7/1993, bà Thị S đơn xin đất làm nhà, được Hợp tác
N Ủy ban nhân dân B đơn xác nhận thống nhất cấp cho S diện tích
300m
2
, S phải nộp lệ phí 115.000đồng, trong đó đất 84.000đồng, lệ phí
giao đất 31.000đồng. Thời điểm này, Thị Nhật T mới 10 tuổi, ông
Nguyên B mới 06 tuổi. Tại Biên bản làm việc ngày 12/9/2022, Ủy ban nhân dân
B Ủy ban nhân dân huyện B đều xác định nguồn gốc thửa đất này do Ủy
ban nhân dân B cấp cho nhân Thị S, Nhà nước không cân đối theo
Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ cho hộ Thị S. Ngoài ra,
S cũng xác nhận: khi Nhà nước cấp đất cho thì không có chồng, nguồn
tiền để bà nộp lệ phí quyền sử dụng đất là do quá trình làm ăn bà tích góp và bán
có, lúc đó các con của bà còn nhỏ không đóng góp . Ngày
26/12/1998, Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số L 360436 cho hộ Thị S đối với thửa đất số 1027, tờ bản đồ số 12, diện
tích 200m
2
, loại đất T, B, huyện B. Theo Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất
ngày 22/8/2003 đối với thửa 1107 do bà Thị S lập tại phần khai nguồn
gốc sử dụng đất S ghi “UBND cấp năm 1994”. Toà án cấp sơ thẩm xác
định thửa đất số 1027 đất được Nhà nước cấp cho nhân Thị S
căn cứ. Do đó, Thị Nhật T cho rằng thửa đất số 1027, tờ bản đồ số 12 cấp
cho hộ bà Võ Thị S là không có cơ sở chấp nhận.
[1.2] Ngày 18/02/2003, giữa Thị S với ông Trần Quốc A Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 41/CN, diện tích 85m
2
thuộc một
phần thửa đất số 1027, tờ bản đồ số 16, giá chuyển nhượng 4.000.000đồng,
chứng thực của Ủy ban nhân dân B ngày 06/3/2003, Phòng Địa chính nông
nghiệp Phát triển nông thôn huyện B xác nhận ngày 21/3/2003 được Ủy
ban nhân dân huyện B xác nhận vào ngày 24/3/2003. Các bên lập Biên
bản kiểm tra hiện trường địa điểm xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác
định giới cận các cạnh, kết luận “kết quả kiểm tra trùng khớp hồ đã lập, trên
đất không tài sản, đủ điều kiện cho phép CQSD đất 85 mét vuông” lập
Trích lục bản đồ địa chính vị trí xin chuyển quyền sử dụng đất theo Hợp đồng
10
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 41. Hợp đồng được lập theo mẫu hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ban hành kèm theo Thông tư số
1883/TT-TCĐC ngày 12/11/2001, chứng thực của UBND các cấp, phù hp
với quy định tại khoản 2 Điều 400 của Bộ luật Dân sự năm 1995, khoản 2 Điều
31 của Luật Đất đai năm 1993. Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Thị S với ông Trần Quốc A đầy đủ các tài liệu, đảm bảo trình tự, thủ tục
theo quy định theo Điều 10, 11 Nghị định s17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999
của Chính phủ. Nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định tại các Điều 130,
131, 132, 133, 693, 694, 695 của Bluật Dân snăm 1995; khoản 2 Điều 75
của Luật Đất đai năm 1993; Điều 8 Nghị định 17/1999. Xét thửa đất số 1027
tài sản riêng của Võ Thị S nên S đầy đủ quyền của người sử dụng đất
được quy định tại Điều 3, Điều 30, Điều 73 của Luật Đất đai năm 1993. Sau khi
nhận chuyển nhượng, ông Trần Quốc A đã tiến hành đổ đất nâng nền, S
các con của S không ai khiếu nại nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đã hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 692, 696 của Bộ luật
Dân sự năm 1995. Bà S cho rằng ông A chưa giao đủ số tiền chuyển nhượng cho
nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời trình bày
này. Do đó, Toà án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
Thị Nhật T về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất ngày
18/02/2003 giữa Thị S với ông Trần Quốc A hiệu giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu, là đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét việc Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số X 136128 ngày 12/6/2003 cho hộ ông Trần Quốc A đối với thửa đất số
1088, tờ bản đồ số 16, diện tích 85m
2
tại xã B và cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ cấp GCN: 00641/2302/2003QĐ-UB(H) ngày 25/12/2003 cho
hộ Thị S tại thửa đất số 1107, tờ bản đồ s43, diện tích 140m
2
, tại B
thì thấy rằng: tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 41/CN ngày
18/02/2003 giữa Thị S với ông Trần Quốc A đã ghi nhầm thửa đất số
1027, tờ bản đồ số 16, B thực tế trên địa bàn B không thửa đất số
1027, tờ bản đồ số 16. Ngày 12/6/2003, Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Trần Quốc A đối với thửa đất số
1088 (thửa đất thêm), tờ bản đồ số 16 theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, là sai số tờ bản đồ. Đồng thời, ngày 22/8/2003, Võ Thị S có đơn xin
đăng ký quyền sử dụng đất, tại phần kê khai đăng quyền sử dụng đất S
khai thửa 1107, tờ bản đồ số 43, diện tích 140m
2
, loại đất T, là bao trùm cả phần
diện tích 85m
2
đất mà bà S đã chuyển nhượng cho ông A. Ngày 25/12/2003, Ủy
ban nhân dân huyện B cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ S
đối với 1027, tờ bản đồ số 12 thành thửa đất số 1107, tờ bản đồ số 43, xã B, diện
tích 140m
2
, loại đất T5 Xét thấy, việc Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng
11
nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Trần Quốc A tại thửa đất số 1088, bản đồ số
16 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà S tại thửa đất số 1107,
tờ bản đồ số 43, diện tích 140m
2
không đúng theo quy định tại mục 3 phần II
Thông số 304/TT-ĐKTK ngày 28/10/1989 của T7; mục IV.1 mục IV phần I
Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/21998 của Tổng Cục địa chính
Điều 106 của Luật Đất đai 2013. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm tuyên huỷ các Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên để cấp lại cho đúng, đúng quy định
của pháp luật.
[3] Đối với nội dung kháng cáo của nguyên đơn Thị Nhật T không
đồng ý với kết quả định giá không đồng ý chịu tiền chi phí tố tụng, Hội đồng
xét xử thấy: tại phiên kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày
05/9/2023, bà Võ Thị S và bà Thị Nhật T đều có mặt, đã thống nhất lựa chọn
tổ chức thẩm định giá Công ty TNHH T6. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn không được chấp nhận nên Toà án cấp thẩm buộc nguyên đơn phải chịu
toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ chi phí định giá tài sản, đúng
theo quy định tại khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165 của Bộ luật Tố tụng Dân
sự.
[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy Toà án cấp thẩm
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Nhật T
có cơ sở. Tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn
Nguyễn Thị Thanh T1 đề nghị huỷ bản án thẩm nhưng những do
đưa ra đề nghị huỷ án là không căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử không
chấp nhận. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn
Thị Nhật T như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Do toàn bộ nội dung kháng cáo không được chấp nhận nên bà Thị
Nhật T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của
Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án plệ phí Tòa
án.
[6] Các quyết định khác còn lại của Bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị nên không xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự,
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Võ Thị Nhật T; giữ
nguyên Bản án dân sự thẩm số 22/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
Áp dụng khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
12
các Điều 131, 132, 133, khoản 2 Điều 400, Điều 691, 692, 693, 694, 695 của Bộ
luật Dân sự năm 1995; Điều 3, Điều 30, Điều 31, khoản 2 Điều 75 của Luật Đất
đai năm 1993; Điều 8, 10, 11 Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của
Chính phủ quy định về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại, thừa kế quyền sử dụng đất thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng
đất; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Võ Thị
Nhật T về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
số 41/CN ngày 18/02/2003 giữa Thị S với ông Trần Quốc A hiệu
yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
2. Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 136128, số vào sổ
cấp Giấy chứng nhận s02222/QSDĐ/số 41/CN/2003(H) do Ủy ban nhân dân
huyện B cấp ngày 12/6/2003 cho hộ ông Trần Quốc A đối với thửa đất số 1088,
bản đồ số 16, diện tích 85m
2
, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy
chứng nhận số 00641/2302/2003-UB(H) do Ủy ban nhân dân huyện B cấp
ngày 25/12/2003 cho hThị S đối với thửa đất số 1107, tờ bản đồ số 43,
diện tích 140m
2
, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
4. Các đương squyền, nghĩa vụ liên hệ với các quan Nnước
thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký kê khai quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật về đất đai.
5. Về chi phí tố tụng: Thị Nhật T phải chịu 25.500.000đồng chi phí
tố tụng. T đã nộp tạm ng 17.500.000đồng, ông Trần Quốc A đã nộp tạm
ứng 8.000.000đồng. Đã chi pxong. Võ Thị Nhật T phải hoàn trả cho ông
Trần Quốc A số tiền 8.000.000đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án về khoản
tiền phải thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành án thì hàng
tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi
suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với
thời gian chưa thi hành án.
6. Án phí phúc thẩm: bà Thị Nhật T phải chịu 300.000đồng án phí dân
sự phúc thẩm, được khấu trừ tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số
0004246 ngày 04/9/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi.
7. Các quyết định khác còn lại của Bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
13
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thothuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 của
Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Cục THADS tỉnh Quảng Ngãi;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu: HSVA, P HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Trần Thị Kim Liên
Tải về
Bản án số 14/2025/DS-PT Bản án số 14/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 14/2025/DS-PT Bản án số 14/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất